Trích đăng

Trong căn phòng của kẻ ngốc – Trích “Bây giờ mình đi đâu”

“Đọc Nguyễn Hoàng Mai, ta lạc. Ta lại nhớ mình đã từng thất lạc nhiều điều. Ta gặp nhiều nhân vật lạ lùng. Huyền ảo, ma quái, điên rồ, khờ khạo, viễn tưởng… Một thế giới mà lạc vào đó ta không chắc chắn một điều gì. Chỉ có một điều mà ở đó, ta thấy họ có vẻ giống hệt ta. Rằng họ mất mát. Mất mát từ ấu thơ đến cuối đời.”- Nhà văn Nhật Chiêu.

Published

on

Trích từ: Bây giờ mình đi đâu

Tác giả: Nguyễn Hoàng Mai

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 2.2019

*

Anh đã nhìn trộm em từ lâu lắm rồi. Một tay em chống cằm, một tay xoay xoay cây bút chì nhỏ, áo sơ mi trắng và lọn tóc mai lơ thơ ánh màu trong nắng. Trông em đẹp đến mức trái tim anh phát run. Anh muốn làm em bất ngờ nên đi vòng ra phía sau, tính nhấc bổng em trong cánh tay anh. Nhưng anh đứng lại đó, anh cứ ngắm nhìn em mãi. Liệu rằng em có trông thấy anh chăng?

Anh đứng nép mình sau cửa tủ, và nín thở lén nhìn. Em đang vẽ phác một cánh đồng hoa trên trang giấy trắng, đó là nơi chốn thần tiên chúng ta mơ về, hay em đang nghiên cứu cách thức làm món canh ngon dành cho hắn vậy? Em vẫn còn yêu hắn quá chừng? Anh không biết, anh cứ suy nghĩ mãi. Em vẽ gì mà đăm chiêu quá. Một vệt mồ hôi rất nhỏ, theo đường chân tóc đang chảy dần trên trán em, lan xuống gò má, sắp sửa chạm trên những lọn tóc mai mỏng mảnh.

Anh thương quá, muốn đến gần em hơn nhưng bỗng dưng anh sợ hãi, rất sợ hãi.

Anh sợ sẽ mất em ngay trong vòng tay anh.

Chuông đồng hồ vừa điểm sáu tiếng. Có phải đã đến giờ em làm cơm cho hắnkhông? Hắn lại không về, anh biết chắc hắn lại không về. Em đang làm một việc vô vọng rồi đấy nhé, đừng chờ đợi nữa. Anh lẩm nhẩm, đừng chờ đợi thêm nữa, em có nghe anh nói? Em vừa xoay đầu lại, em có nghe tiếng anh đang nói.

Phải. Không?

Đã bao ngày anh sống trong căn nhà này, chứng kiến em đợi chờ hắn. Anh không thể chịu đựng được khi nhìn em như thế. Em gầy đi trông thấy, hơi thở cứ hao mòn đi trông thấy. Làm sao đây nếu tất cả điều này cứ cứa vào da thịt anh từng nhát, từng nhát. Là lỗi do anh? Sao anh cứ linh cảm tất thảy đều là lỗi của anh hết vậy. Đau đớn quá, anh ngồi thụp xuống, vòng tay ôm lấy đầu mình. Nước mắt anh ứa ra trong kẽ tay, thấm nhòa mọi thứ. Anh không muốn điều đó, mọi người vẫn bảo anh mau nước mắt như trẻ con.

Anh không phải là một đứa trẻ yếu đuối. Nhưng mọi người cứ vin vào cớ ấy để trêu chọc anh. Và anh vin vào cớ ấy để không ngừng nổi giận với mọi việc, mọi thứ xung quanh mình. Anh là một đứa trẻ bất mãn từ khi còn nhỏ.

Cho đến khi em đến, anh chưa từng bắt gặp điều gì khiến trái tim anh dịu dàng như thế.

Anh đã tìm thấy em trên cánh đồng đầy cỏ xanh mướt sau nhà. Sau một cánh chuồn chuồn trắng, anh đã tìm thấy em với đôi chân trần đang quỳ xuống. Em đang mải mê tìm kiếm một thứ gì anh không biết. Khi em ngoảnh mặt lại, nhìn về phía anh, anh biết rằng mình đã yêu và luôn chờ đợi em. Những ngày sau đó em cứ theo anh luôn luôn. Em bảo thích nghe anh kể chuyện. Anh kể với em về mẹ và về ba, những người mà mỗi lần trong câu chuyện lại mang một hình dáng khác. Mặc kệ điều đó, em vẫn cứ lắng nghe say sưa. Có một ngày em bảo, sao anh không thử viết đi.

Bây giờ anh ngồi đây, trong bối rối không nhớ nổi mình là ai, không biết mình đến từ nơi nào, mà chắc cũng không cần nhớ về điều đó. Anh không nhất thiết phải cố gắng, vì điều đó luôn làm anh quá đau đớn. Ý nghĩ duy nhất tồn tại khiến trái tim anh luôn ngọt ngào là cuối cùng anh đã tìm được em, sau bao nhiêu năm anh lại tìm thấy em.

Yêu em. Anh đã viết điều đó ở mọi nơi anh đến. Anh dùng tay viết điều đó lên tường nhà, lên cánh cửa tủ, anh viết điều đó trong không trung, anh phải ghi khắc tất cả trong trái tim mình. Sự viết luôn làm anh thỏa mãn, và đau đớn, đôi khi. Nhưng không sao ngừng được. Anh không ngưng lại được, như một dạng ma túy. Vì chính em ngày đó đã cho anh dũng khí để đắm mình. Nhưng bây giờ em nỡ bỏ anh sao?

Khi anh vướng rồi, ngày từng ngày cứ đốt cháy mình trong mê mải. Ở nơi chốn hư vô ấy, anh không biết rốt cuộc có tìm thấy điều gì thuộc về mình? Anh không biết một ngày, liệu có thể tạo nên điều tốt đẹp nào cho thế giới? Cho thế giới? Anh nhớ em vẫn cười mỗi khi nghe anh nói về điều đó. Em cười bao dung trước những ý nghĩ ngây ngô đó của anh. Em luôn là người duy nhất để anh chia sẻ những ước vọng thầm kín ấy. Tiếng cười của em giờ trôi nổi nơi đâu rồi. Nuối tiếc quá, giờ đây anh chỉ muốn được một lần chạm khẽ nó thôi.

Chuông đồng hồ đã điểm sáu tiếng rồi đó. Em vẫn ngồi ở đấy. Có phải hy vọng đã mỏi mòn rồi chăng? Không có cuộc dạo chơi trên cỏ nào, hắn đã thất hứa một cách nhẫn tâm và bỏ quên em rồi, em thấy chưa? Giờ này hắn chỉ toan tính cho chính mình, đi gặp bạn bè, những người thân để lo lắng chuyện xuất hành trở về quê nhà. Vì hắn đã bất lực rồi, chán nản rồi, những dự tính không như ý muốn. Hắn không còn tin tưởng vào ước mơ của em và hắn nữa. Hắn phản bội em rồi, em thấy không? Vậy thì quên hắn đi, quên luôn cuộc đợi chờ mòn mỏi ấy đi. Em nghe anh không, đừng ở lại trong căn phòng đó nữa, hãy ra ngoài. Đi bất kỳ đâu cũng được, anh đã giải thoát cho em rồi, van em đấy, xin hãy đi đi.

Đột nhiên anh ngưng lại. Đôi mắt anh đỏ ngầu lên, anh không hề chắc chắn về những lời nói của chính mình. Cổ họng anh khô buốt, đột nhiên anh lại khóc.

Nhưng liệu quên một người rồi, em có bao giờ cảm thấy một khoảng không trong suốt đang từ từ xâm lấn nơi trái tim? Một khoảng trống bàng hoàng cứ kéo dài ra mãi khiến mọi thứ quanh em trở nên mơ hồ và không chắc chắn. Khiến cho mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt tự tin của em bây giờ chỉ còn là sự tưởng tượng. Thế giới bị bóp méo đến khôn cùng. Nếu như vết thương đó không bao giờ lành lặn được… Anh nghĩ ra rồi, anh hứa sẽ sửa chữa giúp em. Một chút nữa thôi anh sẽ bước đến bên em. Anh muốn dành cho em sự bất ngờ ngọt ngào nhất, đi vòng sau em, nhấc bổng em trên cánh tay.

Em sẽ ngả vào vòng tay anh. Mái tóc em đang chảy trên ngực anh mềm mại. Anh cứ vuốt ve những làn tóc em mãi. Chẳng có điều gì trên đời làm anh hạnh phúc hơn thế nữa.

Anh sẽ chạm vào bờ môi em. Những ngón tay anh cứ miết nhẹ lên mi mắt, anh muốn lưu giữ cảm giác này. Anh muốn giữ sự ấm áp này mãi mãi. Hắn ta đã chết, anh thì thầm một cách ghê rợn và đắc ý khi đang từ từ cúi xuống. Từ nay em được giải thoát. Anh đã giết hắn. Tên phản bội. Một nhát. Chết tươi. Anh mỉm cười sung sướng quá, từ nay em không phải chờ đợi thêm nữa. Nếu em cảm thấy buồn thì đã có anh bên em. Anh đã lần lữa đến quá lâu rồi nhỉ.

Nhưng bây giờ, anh đến, liệu rằng em có chấp nhận anh không?

Anh cúi xuống và hơi thở ướt mềm của em phả lên đầy mặt, lan dần lên tóc tai làm trái tim anh xây xẩm. Anh muốn hít mãi thứ hương thơm dịu ngọt ấy, và bây giờ anh không muốn ai khác chạm vào em nữa. Ích kỷ. Anh đã ghen tuông? Anh thừa nhận, anh xấu tính, nhưng lần này anh sẽ không để mất em.

Vào sinh nhật thứ mười bảy, anh nói rằng có một nơi tự do mà anh có thể viết, còn em thì vẽ những điều em muốn. Năm vừa tròn hai mươi tuổi, chúng ta đã cùng nhau trốn đi. Anh đã rất thực tế khi chọn thuê căn phòng lọt thỏm trong một xóm lao động nghèo, tăm tối. Chính anh chọn nơi ấy, chỉ vì muốn dành nhiều tiền nhất có thể. Vì anh đã vạch ra một kế hoạch dài hơi và trường kỳ, vì anh hừng hực quyết tâm nên chẳng hề bận lòng đến việc em đã sợ hãi đến mức phải khóc ra sao.

Anh im lặng đến đáng sợ khi hai gã thợ xưởng rèn cạnh nhà cứ trêu ghẹo em mãi, họ nói những lời thô thiển. Anh cho rằng đó là chữ nhẫn của người làm việc lớn. Anh ngây thơ và đơn giản nghĩ rằng, anh cao thượng khi cho phép mọi người được choáng ngợp trước vẻ kiều diễm của em. Hay tại vì anh đã quá yếu đuối và đớn hèn? Chỉ cần thêm chút ít thời gian nữa, anh nhắc lại với em như thế, khi em van nài anh đừng để em ở nhà buổi tối. Chúng ta chỉ cần một ít thời gian nữa để thoát khỏi nơi đây vĩnh viễn. Em hiểu không?

Khi môi hai chúng ta chạm nhau em đã nói rằng, em biết. Em không trách và cũng không giận anh, chỉ vì anh ước mơ. Mơ ước của anh quá lớn cho cả anh và em. Đến một cánh đồng đầy hoa trắng. Anh đã trằn trọc suốt đêm với ý muốn xây một ngôi nhà ở đó. Với một nụ cười tinh quái trên môi em nói rằng em biết nhiều hơn anh tưởng đấy. Em đã nhìn thấy những kế hoạch ấy, em vẫn nhớ tất cả. Em đã hiểu tất cả. Phải rồi, từ bây giờ, em chỉ cần có anh thôi.

Em đã nói rằng em đến cuộc đời này vì có anh, chỉ điều ấy làm anh sung sướng ngây ngất. Vì em bao dung với anh như một đứa trẻ, một lần nữa, anh lại lờ đi lời xin lỗi em đã thoát ra đầu môi. Chỉ muốn kể mãi cho em nghe về giấc mơ của anh và của em.

Khi chúng ta còn là những đứa trẻ con, anh vẫn thường ngoái đầu qua vai, xem em vẽ những đồng hoa rực rỡ. Từ lúc cười và trêu em, đến một ngày anh cũng bắt đầu tin mình sẽ đến được nơi đó. Đến một ngày anh bắt đầu tin chúng ta sẽ sống cùng nhau ở một nơi tươi đẹp đến thế. Lúc ngắm nhìn em vẽ, anh đã toan tính đến chuyện sẽ đi cùng em vào cái ngày hai ta lớn lên.

Anh chỉ là một đứa trẻ cô đơn ngay từ lúc ra đời. Anh đã sống trong một căn nhà rộng lớn, nơi có ông nội, chú, dì, có tất cả mọi người không hề hiểu anh ở đó. Anh là một đứa trẻ yếu ớt, ở trường luôn luôn bị cô lập, ở nhà cũng không thể nói chuyện với bất kỳ ai, nên lúc nào trông cũng thẩn thơ, tư lự một mình trên cánh đồng cỏ.

Người ngoài có thể không biết, những lúc ấy, anh đang cố gắng thương lượng cùng với mây trắng đó. Có thể em cũng không biết đâu, phải tốn biết bao công sức, những đám mây trên bầu trời rộng lớn kia mới nhượng lòng gửi em đến cho anh…

Chuông điện thoại vừa reo. Anh ngẩng mặt lên, choàng tỉnh. T đã kết thúc chưa? Đầu bên kia róng riết. Anh không hiểu gì cả, anh không biết người đó là ai cả, mà em, em lại trốn đi đâu mất rồi?

Tỉnh lại đi, có khi T điên loạn rồi. Thời kỳ ngủ đông kết thúc rồi. T nhớ không?

Anh đã trốn chạy, năm hai chín tuổi anh đã bỏ trốn một lần nữa. Trốn khỏi quê nhà, khỏi sự ràng buộc của gia đình, công việc nhàm chán, và những mối quan hệ giả dối để đến nơi đây. Hành trang anh đem theo là rất nhiều giấy tập, bút chì và những cuốn sách, và những giấc mơ ngày xưa của anh và của em đấy. Cuối cùng, em thấy không, những bản thảo của anh ngày ấy lại được in. Sau rất nhiều năm tháng nhọc nhằn, anh đã chứng minh rằng anh có thể.

Năm ba mươi lăm, với một chút tiếng tăm, anh quyết định đánh cược vào một dự án dài hơi. Anh nhớ lại tập bản thảo năm mười bảy tuổi. Giờ đây anh hoàn toàn tin chắc mình có thể khai thác được khoảng thời gian ngây thơ và đầy mơ mộng ấy. Anh đã bàn bạc với bạn gái một cách hồ hởi và kỹ lưỡng để chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Bắt đầu từng bước một, thuê một căn phòng yên tĩnh, sắm sửa đồ đạc và cắt đứt những mối liên lạc. Thời nay chẳng ai làm thế cả, cô ấy thắc mắc nhưng cũng chiều theo anh. Cô ấy gọi đùa đó là thời kỳ ngủ đông.

Anh nào biết trong căn phòng này anh lại tìm thấy em. Em lại trở về bên anh, hiển hiện với hình dáng trưởng thành, xinh đẹp hơn cả trong hồi ức. Ban đầu anh chỉ muốn ngắm nhìn như một cách hoài niệm về ký ức cũ, như một chút thương hại anh muốn nhắc em rằng, nhắc với chính mình rằng, những cánh đồng hoa là không có thực. Không có gì như giấc mơ của một đứa trẻ mười bảy tuổi đâu. Nhưng em lại nhắc cho anh biết rằng anh đã luôn yêu em nhiều đến mức nào. Trái tim anh vẫn luôn chứa một khoảng trống lớn như thế nào khi không có em ở bên.

T điên rồi, tỉnh lại đi. Tỉnh lại đi. Đó là ảo giác. Đến hạn nộp bản thảo rồi đấy. Kết thúc đi. Đầu dây bên kia nói.

Kết thúc đi. Mau đi.

***

Anh mở choàng mắt, tỉnh hẳn dậy với gương mặt đã hằn sâu những thay đổi của thời gian. Cuối cùng anh đã nhớ ra tất cả. Anh vớ lấy cây bút chì nhọn, nhón chân lên hộc tủ cao nhất. Lục tìm. Những trang giấy trắng ken kín chữ. Những trang bút chì đầy non nớt. Anh đỏ mắt nhìn nó. Những vệt son hãy còn lưu dấu ở đó. Mắt anh hoa lên. Trở ngược đầu bút, anh bắt đầu tẩy, tẩy, tẩy…

Anh nhìn thấy em lần cuối, hình bóng em đang nhạt nhòa dần, dần, dần. Chuyện gì xảy ra thế? Anh bắt đầu nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau khi em bảy tuổi, anh bảy tuổi. Anh đã hứa rằng anh mãi bên em cơ mà. Anh đã hứa rằng anh sẽ bảo vệ em cơ mà. Những điều ấy anh đã hứa khi thương lượng cùng với bầu trời đầy mây trắng.

Vào ngày đó anh đã đi tìm em mãi, căn phòng anh trở về chẳng còn em ở đó. Anh đi tìm em ở cánh đồng, nơi buổi sáng ấy chúng ta đã cùng hẹn nhau. Anh đã thất hứa, nhưng cũng ngờ em không đợi. Anh đã trách tội em bỏ đi mà không nói một lời nào, thậm chí anh đã nổi giận với cả bầu trời…

Anh đã luôn là một đứa trẻ yếu ớt và ngốc nghếch, nhưng bây giờ anh có thể, có thể. Anh với lấy cây bút chì nhọn đầu, bắt đầu vạch những nét hằn trên trang giấy trắng. Đôi tay anh run lên, đôi mắt anh đỏ ngầu. Mồ hôi chảy ròng trên trán. Anh yêu em. Anh không thể ngừng lại được, không sao quên được, anh đã hứa dùng toàn vẹn cơ thể này để yêu em.

Có hình bóng hai người từ sau lưng ập tới khi anh đang say sưa viết. Anh nhíu mày lại, mùi mồ hôi rất nồng, lẫn trong hơi rượu mạnh sực nức lên, bàn tay họ đầy cáu ghét, hai người bọn họ đang nói vài câu thô tục, bàn tính một điều gì đó. Anh đỏ ngầu mắt khi trông thấy họ. Anh nhận ra họ, bóng hình của hai gã thợ xưởng rèn nhà gần bên. Họ đang bước tới từ đằng sau lưng em, khi em đang chống cằm và vẽ phác những cánh đồng hoa rực rỡ nắng, khi em đang mỉm cười. “Máu!” Anh ấp úng, dùng hết sức kêu thét lên với một niềm kinh hãi hoảng loạn đang dâng trào trong tâm trí.

-Hết-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng