Trích đăng

Mặt trăng và pin, trích chương 1 “Chiếc cặp” – Hiromi Kawakami

“Trong dòng chảy văn xuôi yên bình, thấm đẫm vẻ đẹp thiên nhiên nhấn mạnh nỗi cô đơn của cả hai nhân vật, Kawakami đã tinh tế nắm bắt các hình thái của sự cô đơn trong khi cân nhắc định nghĩa về tình yêu.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

[Chương 1] Chiếc cặp

Trích từ: Chiếc cặp – Giải văn học Tanazaki 2001

Tác giả: Hiromi Kawakami

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 3.2019

Mặt trăng và pin

Tên đầy đủ của ông ấy là Harutsuna Matsumoto nhưng tôi thường gọi ông là “Sensei” mà không là “Mr” hay “Sir”, chỉ đơn giản là “Sensei”.

Sensei là giáo viên tiếng Nhật của tôi ở trường trung học. Không phải giáo viên chủ nhiệm và tiếng Nhật cũng chẳng phải môn tôi ưa thích, nên thật sự tôi chẳng có mấy ấn tượng về ông. Từ khi tốt nghiệp, đã lâu rồi chúng tôi chưa gặp lại.

Nhiều năm trước, chúng tôi từng ngồi cạnh nhau trong quán bar đông đúc cạnh nhà ga, rồi sau đó thi thoảng đôi ba lần hội ngộ. Tối hôm đó, ngồi bên quầy, tấm lưng ông thẳng đến mức gần như trũng vào thành hình lòng chảo.

Kiếm cho mình chỗ ngồi tại quầy bar, tôi gọi món “cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men, củ sen chiên giòn và hành muối”, trong khi người đàn ông lớn tuổi ngay cạnh tôi gọi hầu như cùng lúc “hành muối, củ sen chiên giòn, cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men”. Khi liếc nhìn qua và bắt gặp tức thì ánh nhìn trực diện, tôi bất giác tự nhủ rằng hình như gương mặt này không xa lạ.

Sensei mở lời:

“Xin lỗi, có phải Tsukiko Omachi?”

Do bất ngờ nên tôi chỉ gật đầu đáp lại.

“Tôi đã nhìn thấy em đến đây một vài lần”, Sensei nói.

“Vậy ạ”. Tôi trả lời có phần lơ đãng trong khi vẫn nhìn ông. Mái tóc trắng của Sensei được cẩn thận vuốt ngược ra sau, trên người mặc chiếc sơ-mi trắng phẳng phiu cùng vest xám. Trên mặt quầy trước mặt ông có chai rượu sake, dĩa bày lát mỏng thịt cá voi khô và chén có một ít rong biển mozuku1. Tôi tò mò về người đàn ông có cùng sở thích với mình, và rồi hình ảnh người thầy giáo đứng trên bục giảng lững lờ trôi qua tâm trí tôi.

Sensei luôn vừa cầm giẻ lau trong tay vừa viết lên bảng. Những dòng phấn trắng thoắt hiện ra như câu đầu tiên trong tùy bút Makura no Sōshi của Sei Shōnagon: “Bình minh đẹp nhất là vào mùa xuân”, rồi lại bị xóa mất đi sau chưa đầy năm phút. Ngay cả khi quay xuống giảng bài cho học trò của mình, ông vẫn cầm khư khư miếng giẻ lau như thể nó bị dính chặt vào tay trái vậy.

“Thật không bình thường khi thấy phụ nữ ngồi một mình ở nơi như thế này”, Sensei vừa nói vừa khéo léo rưới nước xốt miso trộn giấm lên lát cá voi khô cuối cùng và thưởng thức.

“Dạ vâng”, tôi cũng rót bia vào ly của mình. Tôi nhận ra ông là giáo viên trung học cũ nhưng không tài nào nhớ nổi tên ông. Vì thế, khi thấy ông lại có thể nhớ rõ tên học trò mình đến vậy, nỗi ngạc nhiên trong tôi còn pha lẫn cả sự bối rối sau ly bia nốc cạn.

“Em không thắt bím tóc như khi còn là nữ sinh trung học à?”

“Dạ vâng.”

“Tôi nhận ra em ngay khi nhìn thấy đấy.”

“Vậy ạ.”

“Năm nay em đã ba mươi tám rồi nhỉ?”

“Ba mươi bảy thôi ạ.”

“Tôi xin lỗi.”

“Không có gì.”

“Tôi đã ghi nhớ các học trò của mình dựa theo sổ sách và kỷ yếu.”

“À…”

“Nhìn em không khác lúc đi học là mấy.”

“Sensei cũng vậy.” Tôi gọi ông là “Sensei” để che giấu việc không nhớ nổi tên thầy và cứ mãi gọi ông như vậy.

Tối hôm đó, chúng tôi uống tổng cộng năm bình rượu sake, tiền do Sensei thanh toán. Lần tiếp theo chúng tôi gặp nhau ở quầy rượu và đến phiên tôi trả tiền. Lần thứ ba và những lần sau đó, chúng tôi chia đều hóa đơn, thật tự nhiên như chính cái sở thích làm khách quen những quán rượu của cả hai. Không chỉ có cùng thú vui ẩm thực, chúng tôi còn đồng điệu về tích cách. Mặc cho khoảng cách hơn ba mươi tuổi, tôi vẫn cảm thấy thân thuộc với ông hơn bạn bè cùng trang lứa.

Tôi đã đến nhà Sensei nhiều lần. Ban đầu, chúng tôi chỉ uống ở quán rượu, nhưng cũng có một vài lần địa điểm đổi trao chén rượu là tại nhà của Sensei.

“Tôi sống ở gần đây, em có muốn ghé qua?” Sensei nói vậy vào lần đầu tiên mời tôi thăm nhà, và tôi cảm thấy đôi chút rụt rè. Tôi nghe nói rằng vợ ông đã mất. Đến nhà một người đàn ông góa vợ có vẻ chẳng hay ho gì, nhưng một khi đã bắt đầu uống rượu thì tiếng nói lý trí không còn đủ mạnh, vì vậy tôi nối bước đi cùng ông.

Căn nhà bừa bộn hơn tôi tưởng tượng. Tôi cứ nghĩ nơi này sẽ chỉn chu hơn là hình ảnh đồ đạc chất đống ở mọi góc tối. Ngay gian lớn trải thảm tĩnh mịch là một chiếc ghế dài cũ kỹ nằm bất động và không có dấu hiệu nào của những quyển sách, xấp giấy trắng phẳng phiu hay vài tờ báo rải rác như ở phòng trải chiếu tatami kề bên.

Sensei bày chiếc bàn thấp ra và lấy một bình rượu sake lớn từ mớ bề bộn ở góc phòng. Ông rót đầy tràn hai cái ly nhỏ có kích cỡ khác nhau.

“Xin mời”, Sensei nói trước khi quay lưng đi vào bếp. Căn phòng trải chiếu tatami nhìn ra một khu vườn. Chỉ có một trong những cánh cửa xếp để mở. Qua cánh cửa kính tôi có thể thấy hình dáng những cành cây ẩn hiện mơ hồ. Kiến thức thực vật học không đủ để giúp tôi nhận biết chúng là cây gì, trừ khi bản thân chúng là giống cây biết trổ hoa.

“Trong vườn có những loài cây gì vậy ạ?” Tôi hỏi Sensei ngay khi ông mang ra một cái khay đựng những miếng cá hồi khô, kaki-no-tane và bánh gạo.

“Chúng đều là cây anh đào đó”, ông đáp.

“Tất cả luôn ư?”

“Đúng rồi, tất cả. Vợ tôi rất thích chúng.”

“Hẳn chúng rất đẹp vào mùa xuân.”

“Giờ đây chúng đang chung sống cùng lũ côn trùng. Vào mùa thu, lá vàng rơi rụng khắp nơi, còn mùa đông những cành cây khô trơ trụi và ảm đạm”, Sensei nói một mạch mà không có bất kỳ thái độ chán ngán nào.

“Mặt trăng tối nay như lặn đi đâu mất.” Nửa mảnh trăng lờ mờ đang treo lơ lửng trên bầu trời.

Sensei lấy một cái bánh gạo và nghiêng chiếc ly nhỏ để đổ sake vào. “Vợ tôi không phải kiểu người suy tính quá nhiều.”

“Dạ vâng.”

“Bà ấy chỉ yêu những gì mình yêu, ghét những gì mình ghét.”

“À.”

“Kaki-no-tane này là từ Niigata, có vị rất cay và ngon miệng.”

Bánh gạo giòn rụm khá hợp với rượu sake. Tôi ngồi nhấm nháp và im lặng hồi lâu, lắng nghe tiếng ríu rít trên ngọn cây bên ngoài của chú chim lạc bầy nào đó, lá cây rung lên xào xạc, rồi không gian lại trở nên yên ắng.

“Có tổ chim nào ngoài vườn không?” Tôi hỏi, nhưng không nhận được hồi đáp. Tôi quay lại, thì ra Sensei đang chăm chú vào một tờ báo. Không phải báo ngày hôm nay mà là tờ báo ông đã lôi ra ngẫu nhiên từ mớ giấy tờ rải rác khắp nơi. Ông ấy đang đọc trang tin tức nước ngoài có ảnh một người phụ nữ trong bộ đồ tắm, và dường như quên mất sự hiện diện của tôi.

“Sensei”, tôi gọi, nhưng ông vẫn không phản ứng, có vẻ như đang hoàn toàn tập trung.

“Sensei,” tiếng gọi của tôi lớn hơn. Sensei ngước nhìn lên.

“Tsukiko muốn đọc báo không?” Ông đột ngột hỏi, rồi không đợi tôi trả lời, Sensei đặt tờ báo để mở trên sàn chiếu tatami, trượt tấm cửa kéo đi vào phòng kế bên. Khi quay lại, ông mang theo vài thứ từ thư phòng, là những miếng gốm nhỏ. Sensei đi qua đi lại giữa các căn phòng.

“Chúng đây rồi.” Khóe mắt Sensei nheo lại, cẩn thận xếp những mảnh gốm lên sàn chiếu tatami. Chúng có quai cầm, cái nắp và một cái vòi. “Nhìn chúng kìa!”

“Em thấy rồi.” Nhưng đó là gì? Tôi nhìn chằm chằm vào chúng, suy nghĩ xem đã từng thấy thứ gì giống vậy trước đây chưa. Là một chiếc ấm trà? Nhưng chúng quá nhỏ.

“Đó là những cái ấm trà trên đường ray”, Sensei nói.

“Ấm trà trên đường ray ư?”

“Từ những chuyến đi của tôi. Tôi đã mua cơm hộp ăn trưa ở nhà ga hoặc trên tàu đi kèm với những chiếc ấm trà này. Bây giờ toàn là ấm nhựa, nhưng họ đã từng sử dụng và bày bán loại ấm bằng gốm như thế này.”

“Tôi từng có hàng dài hơn chục chiếc ấm. Một số có màu hổ phách, còn lại có màu nhạt hơn, và có hình dạng khác nhau. Cái thì có vòi lớn, cái có quai cầm lớn, cái này có nắp bé tẹo, cái kia lại có thân tròn mập mạp”.

“Sensei sưu tầm chúng?” Tôi hỏi, và ông lắc đầu.

“Tôi chỉ mua kèm theo các hộp cơm trưa khi rong ruổi trên những chuyến tàu.”

“Cái này là từ năm tôi bắt đầu học đại học, khi du lịch quanh Shinshu. Còn đây là lúc tôi đến Nara cùng đồng nghiệp trong kỳ nghỉ hè – hai chúng tôi xuống tàu ở điểm dừng để ăn trưa, và đoàn tàu khởi hành ngay khi chúng tôi chuẩn bị quay trở lại! Cái kia thì được mua ở Odawara vào tuần trăng mật của tôi – vợ tôi mang nó suốt cả chuyến đi, gói bằng giấy báo và nhồi trong đống quần áo hành lý để nó không bị vỡ”, Sensei vừa giải thích vừa chỉ vào từng cái ấm xếp hàng cạnh nhau. Tôi chỉ biết gật gù và lí nhí vài câu nói cho mỗi câu chuyện kể.

“Em từng nghe nói một số người có sở thích sưu tầm những thứ thế này.”

“Trong đó có em không?”

“Tất nhiên là không rồi! Em chưa bao giờ nghĩ đến!”.

Khóe mắt nheo lại, Sensei tiếp tục câu chuyện của mình, “Tôi chỉ đơn giản cho em xem những thứ tôi lưu giữ trong suốt thời gian rất dài.”

“Tôi dường như không thể vứt bỏ bất cứ thứ gì”, Sensei nói, đi vào phòng bên cạnh và lần này mang theo vài túi nhựa nhỏ.

“Xem này…”, ông mở nút thắt một chiếc túi nhựa, lấy ra một đống pin cũ bên trong. Trên thân chúng còn in dấu của những nhãn hiệu. Ông cầm một trong số đó trên tay.

“Pin này là từ năm xảy ra cơn bão vịnh Ise. Cơn bão đã tấn công Tokyo khủng khiếp hơn mọi dự báo và tưởng tượng, và mùa hè đó tôi đã tận dụng hết lượng pin dự trữ cho đèn pin.”

“Máy cassette có chức năng ghi âm đầu tiên tôi mua yêu cầu tám cục pin loại C. Tôi dùng chúng để nghe những bản giao hưởng của Beethoven nhiều lần, và số lượng pin dùng hết chỉ trong vài ngày! Tất nhiên khó lưu trữ cả bộ tám cục pin, vì vậy tôi quyết định chỉ nhắm mắt giữ lại một”.

“Tôi thấy thương đống pin bị tận dụng triệt để nhằm phục vụ lợi ích của mình nên chẳng đành lòng vứt chúng đi. Cảm thấy thật tủi hổ khi ném chúng vào sọt rác ngay khi chúng đã hoạt động hết công suất, sau khi chúng chiếu sáng đèn cho tôi, ngân vang thứ âm nhạc tôi ưa thích.”

“Em không nghĩ vậy sao, Tsukiko?” Sensei nhìn tôi chằm chằm khi đưa ra câu hỏi.

Tôi tự hỏi trả lời thế nào đây, khi tôi vẫn đang theo quán tính lẩm ba lẩm bẩm lại những câu tẻ nhạt của mình. Ngón tay tôi chạm vào một cục pin đã gỉ sét và ẩm ướt hiệu Casio trong số hàng tá pin đủ mọi kích cỡ.

“Mặt trăng đã xuống thấp thật rồi”, Sensei nhỏ giọng. Mặt trăng đã sáng rõ trở lại từ đám mây.

“Hương vị trà đựng trong những chiếc ấm này chắc là ngon lắm”, giọng nói của tôi cũng trở nên nhẹ nhàng hơn.

“Vậy dùng trà nhé?” Sensei gợi ý và vươn cánh tay lục tìm xung quanh vị trí của bình rượu sake lớn, cuối cùng lôi ra được một hộp trà. Ông đặt một ít lá trà vào chiếc ấm màu hổ phách, sau đó rót nước nóng vào từ một chiếc bình giữ nhiệt cũ cạnh bàn.

“Một người học trò đã tặng tôi bình giữ nhiệt này, xuất xứ từ Mỹ. Nước đã nấu từ hôm qua mà giờ vẫn còn ấm được thế này, ngạc nhiên làm sao.”

Sensei rót trà vào hai cái ly nhỏ mà chúng tôi uống rượu sake trước đó và xoa xoa chiếc bình giữ nhiệt như bảo vật. Chắc chắn còn dính chút rượu trong ly của tôi, bởi vì trà có một hương vị lạ lùng. Men rượu cộng hưởng thêm trà, tôi bỗng muốn nhìn rõ hơn khung cảnh xung quanh mình.

“Sensei, em có thể tham quan nơi này không?” Và không đợi trả lời, tôi bắt đầu khám phá những thứ bừa bộn trong căn phòng trải chiếu tatami. Có giấy vụn. Một bật lửa Zippo cũ. Gương bỏ túi. Có ba chiếc cặp da màu đen lớn, mỗi cặp đều được gấp lại. Chúng đều giống nhau. Có những cánh hoa. Một cái bàn giấy. Và thứ gì đó bằng nhựa màu đen có hình dạng chiếc hộp, trên đó còn có một cây kim.

“Cái này là gì?” Tôi hỏi, nhấc chiếc hộp màu đen lên.

“Để tôi xem… À, đó là vật thử nghiệm.”

“Vật thử nghiệm?” Tôi lặp lại, khi Sensei nhẹ nhàng cầm lấy chiếc hộp đen từ tay tôi và lục tìm bên trong. Có một sợi dây màu đen và một sợi dây màu đỏ, ông gắn chúng vào vật thử nghiệm đó. Cả hai sợi đều còn một đầu dây nối nữa.

“Như thế này”, Sensei nói, nối đầu còn lại của sợi dây màu đỏ và sợi dây màu đen với cục pin có dòng chữ Electric Shaver.

“Thấy không, Tsukiko, nhìn vào đây!” Vì cả hai tay đều bận, Sensei vừa ra hiệu bằng cằm vừa chỉnh lại vật thử nghiệm này. Cây kim trên đó rung lên. Ông dịch chuyển mối dây ra khỏi cục pin và cây kim vẫn chuyển động, kết nối tiếp tục và nó lại rung lên.

“Vẫn còn một chút năng lượng sót lại phải không?” Sensei nhẹ nhàng nói. “Không đủ sức để vận hành một động cơ, nhưng trong đó vẫn tồn tại một ít sự sống.”

Sensei đo từng loại pin với máy thử đó. Hầu hết chúng không khiến cây kim chuyển động, một số lại cho kết quả khả quan. Mỗi lần như vậy, ông ấy lại thốt lên vui vẻ.

“Dấu hiệu bé nhỏ nhất của cuộc sống,” tôi kết luận, và Sensei gật đầu trong vô thức.

“Nhưng cuối cùng chúng cũng tê liệt cả thôi”, giọng ông đầy vẻ mỏi mệt như vọng lại từ nơi nào xa lắm.

“Chúng sẽ trải qua cuộc đời này bên trong tủ quần áo.”

“Đúng như vậy.”

Cả hai chúng tôi ngồi yên một lúc, lặng lẽ thưởng lãm mặt trăng ở trên cao, cho đến khi Sensei cắt đứt bầu không khí này bằng câu nói đầy hứng khởi, “Chúng ta sẽ uống thêm ly nữa chứ?”, và nhanh chóng rót rượu sake.

“Ối, vẫn còn một ít trà trong ly.”

“Sake pha với trà?”

“Nhưng rượu sake không cần phải pha với bất kỳ hương vị gì trên đời cả.”

“Không sao đâu, Sensei.”

Tôi vừa nói vừa dốc cạn ly rượu sake chỉ trong một ngụm, trong khi Sensei vẫn đang nhấm nháp. Trên kia, mặt trăng chiếu rực rỡ thứ ánh sáng của đêm.

Đột nhiên, bằng chất giọng rõ ràng, truyền cảm, Sensei ngâm nga:

Ánh sáng bàng bạc trên sông

Xuyên qua hàng liễu Từ Ono trên những bãi ngầm.

“Cái gì vậy, một bài kệ ư?” Tôi hỏi.

Sensei thoáng tức giận. “Tsukiko à, em chưa bao giờ chú ý trong lớp Ngữ văn Nhật Bản đúng không?”

“Sensei đâu dạy tụi em bài đó đâu!”

“Đó là thơ của Seihaku Irako”, Sensei giảng giải.

“Em chưa bao giờ nghe về Seihaku Irako”, tôi lẩm bẩm và tự rót sake vào ly của mình.

“Thật không bình thường khi phụ nữ tự rót rượu cho mình”, Sensei xét nét.

“Ồ, Sensei đúng là người của thế hệ trước thật rồi!” Tôi cãi lại.

“Thì đúng vậy mà!” Ông càm ràm và cũng rót đầy ly rượu của mình.

Rồi tiếp tục bài thơ dang dở:

Từ Ono trên những bãi ngầm

Một cây sáo xuyên màn sương

Chạm vào trái tim lữ khách.

Mắt ông nhắm nghiền, như thể chính ông cũng đang chìm đắm vào âm điệu ngâm nga. Tôi nhìn chăm chú vào đám pin trên sàn. Chúng bất động trong thứ ánh sáng nhợt nhạt đang bao phủ. Mặt trăng lại một lần nữa khuất dạng trong mây mù.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Rong biển mozuku: loại rong biển màu nâu đậm, được thu hoạch vào mùa xuân nhiều nhất ở Okinawa (ND).

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng