Trích đăng

Chương 1 “Đừng nói chúng ta không lợi quyền” – Madeleine Thien

Madeleine Thien dẫn dắt người đọc đi sâu vào cuộc sống đầy biến động của một gia đình Trung Hoa qua hai thế hệ tiếp nối nhau: thế hệ những người sống qua cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông giữa thế kỷ XX, rồi đến đời con cái của họ – những sinh viên tham gia biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn (1989), Hành trình của hai cô gái trẻ Marie và Ai-Ming không chỉ ráp nối lại từng mảnh ghép của câu chuyện gia đình, mà còn dần hé lộ những bi kịch của một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Trung Quốc, khi mỗi người nghệ sĩ phải đấu tranh với chính cái tôi của mình để sống còn, giữ vững lòng trung thành và cống hiến cho nền âm nhạc mà mình đang theo đuổi.

Published

on

[Trích đoạn Chương 1] Đừng nói chúng ta không lợi quyền

Trích từ: Đừng nói chúng ta không lợi quyền

Tác giả: Madeleine Thien

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 1.2019

*

Trong vòng một năm, cha bỏ chúng tôi hai lần. Lần đầu tiên là khi ông kết thúc cuộc hôn nhân, và lần thứ hai, là khi ông tự kết liễu mình. Vào năm 1989 đó, mẹ tôi bay tới Hồng Kông và đưa cha tôi về an nghỉ ở một nghĩa trang gần biên giới Trung Quốc. Sau đấy, lòng rối bời, bà vội vã trở về nhà ở Vancouver nơi tôi đang ở một mình. Khi đó tôi mười tuổi.

Đây là những gì tôi nhớ:

Cha tôi có khuôn mặt đẹp trai không tuổi; ông là một người tử tế nhưng u sầu. Ông đeo kính không gọng và tròng kính mang lại ấn tượng là chúng chỉ lơ lửng ngay trước mặt ông như tấm màn mỏng nhất. Đôi mắt ông nâu sẫm, thận trọng và bất an; ông chỉ mới 39 tuổi. Cha tôi tên là Jiang Kai và ông sinh ra tại một làng nhỏ ngoại vi Trường Sa[1]. Sau này, khi tôi biết được rằng cha tôi là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng ở Trung Quốc, tôi nghĩ đến cách những ngón tay ông gõ trên bàn bếp, cách chúng nhẹ gõ qua mặt bàn và trên đôi cánh tay mềm của mẹ tôi cho tới tận đầu những ngón tay, khiến bà phát điên và khiến tôi bùng lên niềm vui thú. Ông đặt cho tôi tên tiếng Trung là Jiang Li-ling và tên tiếng Anh là Marie Jiang. Khi ông mất, tôi mới chỉ là một đứa trẻ, và cho dù có rời rạc và không chính xác thì một vài ký ức vẫn là tất cả những gì tôi có về ông.

Tôi không bao giờ để mất chúng.

Trong những năm tháng tuổi hai mươi, những năm tháng khó khăn sau khi cả cha mẹ tôi đều đã mất, tôi toàn tâm toàn ý dành thời gian cho quan sát số, giả thuyết, lô-gích và chứng minh, đây là những công cụ mà các nhà toán học chúng tôi dùng không chỉ để diễn giải, mà còn đơn giản là để mô tả thế giới. Suốt chục năm qua tôi là giáo sư tại Đại học Simon Fraser, Canada. Các con số cho phép tôi di chuyển giữa một lượng lớn không tưởng và một lượng nhỏ vô cùng, cho phép tôi sống một cuộc đời biệt lập khỏi cha mẹ tôi, khỏi những giấc mơ không được hồi đáp của họ, và như tôi từng nghĩ, để sống cuộc đời của chính tôi.

Mấy năm trước, hồi năm 2010, trong khi đi dạo nơi phố Tàu ở Vancouver, tôi đi qua một tiệm bán đĩa DVD. Tôi nhớ rằng trời đang đổ mưa và trên vỉa hè không có ai. Tiếng nhạc cổ điển vang lên từ hai cái loa vĩ đại nằm bên ngoài tiệm. Tôi biết bản nhạc đó, bản Xô-nát số 4 dành cho dương cầm và vĩ cầm của Bach, và tôi bị kéo về phía bản nhạc một cách mãnh liệt như thể ai đó đang dùng tay kéo tôi lại. Bản hòa âm mang nhà soạn nhạc, các nhạc công và thậm chí cả sự im lặng lại với nhau, bản nhạc ấy, với những con sóng xoắn ốc từ nỗi buồn và lòng oán giận là tất cả những gì tôi nhớ.

Choáng váng, tôi dựa vào lớp kính.

Và rồi đột nhiên tôi đang ở trong xe ô-tô với cha tôi. Tôi nghe tiếng mưa văng lên lốp và tiếng cha tôi hát nho nhỏ.

Ông sống động quá, thương yêu quá, đến nỗi sự khó hiểu về việc ông tự sát lại một lần nữa khiến tôi buồn ghê gớm. Lúc đó cha tôi đã mất được hai thập kỷ, và mảnh ký ức về ông tinh nguyên đến như vậy chẳng bao giờ trở lại với tôi nữa. Khi ấy tôi ba mươi mốt tuổi.

Tôi đi vào tiệm. Người nghệ sĩ dương cầm với cái tên Glenn Gould xuất hiện trên màn hình phẳng: ông và Yehudi Menuhin đang trình diễn bản xô-nát của Bach mà tôi đã nhận ra. Glenn Gould đang cong mình trên chiếc dương cầm, ông mặc bộ lễ phục sẫm màu và đang nghe những giai điệu vượt quá tầm mà phần lớn chúng ta có khả năng cảm nhận, ông ta… quá đỗi thân thuộc đối với tôi, giống như cả một ngôn ngữ, cả một thế giới mà tôi đã quên.

Vào năm 1989, cuộc sống trở thành một chuỗi những việc cần thiết hàng ngày đối với mẹ con tôi: đi làm và đi học, xem ti-vi, ăn, ngủ. Lần ra đi đầu của cha tôi xảy đến cùng lúc với những sự kiện quan trọng diễn ra ở Trung Quốc, mẹ tôi chăm chăm xem tin tức về những sự kiện đó trên kênh CNN. Tôi hỏi bà những người biểu tình đó là ai, bà nói rằng họ là sinh viên và dân thường. Tôi hỏi liệu cha tôi có ở đó, và bà nói “Không đâu, đó là Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh.” Các cuộc biểu tình khiến hơn một triệu người dân Trung Quốc xuống đường bắt đầu vào tháng Tư, khi cha vẫn sống với chúng tôi, và tiếp tục đến sau khi ông biến mất để tới Hồng Kông. Và rồi, vào ngày 4 tháng Sáu, cũng như những ngày, rồi những tuần sau đó, mẹ tôi khóc. Tôi ngó bà hết đêm này đến đêm kia. Cha đã rời khỏi Trung Quốc vào năm 1978 và bị cấm quay trở lại. Nhưng sự khó hiểu của tôi gắn liền với những điều tôi có thể thấy: đó là những hình ảnh hỗn loạn và khủng khiếp của người và xe tăng, và hình ảnh mẹ tôi trước màn hình.

Mùa hè năm đó cảm tưởng như một giấc mơ, tôi tiếp tục các bài học thư pháp ở trung tâm văn hóa gần nhà, dùng bút lông và mực sao chép thơ tiếng Trung, hết dòng này đến dòng khác. Nhưng những từ tôi có thể nhận ra được không nhiều, những từ như Đại, Tiểu, Nữ, Nguyệt, Thiên. Cha tôi nói tiếng Quan Thoại còn mẹ nói tiếng Quảng Đông, nhưng tôi chỉ rành tiếng Anh. Hồi đầu, những hình ghép tiếng Trung dường như là một trò chơi hay thú vui, nhưng rồi việc không hiểu được bắt đầu gây trở ngại cho tôi. Tôi viết đi viết lại những ký tự mà tôi không thể đọc được, càng viết càng lớn cho tới khi phần mực thừa làm ướt đẫm tờ giấy mỏng rồi xé mất tờ giấy. Tôi chẳng quan tâm. Tôi không đến lớp nữa.

Vào tháng Mười, hai sĩ quan cảnh sát đến cửa nhà chúng tôi. Họ báo cho mẹ biết rằng cha đã đi rồi, và rằng văn phòng điều tra ở Hồng Kông sẽ lo trường hợp này. Họ nói cái chết của cha là do tự sát. Sau đó, sự im lặng trở thành một người nữa sống trong nhà chúng tôi. Nó ngủ trong tủ đồ cùng với áo, quần và giày của cha, nó bảo vệ những bản nhạc của Beethoven, Prokofiev và Shostakovich, đám mũ, chiếc ghế bành và chiếc cốc đặc biệt của cha. Im lặng chuyển vào tâm trí chúng tôi và dữ dội như biển cả trong mẹ con tôi. Mùa đông năm đó, Vancouver thậm chí còn xám hơn và ướt át hơn lệ thường, như thể làn mưa là chiếc áo len dày mà chúng tôi không thể cởi ra được. Tôi đi ngủ mà vẫn chắc rằng đến sáng, cha sẽ đánh thức tôi dậy như ông luôn làm, giọng ông kéo tôi ra khỏi giấc ngủ, cho tới khi ảo tưởng trộn lẫn với mất mát và gây đau đớn hơn nhiều cảm xúc mang tới trước đó.

Tuần theo tuần trôi qua, và năm 1989 chuyển thành 1990. Mẹ con tôi ăn tối trên ghế xô-pha mỗi tối vì không có chỗ trên bàn ăn. Giấy tờ pháp lý của cha tôi bao gồm các chứng chỉ đủ loại và chứng nhận khai thuế đã được sắp xếp, nhưng các giấy tờ linh tinh vẫn còn. Khi mẹ kiểm tra căn hộ triệt để hơn, các giấy tờ khác được tìm thấy, bao gồm các bản nhạc, một nắm thư từ cha tôi viết nhưng chưa từng gửi (ví dụ như “Chim Sẻ ơi, em không biết liệu lá thư này có tới được với anh không, nhưng…”), và ngày càng nhiều những cuốn sổ. Khi tôi thấy những món đồ này cứ tăng lên, tôi hình dung mẹ tin rằng cha sẽ tái sinh trong một khối hình bằng giấy. Hoặc có thể là giống như tổ tiên mình, bà tin rằng chữ viết trên giấy là bùa hộ mệnh và bằng cách nào đó có thể bảo vệ chúng tôi khỏi nguy hại.

Hầu hết các đêm, mẹ ngồi với đám giấy tờ trong khi vẫn mặc nguyên đồ công sở.

Tôi cố gắng không làm phiền bà. Tôi ở trong phòng khách sát bên và thỉnh thoảng nghe thấy trang giấy giở gần như không phát ra tiếng động.

Nghe thấy hơi thở yên lặng của bà.

Nghe thấy mưa rào chảy xuống khung cửa sổ.

Chúng tôi bị ngưng lại trong dòng thời gian.

Hết lần này đến lần khác, chiếc xe buýt điện số 29 ồn ào chạy qua.

Tôi tưởng tượng ra những cuộc nói chuyện. Tôi cố hình dung cha tái sinh ở thế giới bên kia, đang mua một cuốn nhật ký mới, dùng một loại tiền mới, và nhét tiền thừa vào túi chiếc áo khoác mới, chiếc áo nhẹ làm từ lông vũ, hoặc có thể là áo trùm làm bằng lông lạc đà, áo này đủ chắc cho cả thiên đàng và thế giới bên kia.

Trong lúc đó, mẹ tôi làm mình sao lãng bằng việc cố gắng tìm gia đình của cha tôi để báo cho họ biết rằng người con trai, người anh hay người chú đã mất tích từ lâu của họ không còn sống trên đời này nữa, bất kể họ đang ở đâu. Bà bắt đầu với việc tìm kiếm người cha nuôi của cha, ông từng sống ở Thượng Hải và được biết đến như là “vị Giáo sư”. Ông là người thân duy nhất cha từng nhắc đến. Công cuộc tìm kiếm thông tin diễn ra chậm chạp và nhẫn nại; thời đó chưa có thư điện tử hay mạng Internet, vì thế việc mẹ gửi thư đi thì dễ nhưng khó nhận được câu trả lời chính xác. Cha tôi đã rời Trung Quốc từ lâu và nếu Giáo sư vẫn còn sống, ông phải già lắm rồi.

Bắc Kinh mà chúng tôi thấy trên ti-vi với những nhà xác và những gia đình đau buồn, với xe tăng đóng ở mỗi ngã tư, trang bị đầy súng trường, là một thế giới khác xa với Bắc Kinh mà cha tôi từng biết. Tuy thế, thỉnh thoảng tôi nghĩ, cuối cùng thì cũng không khác nhau nhiều lắm.

Vài tháng sau, tháng Ba năm 1990, mẹ đưa cho tôi xem cuốn Những Bản Ghi. Đêm hôm đó, mẹ ngồi chỗ quen thuộc nơi bàn ăn, đọc cuốn sổ. Cuốn sổ trong tay bà dài và hẹp, kích thước như một cánh cửa nhỏ. Cuốn sổ có một sợi dây cô-tông màu hồ đào buộc hờ lại.

Quá giờ đi ngủ của tôi đã lâu, đột nhiên mẹ để ý thấy tôi.

“Có việc gì với con thế hả!” Bà nói. Và rồi, bối rối bởi chính câu hỏi của mình, bà tiếp: “Con đã làm xong bài tập về nhà chưa? Mấy giờ rồi?”

Tôi đã làm xong từ lâu lắm, và giờ đang xem một bộ phim kinh dị tắt tiếng. Tôi vẫn còn nhớ đó là cảnh một người đàn ông vừa bị giết bằng một chiếc cuốc băng. “Nửa đêm rồi ạ,” tôi nói, thất thần vì ông ta đã mềm như bún.

Mẹ tôi đưa một tay ra và tôi tới chỗ bà. Bà ôm một tay quanh eo tôi, siết chặt. “Con có muốn xem thứ mẹ đang đọc không?”

Tôi nghiêng người qua cuốn sổ và chăm chú nhìn đám chữ. Các ký tự tiếng Trung chạy xuống trang giấy như những dấu chân thú trên tuyết.

“Đó là một câu chuyện,” mẹ nói.

“Thế ạ. Thể loại gì ạ?”

“Mẹ nghĩ đó là tiểu thuyết. Một người ưa mạo hiểm tên là Da-wei giong buồm về châu Mỹ và một nữ anh hùng tên là May Fourth[2] đi bộ qua sa mạc Gobi…”

Tôi cố gắng hơn nữa nhưng những từ ngữ vẫn không thể đọc được.

“Ngày xưa người ta sao nguyên cả quyển sách bằng cách chép tay,” mẹ nói. “Người Nga gọi đó là ‘samizdat’, còn người Trung Quốc gọi là… ờ, mẹ không nghĩ là mình có một từ riêng cho việc đó. Con nhìn xem cuốn sổ này bẩn chưa, có cả ít cỏ trên sổ nữa. Ai mà biết được bao nhiêu người đã mang cuốn sổ tới những nơi nào… cuốn sổ này tuổi đời hơn con mấy chục năm đấy, Li-ling.”

Tôi tự hỏi có thứ gì ít tuổi hơn mình không? Rồi tôi hỏi bà liệu có phải cha đã sao chép cuốn sổ.

Mẹ lắc đầu. Bà nói chữ viết đẹp lắm, phải từ một nhà thư pháp tài giỏi, chứ chữ viết của cha thì chỉ tàm tạm thôi. “Cuốn sổ này là một chương của một cuốn sách dài. Ở đây có ghi ‘Số 17’. Không thấy ghi tên tác giả, nhưng con xem này, có tựa đề là ‘Những Bản Ghi’”.

Bà đặt cuốn sổ xuống. Trên bàn ăn, giấy tờ của cha chất đống như những đợt sóng bạc đầu lao về phía trước, như muốn lao khỏi mặt bàn mà đổ xuống mặt thảm. Tất cả đám thư từ của chúng tôi cũng nằm đó. Từ năm mới đến nay, mẹ bắt đầu nhận được thư từ Bắc Kinh, đó là những lời chia buồn của các nhạc công trong Dàn nhạc Giao hưởng Trung ương, mãi gần đây họ mới biết về cái chết của cha. Mẹ đọc những lá thư này với quyển từ điển trong tay bởi chúng được viết bằng tiếng Trung Giản thể, kiểu chữ mẹ chưa từng học. Mẹ tôi được giáo dục ở Hồng Kông, bà học chữ tiếng Trung truyền thống. Nhưng ở đại lục, trong những năm 1950, một bảng chữ mới đơn giản hơn đã trở thành luật tại Trung Hoa Cộng sản. Hàng ngàn từ đã thay đổi; ví dụ, từ “viết” đổi từ 寫 thành 写, từ “biết” đổi từ 識 thành 识. Thậm chí từ “Đảng Cộng sản” cũng đổi từ 共產黨 thành 共产党. Đôi khi mẹ nhìn ra được từ cũ, còn lại mẹ đoán nghĩa. Bà bảo giống như là đọc một lá thư từ tương lai hoặc nói chuyện với một người quay lưng về phía mình vậy. Đã thế còn thêm phức tạp vì thực tế là hiếm khi bà đọc tiếng Trung nữa, bà chủ yếu bộc lộ suy nghĩ bằng tiếng Anh. Bà không thích tiếng Quan Thoại của tôi vì bà nói “Trọng âm của con méo mó hết thảy.”

“Ở đây lạnh quá,” tôi thì thầm. “Mẹ con mình mặc đồ ngủ rồi vào giường đi mẹ.”

Mẹ nhìn cuốn sổ chằm chằm, không nghe thấy.

“Đến sáng mẹ sẽ bị mệt đấy,” tôi khăng khăng. “Mẹ sẽ ngủ gà gật tới hai chục lần cho xem.”

Mẹ mỉm cười nhưng đôi mắt sau cặp kính căng lại vì điều gì đó. “Đi ngủ đi con,” bà nói. “Đừng thức chờ mẹ.”

Tôi hôn gò má mềm mại của bà. Bà hỏi, “Nhà sư nói gì với thợ làm bánh pizza?”

“Nói gì ạ?”

“Làm cho tôi một cái đầy đủ các thứ.”

Tôi cười lớn, rên rỉ rồi lại cười lớn, đoạn rùng mình khi nghĩ đến nạn nhân trong bộ phim trên ti-vi, nghĩ đến làn da trắng bệch của ông ta. Mỉm cười, bà kiên quyết dùng khuỷu tay đẩy tôi ra.

Nằm trên giường, tôi cân nhắc mấy điều thực tế.

Điều đầu tiên là ở lớp Năm mà tôi đang theo học, tôi là một người khác hẳn. Tôi rất thuần hậu, biết cư xử và đạt kết quả tốt đến nỗi tôi phải tự hỏi liệu bộ não và linh hồn mình có tách biệt không.

Điều thứ hai là tại những nước nghèo hơn, người như mẹ con tôi sẽ không cô đơn đến thế này. Trên ti-vi, những nước nghèo đông đúc lắm, họ là những chiếc thang máy quá tải đang cố vươn lên trời cao. Người ta ngủ tới sáu người chung một giường và cả tá người chung một phòng. Ở đó bạn có thể luôn nói lớn suy nghĩ của mình, yên tâm là sẽ có ai đó nghe thấy bạn kể cả nếu họ không muốn. Thật ra, cách trừng phạt một người chắc là loại bỏ họ khỏi gia đình và bè bạn, cô lập họ ở một đất nước lạnh lẽo và phá vỡ họ bằng nỗi cô đơn.

Điều thứ ba không phải là một thực tế mà là một câu hỏi:

Vì sao tình yêu của chúng tôi lại không mấy ý nghĩa đối với cha?

Hẳn là tôi đã ngủ, vì thình lình tôi thức dậy và thấy mẹ đang khom người phía trên tôi. Ngón tay bà lau mặt tôi. Tôi chẳng bao giờ khóc vào ban ngày cả, chỉ đêm thôi.

“Đừng thế này, Li-ling,” mẹ nói. Bà lẩm bẩm nhiều thứ. Bà nói, “Nếu con bị mắc kẹt trong một căn phòng và không ai đến cứu con thì con có thể làm gì? Con phải đập mạnh vào tường và phá cửa sổ. Con phải trèo ra và cứu chính mình. Li-ling à, hiển nhiên là khóc không giúp người ta sống sót đâu.”

“Tên con là Marie,” tôi gào. “Là Marie!”

Bà mỉm cười. “Con là ai?”

“Con là Li-ling!”

“Con là Nữ.” Bà dùng tên ở nhà cha gọi tôi, vì chữ “nữ” vừa có nghĩa là nữ, vừa có nghĩa là con gái. Ông thích nói đùa là ở nơi ông sinh ra, người nghèo còn chẳng buồn đặt tên cho con gái họ. Mẹ sẽ đánh vào vai ông và nói bằng tiếng Quảng Đông, “Đừng tiêm nhiễm mấy thứ vớ vẩn vào đầu óc con bé.”

Được bảo bọc trong vòng tay mẹ, tôi cuộn mình vào giấc ngủ một lần nữa.

Sau đó tôi thức giấc nghe tiếng mẹ lẩm bẩm dòng suy tư và bà đang cười nhẹ. Sáng mùa đông thật tối tăm, nhưng tiếng cười bất chợt của mẹ cắt ngang phòng như tiếng kêu của chiếc máy sưởi điện. Da bà thơm mùi gối sạch và mùi kem hương hoa mộc tê ngọt ngào mà bà dùng.

Khi tôi thì thầm tên bà, bà lẩm bẩm, “Ha.” Rồi sau đó, “Ha ha.” Tôi hỏi bà, “Mẹ đang bước đi trên đất liền hay dưới biển vậy?”

Với vẻ rất khác lạ, bà nói, “Ông ấy đây rồi.”

“Ai cơ ạ?” Tôi cố nhìn trong bóng tối của căn phòng. Tôi thực sự tin là ông ấy ở đây.

“Người nhận nuôi. Người… Ừm… Vị Giáo sư đó.”

Tôi nắm chặt tay bà. Phía bên kia tấm màn cửa, bầu trời đang đổi màu. Tôi muốn theo bà đi vào quá khứ của cha, vậy nhưng tôi không tin được. Người ta có thể đi xa vào ảo tưởng, họ có thể thấy điều gì đó quá thu hút khiến họ không màng quay lại. Tôi sợ rằng giống như cha, bà sẽ không còn nhớ lý do để về nhà nữa.

Cuộc sống bên ngoài, từ việc bắt đầu năm học mới, các bài kiểm tra thường kỳ, đến các trại toán học đầy vui thú, vẫn tiếp tục như thể chưa từng dừng lại, cuộc sống ấy được lái về phía trước bởi các mùa vòng đi vòng lại. Áo hè và áo đông của cha vẫn chờ đợi bên cánh cửa, bên dưới mũ và phía trên giày của ông.

Sớm tháng Mười hai, một phong bì thư dày được gửi đến từ Thượng Hải, một lần nữa mẹ ngồi xuống với cuốn từ điển. Cuốn từ điển cỡ nhỏ, bìa cứng cực kỳ dày với lớp bìa màu xanh lá và trắng. Khi tôi giở sách, các trang trong mờ và nhẹ gần như không khí. Đây đó, tôi thấy một vệt dầu mỡ hoặc vết cà phê hình khuyên, chắc là do cốc cà phê của mẹ hoặc có thể của tôi cũng nên. Mỗi từ được viết dưới phần gốc của từ đó, hay còn gọi là ngữ căn. Ví dụ như từ 門 nghĩa là “môn” (cánh cổng), nhưng nó cũng là một ngữ căn, có nghĩa nó là một khối cơ sở xây nên các từ và khái niệm khác. Nếu ánh sáng, hay “nhật” 日, soi sáng qua “môn”, chúng ta có từ “không gian” 間. Nếu có chữ “mã” 馬 trong “môn”, nó có nghĩa là sự mai phục 闖, và nếu có chữ “khẩu” 口 trong “môn”, chúng ta có từ “câu hỏi” 問. Nếu có chữ “thị” (mắt) 目 và “cẩu” 犬 bên trong, chúng ta có từ “yên lặng” 闃.

Lá thư từ Thượng Hải dài ba mươi trang được viết bởi một bàn tay viết rối; sau vài phút tôi thấy mệt khi nhìn mẹ khó khăn đọc nó. Tôi đi ra phòng trước và chằm chằm nhìn sang hàng xóm. Ngang qua sân, tôi thấy một cây thông Noel khốn khổ. Trông như thể ai đó đã cố gắng làm cái cây ngộp thở bằng vòng kim tuyến.

Mưa trút xuống và gió thổi qua. Tôi mang cho mẹ một cốc kem trứng.

 “Thư mang tin tốt không ạ?”

Mẹ đặt những trang thư xuống. Hai mí mắt bà trông sưng lên. “Đây không phải là điều mẹ chờ đợi.”

Tôi đưa ngón tay chạy ngang qua phong bì và bắt đầu giải nghĩa tên người gửi. Cái tên đó khiến tôi ngạc nhiên. “Một phụ nữ ạ?” Tôi hỏi, đột nhiên thấy sợ.

Mẹ gật đầu.

“Bà ấy có một yêu cầu,” mẹ nói khi lấy phong bì từ tay tôi rồi đẩy nó xuống dưới mấy trang giấy. Tôi dịch lại gần mẹ hơn, như thể bà là một lọ hoa sắp rơi khỏi bàn, nhưng cặp mắt sưng tấy của mẹ mang một thứ cảm xúc không ngờ. Phải chăng là sự an ủi? Hay là, trước sự kinh ngạc của tôi, có lẽ nào đó là niềm hân hoan? Mẹ tiếp lời: “Bà ấy muốn xin một ân huệ.”

“Mẹ sẽ đọc lá thư cho con nghe chứ?”

Mẹ nhéo đầu sống mũi giữa hai mắt mình và nói. “Cả lá thư dài lắm. Bà ấy nói rằng đã nhiều năm rồi bà ấy không gặp cha con. Nhưng đã có lúc họ thân thiết như gia đình.” Mẹ ngập ngừng ở từ gia đình. “Bà ấy nói rằng chồng bà là giáo viên soạn nhạc của cha con ở Học viện Âm nhạc Thượng Hải. Nhưng rồi họ mất liên lạc với nhau trong những năm tháng khó khăn đó.”

“Những năm tháng khó khăn nào ạ?” Tôi bắt đầu nghi ngờ là cái ân huệ kia có liên quan đến đô-la Mỹ hoặc một cái tủ lạnh mới, và tôi sợ rằng bà sẽ bị lợi dụng.

“Trước khi con ra đời cơ, hồi những năm 1960. Khi cha con còn là một sinh viên nhạc.” Mẹ nhìn xuống với một biểu cảm không thể đọc được. “Bà ấy nói rằng năm ngoái cha con liên lạc với họ. Cha gửi thư cho bà ấy từ Hồng Kông vài ngày trước khi ông mất.”

Một chuỗi câu hỏi nảy ra trong tôi. Tôi biết mình không nên làm phiền bà nhưng cuối cùng chỉ vì muốn hiểu được câu chuyện, tôi hỏi, “Bà ta là ai ạ? Tên bà ta là gì?”

“Họ của bà ấy là Đặng.”

“Tên bà ta cơ ạ.”

Mẹ mở miệng nhưng không thốt ra lời nào. Cuối cùng, bà nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, “Tên bà ấy là Li-ling.”

Bà ta có cùng tên với tôi, chỉ có điều viết bằng tiếng Trung giản thể. Tôi với tay về phía lá thư. Mẹ kiên quyết đặt tay lên tay tôi. Chặn trước câu hỏi tiếp theo của tôi, bà nói tiếp, “Ba mươi trang thư này nói về hiện tại chứ không phải quá khứ. Con gái của Đặng Li-ling đã đến Toronto nhưng hộ chiếu của con bé không thể sử dụng được. Con gái bà ấy không có nơi nào để đi và bà ấy cần sự giúp đỡ của chúng ta. Con gái bà ấy…” Mau lẹ, bà đẩy lá thư vào trong bì thư. “Con gái bà ấy sẽ tới sống với chúng ta một thời gian. Con có hiểu không? Lá thư này là về hiện tại.”

Tôi cảm thấy ruột gan vặn xoắn và thế giới đảo lộn tùng phèo. Vì sao một người lạ lại sống cùng chúng tôi chứ?

“Con gái bà ấy tên là Ai-ming,” mẹ nói, ráng đưa tôi về thực tại. “Giờ mẹ sẽ đi gọi điện để sắp xếp cho con bé đến đây.”

“Con và cô ta có cùng tuổi không?”

Trông mẹ bối rối. “Không đâu con, cô ấy hẳn phải mười chín tuổi rồi và đang là sinh viên. Đặng Li-ling nói rằng con gái bà ấy… bà ấy nói rằng Ai-ming dính vào rắc rối ở Bắc Kinh trong thời gian biểu tình Thiên An Môn diễn ra. Con bé đã chạy trốn.”

“Rắc rối thế nào ạ?”

“Đủ rồi,” mẹ tôi nói. “Đó là tất cả những gì con cần biết.” “Không! Con cần biết nữa.”

Bực bội, mẹ đóng mạnh cuốn từ điển lại. “Ai nuôi con lớn thế hả? Con còn quá bé để tọc mạch thế này!”

“Nhưng mà…“

“Đủ rồi.”

Mẹ chờ cho tới khi tôi vào giường mới gọi điện. Bà nói bằng tiếng mẹ đẻ của mình, tiếng Quảng Đông, với một ít tiếng Quan Thoại chen vào, thậm chí qua cánh cửa đóng, tôi có thể nghe thấy giọng bà ngấp ngứ với những thanh dấu vốn chưa bao giờ trở thành một phần ngôn ngữ tự nhiên đối với bà.

“Nơi cháu đang ở có lạnh lắm không?” Tôi nghe mẹ nói.

Rồi tiếp: “Cháu sẽ nhận vé xe buýt của hãng Greyhound ở…”

Tôi bỏ kính xuống rồi trông ra ngoài cửa sổ mờ mịt. Mưa nhìn như tuyết. Giọng mẹ nghe như tiếng nước ngoài.

Sau một hồi lâu im lặng, tôi đeo lại kính qua tai, trèo ra khỏi giường và đi ra ngoài. Mẹ đang cầm cây bút trong tay, một đống hóa đơn nằm trước mặt bà như thể chờ để sai khiến. Bà thấy tôi và hỏi, “Dép của con đâu?” Tôi nói là tôi không biết.

Mẹ bùng nổ. “Vào giường đi Nữ! Sao con không hiểu hả? Mẹ chỉ muốn một chút yên bình thôi! Con không bao giờ để mẹ một mình cả, con cứ nhìn mẹ và cứ như là con nghĩ mẹ sẽ…” Bà đập cây bút xuống. Một số mảnh vỡ ra và lăn qua sàn nhà. “Con nghĩ mẹ sẽ rời bỏ à? Con nghĩ mẹ ích kỷ như cha con à? Con nghĩ sẽ có lúc mẹ bỏ rơi con và làm con tổn thương như ông ấy đã làm à?” Một từ tiếng Quảng Đông dài dữ dội bùng ra, rồi bà tiếp: “Đi về giường đi!”

Trông bà có tuổi và mong manh quá, ngồi đó với cuốn từ điển cũ nặng nề.

Tôi lao vào phòng tắm, đóng sầm cửa, mở ra, rồi đóng sầm lớn tiếng hơn, và đổ ra khóc. Tôi mở nước vào bồn, nhận ra rằng quả thực điều tôi thật sự muốn là đi về giường. Những tiếng nức nở của tôi trở thành tiếng nấc, và khi tiếng nấc cuối cùng cũng ngưng, tất cả những gì tôi nghe được là tiếng nước rơi xuống. Ngồi lên cạnh bồn, tôi ngắm chân mình méo đi dưới làn nước. Cặp chân xanh xao của tôi gập lại khi tôi nhúng mình xuống nước.

Người cha trong ký ức trở lại với tôi. Ông đẩy băng cát-xét vào máy chạy cát-xét, bảo tôi cuộn cửa sổ xuống, rồi chúng tôi chạy xe tới Main Street, dọc theo Great Northern Way, kèn vang theo bản Công-xéc-tô Hoàng Đế của Beethoven do Glenn Gould trình diễn dưới sự chỉ huy của Leopold Stokowski. Những nốt nhạc lộn xộn chảy xuống như thác và lên vô tận, cha tôi chỉ huy bằng tay phải trong khi lái xe bằng tay trái. Tôi nghe tiếng ông ngân nho nhỏ, đầy giai điệu và gõ nhịp: DA! DA-de-de-de DA!

Da, da, da! Tôi có cảm giác rằng khi chúng tôi diễu hành trong khúc khải hoàn ngang qua Vancouver, khúc nhạc đầu tiên được tạo ra bởi cha tôi chứ không phải Beethoven. Tay ông chuyển động theo nhịp 4/4, điểm nhấn treo ngang giữa nhịp bốn và nhịp một, và tôi tự hỏi việc một người đã từng nổi tiếng, từng trình diễn tại Bắc Kinh trước mặt chính Mao Trạch Đông mà thậm chí không có một chiếc dương cầm trong nhà mình, việc đó có thể hiểu như thế nào? Phải chăng ông kiếm tiền bằng công việc trong một cửa tiệm? Thực ra, mặc dù tôi đã nài nỉ được học chơi vĩ cầm, câu trả lời của cha tôi luôn là “không”. Vậy mà giờ chúng tôi đang ở đây, băng ngang thành phố, được bao trùm trong giai điệu chiến thắng này, để cho quá khứ của cả Beethoven và của cha tôi, chưa bao giờ chết mà chỉ phản chiếu lại bên dưới kính chắn gió, rồi trỗi dậy và bao phủ chúng tôi như vầng mặt trời.

Chiếc xe hiệu Buick đó không còn nữa vì mẹ đã bán nó rồi. Mẹ đã luôn là người mạnh mẽ hơn cha, giống như cây xương rồng trong phòng khách – cái cây trong nhà duy nhất còn sống sót sau sự ra đi của cha. Để sống thì cha tôi cần nhiều hơn nữa. Nước trong bồn phủ qua người tôi. Xấu hổ vì để phí nước, tôi vặn mạnh khóa nước vào. Cha tôi từng nói rằng âm nhạc tràn đầy những khoảng lặng. Ông không để lại gì cho tôi hết, không thư từ, không nhắn gửi. Không một lời.

Mẹ gõ cửa.

“Marie ơi,” bà nói. Mẹ vặn tay nắm nhưng cửa bị khóa.

“Li-ling ơi, con có ổn không?”

Một khoảng lặng dài trôi qua.

Sự thật là tôi đã yêu cha nhiều hơn thế. Nhận thức đó đến với tôi cùng lúc khi tôi biết mà không chút hồ nghi rằng cha hẳn đã phải đau đớn lắm, rằng mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi. Mẹ cũng đã yêu cha. Nước mắt rơi, tôi đặt hai bàn tay lên mặt nước. “Con chỉ muốn tắm thôi.”

“Ồ,” bà nói. Giọng bà dường như vang vọng lại trong chính chiếc bồn. “Đừng để bị lạnh trong đó nhé.”

Bà cố mở cửa lần nữa nhưng cửa vẫn khóa.

“Chúng ta sẽ ổn thôi,” cuối cùng bà nói.

Hơn tất thảy, tôi muốn đánh thức cả hai chúng tôi dậy khỏi giấc mơ này. Thay vì thế, tôi té nước một cách vô vọng lên dòng nước mắt của mình và gật đầu, “Con biết.”

Tôi lắng nghe tiếng dép của bà xa dần khi chúng rời đi.

Vào ngày 16 tháng 12 năm 1990, mẹ về nhà trong xe tắc-xi cùng với đứa con gái mới nhận, người đó không mặc áo khoác, chỉ quấn một chiếc khăn dày, mặc áo len, quần bò xanh và đi giày bằng vải bố. Trước đây tôi chưa từng gặp một cô gái người Trung Quốc – người cũng đến từ Trung Hoa đại lục giống cha tôi. Một đôi găng tay màu xám treo tòn ten từ một sợi dây quanh cổ cô ta, chúng lắc lư theo nhịp một cách căng thẳng trên đôi chân cô. Hai đầu chiếc khăn xanh viền tua, một ngã ra trước, một nằm phía sau, khiến cô trông giống như một học giả. Mưa đang rơi nặng hạt, cô ta bước đi, đầu cúi xuống, tay cầm chiếc va-li cỡ trung trông như trống rỗng. Cô ta xanh xao, tóc cô ta nhấp nhánh màu biển.

Tôi mở cửa ra như bình thường, mắt mở to như thể tôi không nghĩ có khách đến.

“Nữ ơi,” mẹ nói. “Cầm va-li đi con. Mau nào.”

Ai-ming bước vào nhà, dừng lại bên rìa thảm chùi chân. Khi tôi với tay cầm chiếc va-li, tay tôi tình cờ chạm tay cô ta, nhưng cô ta không rụt lại. Thay vì thế cô ta đưa bàn tay kia ra và nhẹ phủ lên tay tôi. Cô ta nhìn thẳng vào tôi với một sự cởi mở và hiếu kỳ đến mức khiến tôi xấu hổ mà nhắm mắt lại.

“Ai-ming à,” tiếng mẹ đang nói. “Để chị giới thiệu với em, đây là con gái của chị.”

Tôi rút tay ra và mở mắt.

Mẹ tôi vừa cởi áo khoác vừa liếc nhìn trước tiên là tôi, rồi đến căn phòng. Ghế xô-pha màu nâu với ba sọc màu lạc đà trông đã khá cũ, nhưng tôi đã trang hoàng nó với gối hoa và thú nhồi bông lấy từ giường tôi. Tôi cũng đã bật ti-vi lên để khiến căn phòng có diện mạo sống động hơn. Mẹ gật mạnh đầu với tôi. “Nữ à, chào cô con đi.”

“Ô kìa, cứ gọi em là Ai-ming là được rồi. Làm ơn ạ. Ừm, thật ra, em thích như vậy hơn.”

Để cả hai đều vừa lòng, tôi nói, “Xin chào.”

Đúng như tôi nghi ngờ, chiếc va-li rất nhẹ. Tay kia tôi đưa ra để cầm áo khoác cho Ai-ming, nhưng nhớ ra quá muộn là cô không mặc áo khoác. Tay tôi ve vẩy trong không khí như một dấu hỏi. Cô đưa tay ra nắm lấy tay tôi rồi bắt tay tôi thật chặt.

Đôi mắt cô dò hỏi. Tóc cô được ghim lại một bên và buông xõa phía bên kia, khiến cô tựa như luôn mãi ở góc nghiêng và đang chực quay sang tôi. Cô bỏ giày ra khỏi chân không một tiếng động trong khi vẫn nắm tay tôi, xong chiếc này đến chiếc kia. Những vệt mưa mờ đọng trên khăn của cô. Cuộc sống của chúng tôi đã thu nhỏ lại đến mức mà tôi không thể nhớ nổi lần cuối cùng một người lạ bước vào nhà chúng tôi là bao giờ nữa; sự hiện diện của Ai-ming khiến mọi thứ trở nên lạ lẫm, như thể những bức tường tụ lại gần hơn để ngó cô ấy. Đêm hôm trước, cuối cùng thì chúng tôi cũng đã xếp gọn giấy tờ, sổ sách của cha, đặt chúng vào các thùng rồi chất dưới bàn bếp. Giờ đây tôi thấy mặt bàn trống không đầy giả dối. Tôi lấy tay mình ra, bảo rằng tôi sẽ đặt va-li trong phòng cô ấy.

Mẹ chỉ cô đi xem quanh nhà. Tôi quay lại ghế xô-pha, giả vờ đang xem kênh Thời tiết, dự báo là mưa đến hết tuần, mưa đến hết năm 1990, mưa đến hết thế kỷ, thậm chí là đến hết phần còn lại của vô tận thời gian. Hai giọng nói vang lên tiếp nối nhau như những toa xe cáp treo, thi thoảng ngắt quãng bởi im lặng. Sự căng thẳng trong căn hộ trườn vào bên trong tôi và tôi có cảm giác rằng sàn nhà làm bằng giấy, rằng mọi chốn đều có chữ viết lên mà tôi không thể đọc được, và chỉ cần một cử chỉ không suy nghĩ cũng có thể nghiền nát toàn bộ nơi này.

Chúng tôi ngồi quanh bàn ăn tối cùng nhau. Mẹ đã bỏ đi một bên lá bàn, biến đổi chiếc bàn từ hình trứng sang hình tròn. Bà tự ngắt lời nói dông dài của mình để ném cho tôi một cái nhìn nói rằng, Thôi nhìn chằm chằm đi.

Thỉnh thoảng chân tôi lại tình cờ đá vào một trong những chiếc thùng dưới gầm bàn, khiến Ai-ming giật mình.

“Ai-ming, em có thấy trời lạnh không?” Mẹ nói một cách vui vẻ, lờ tôi đi. “Chính chị cũng chưa từng trải nghiệm mùa đông cho tới khi chị tới Canada.”

“Ở Bắc Kinh cũng có mùa đông nhưng em không thấy phiền. Thực ra nơi em lớn lên cách xa Bắc Kinh, nơi đó ở miền Nam nên nóng ẩm, vì vậy khi chuyển lên Bắc Kinh em mới biết cái lạnh là thế nào.”

“Chị chưa bao giờ đến thủ đô, nhưng chị nghe nói bụi bay đến từ các sa mạc phía tây.”

“Đúng ạ.” Ai-ming gật đầu, tươi cười. “Bụi dính vào quần áo với tóc, rồi cả vào đồ ăn thức uống nữa.”

Ngồi đối diện cô trên bàn, tôi có thể thấy cô đúng thực mười chín tuổi. Đôi mắt cô sưng tấy mệt mỏi, và không ngờ điều đó lại nhắc tôi nhớ tới khuôn mặt đau buồn của mẹ. Tôi nghĩ rằng, đôi khi bạn có thể nhìn một người và biết rằng họ chứa đầy từ ngữ. Có thể lời lẽ bị giữ lại vì nỗi đau hay sự riêng tư, hoặc là một sự lừa gạt. Có thể là những lời lẽ sắc như dao đang chờ rút máu. Tôi cảm giác như mình vừa là trẻ con vừa là người lớn. Tôi muốn mẹ con tôi được ở một mình, nhưng vì lý do nào đó không thể giải thích được, tôi cũng muốn được gần cô.

“Chữ ‘ming’ trong từ Ai-ming nghĩa là gì?” tôi hỏi bằng tiếng Anh, vừa đá một thùng để nhấn mạnh. “Chữ ‘ming’ có nghĩa là hiểu, hay nghĩa là số phận?” Cả hai người họ nhìn tôi.

“Ăn phần gà của con đi,” mẹ nói.

Người con gái quan sát tôi, vẻ mặt hài lòng. Cô vẽ một hình trong không trung giữa chúng tôi, 明 – “nhật” và “nguyệt” kết hợp lại nghĩa là hiểu biết hoặc sáng suốt. Đó là một từ thông dụng.

“Cha mẹ cô đặt tên theo nghĩa của từ aì-míng,” cô nói. “Nghĩa là ‘tôn vinh sự thông thái’. Nhưng cháu nói đúng, tiếng đó cũng chứa đựng hồ nghi. Nghĩa là… ừm, không phải là tôn vinh số phận đâu, mà là chấp nhận số phận.” Cô lại nhấc bát lên rồi thọc đầu đũa vào phần cơm mềm.

Mẹ hỏi xem cô có cần gì hoặc cô có muốn làm gì không.

Ai-ming đặt bát xuống. “Nói thật với chị, em có cảm tưởng như đã lâu lắm rồi không có lấy một giấc ngủ ngon. Em không thể nào nghỉ ngơi ở Toronto. Cứ mỗi vài tuần em lại di chuyển.” “Chuyển nhà à?” Mẹ hỏi.

Ai-ming run rẩy. “Em đã nghĩ là… em sợ cảnh sát. Em sợ họ sẽ gửi em về nước. Em không biết liệu mẹ em đã kể với chị hết mọi chuyện chưa. Em hi vọng vậy. Ở Bắc Kinh, em không làm gì sai cả, không phạm tội gì cả, nhưng kể cả thế… Dì và chú em giúp em rời khỏi Trung Quốc, em đi xuyên qua biên giới sang Kyrgyzstan và sau đó… chị mua vé cho em tới đây.

Bất chấp tất cả mọi điều, chị đã giúp em… Em rất biết ơn, em e là mình sẽ không bao giờ cảm ơn chị cho đủ. Em xin lỗi về mọi thứ…”

Trông mẹ ngượng ngùng. “Đây,” bà nói. “Ăn gì đi.”

Nhưng một thay đổi xuất hiện nơi Ai-ming. Hai tay cô run rẩy dữ dội đến nỗi không thể cầm đũa. “Mỗi ngày em nghĩ đi nghĩ lại về mọi chuyện nhưng em không thể hiểu nổi làm thế nào mình lại đến đây. Giống như em là một kẻ trốn chạy vậy. Ở nhà, mẹ em đang vật lộn. Em sợ giấc ngủ… đôi khi em mơ rằng tất cả những chuyện này không thật sự diễn ra, nhưng rồi việc thức dậy trở thành cơn ác mộng. Nếu mà em ở bên mẹ, giá mà cha em còn sống, giá mà ông đã không… nhưng điều quan trọng nhất là em phải khiến mình trở thành một điều gì đó, bởi vì ngay lúc này đây, em không có gì hết. Em còn không có cả hộ chiếu nữa. Em sợ dùng cuốn hộ chiếu em có lúc trước, bởi vì cuốn hộ chiếu đó là… bất hợp pháp. Cuốn hộ chiếu đó không phải của em, nhưng em không có lựa chọn nào khác. Em nghe nói là nếu có thể xuyên biên giới sang Mỹ thì ở đó có lệnh ân xá cho sinh viên Trung Quốc và em có thể đủ tiêu chuẩn. Kể cả nếu không có gì chăng nữa thì em cũng sẽ trả lại chị mọi thứ, em thề đấy. Em hứa mà.”

Zhí nǔ,” mẹ nghiêng người về phía cô và nói. Từ ấy khiến tôi lúng túng. Từ ấy có nghĩa “con gái của anh tôi”, nhưng mẹ không có anh em trai nào cả.

“Em muốn chăm sóc họ nhưng mọi thứ thay đổi nhanh quá. Mọi thứ đi sai hết cả.”

“Em không cần biện giải cho mình ở đây,” mẹ nói. “Chúng ta là gia đình, và đó không chỉ là lời nói đâu, em hiểu không? Nó có nghĩa hơn lời nói nhiều.”

“Và nữa,” Ai-ming nói, trở nên xanh xao, “em thật lòng chia buồn với sự mất mát của chị.”

Mẹ tôi và Ai-ming nhìn nhau. “Cảm ơn em,” mẹ nói. Những giọt nước mắt bất thần nơi mắt bà khiến mọi thứ trong tôi bất động. Bất chấp tất cả những gì chúng tôi đã trải qua, mẹ hiếm khi khóc. “Chị cũng chia buồn với sự mất mát của em. Chồng chị rất yêu thương cha em.”

Vào ngày thứ Bảy đầu tiên mẹ không phải đi làm, bà xuống phố rồi về nhà với tất, áo len, một đôi giày đi mùa đông cùng một áo khoác. Hồi đầu, Ai-ming ngủ rất nhiều. Cô thường xuất hiện từ phòng ngủ của mẹ với mái tóc rối, khi đang mặc đôi quần tất của tôi cùng chiếc áo phông cũ của mẹ. Ai-ming sợ đi ra ngoài, vì thế đã mấy tuần trôi qua trước khi cô đi đôi giày mới. Tuy nhiên cô mặc chiếc áo khoác hàng ngày. Vào các buổi chiều, cô đọc sách nhiều lắm, cô ngồi bên bàn ăn với một đống sách của cha tôi. Cô để hai tay trong túi áo khoác khi đọc và dùng một con dao phay để giữ sách thẳng ra. Đôi khi tóc cô trượt về phía trước che mất ánh sáng, khi ấy cô sẽ cuộn tóc lên rồi nhét búi tóc vào trong cổ áo len.

Một đêm, sau khi ở với chúng tôi chừng một tuần, cô bảo mẹ cắt tóc cho. Tôi nhớ là lúc ấy vừa sau Giáng sinh. Vì không phải đến trường nên tôi dành phần lớn thời gian ăn sô-cô-la Turtles trước truyền hình. Mẹ yêu cầu tôi qua giúp xịt nước từ bình nhựa vào tóc của Ai-ming nhưng tôi từ chối, nói là không nên cắt tóc vị khách của chúng tôi.

Hai người phụ nữ cười lớn. Ai-ming nói rằng cô muốn có vẻ ngoài hiện đại. Họ đi vào bếp rồi đặt các tấm giấy báo xuống, Ai-ming cởi áo khoác ra, trèo lên ngồi trên chiếc ghế đẩu kê chân để mái tóc dài của cô buông xõa tự do tiện đường cho mấy cây kéo của mẹ. Tôi đang xem một tập phim “The A-Team” nhưng tiếng kéo lách cách và tiếng họ cười khúc khích khiến tôi không thể tập trung được. Đến đoạn quảng cáo đầu tiên, tôi vào bếp xem họ làm đến đâu rồi.

Hai tay Ai-ming chắp lại như thể đang cầu nguyện, cô đảo mắt về phía tôi. Mẹ đã cắt một phần ba mái tóc của cô, phần đuôi tóc ướt nằm dài trên sàn như những sinh vật biển bị tàn sát. “Ôi,” tôi nói, “sao mẹ cắt thế này?”

Mẹ giơ vũ khí của mình lên. “Con là người tiếp theo đấy, Nữ.”

“Ma-li à, gần năm mới rồi. Đây là lúc cắt tóc.” Ai-ming khó phát âm cái tên Marie, vì vậy cô đã chọn một biến thể tiếng Trung, từ này trong từ điển có nghĩa là “khoáng chất hấp dẫn”.

Ngay lúc đó, mẹ cắt một đám tóc khá lớn nữa. Đám tóc lượn bay xuống sàn, như thể vẫn còn đang thở.

“Đây là năm mới ở Canada. Người Canada không cắt tóc vào năm mới. Họ uống rượu sâm-banh.”

Mỗi lần mẹ kéo cò chai nước nhựa, một làn hơi nước bao phủ Ai-ming, cô nhắm chặt mắt chống lại cái lạnh. Tôi quan sát Ai-ming biến đổi ngay trước mắt tôi. Ngay đến làn da tái của cô cũng bắt đầu có vẻ bớt tệ. Khi đã cắt tóc đến ngang vai, mẹ bắt đầu tạo dáng cho những lọn tóc nằm ngang qua trán Ai-ming theo phong cách sang chảnh rõ ràng. Cô rất, rất xinh đẹp. Đôi mắt sẫm màu trong veo, khuôn miệng như nụ hồng trên làn da của cô – giống như các nhà thơ vẫn tả. Gò má Ai-ming ửng hồng, sắc độ này chưa từng thấy chỉ một giờ trước, màu hồng càng ngày càng đậm mỗi lần mẹ nhìn cô chăm chú một lúc lâu nhằm đánh giá tác phẩm thủ công của mình. Họ quên hết về tôi.

Tôi quay lại căn phòng kia, danh sách những người làm phim “The A-Team” đang chạy. Tôi ngồi sụp xuống đi-văng, kéo gối lên đến ngực. Gần như ở cửa sổ nào đèn trang trí cũng đang tỏa sáng, chỉ mỗi cửa sổ nhà chúng tôi là không, và tôi có cảm giác rằng căn hộ của chúng tôi nằm dưới sự giám sát của một đám người ngoài hành tinh trong vật thể bay của họ, họ không chắc là liệu nên đỗ xuống Vancouver hay là bay đi nơi khác. Những người ngoài hành tinh đó đang hỏi lẫn nhau: Họ có sô-đa không nhỉ? Họ ăn đồ gì vậy? Có lẽ chúng ta nên chờ rồi quay lại vào mùa xuân nhỉ? Đỗ xuống đi, tôi bảo họ. Người ta không có cấu tạo để trôi nổi được trong không gian. Trừ khi chúng ta biết trọng lượng cơ thể mình và cảm nhận được trọng lực, nếu không chúng ta sẽ quên mất mình là gì, và sẽ để mất mình mà thậm chí còn không để ý.

Ai-ming đang đọc một trong những cuốn thơ song ngữ của cha tôi. Giờ tôi cầm cuốn sách lên, cuốn sách thân thuộc với tôi vì tôi đã dùng sách cho các bài học thư pháp. Tôi giở sách cho tới khi thấy một bài thơ mà tôi biết, bài thơ có các từ mà cha tôi gạch chân,

Ngắm từng chút một màn đêm quay đầu.

Tiếng dội trong nhà; muốn đi lên mà không dám.

Ánh sáng rực rỡ sau tấm mành; mong đi qua mà không thể.

Đau đớn lắm khi thấy chú chim nhạn trên trâm cài tóc của em.

Tôi thật xấu hổ khi thấy phượng hoàng trong gương của em.

Tôi trở về Hoành Đường lúc bình minh

Mờ dần đi như ánh sáng trên yên ngựa nạm ngọc.

Tôi đọc bài thơ hai lần rồi đóng sách lại. Tôi hi vọng rằng ở kiếp sau nơi cha tôi chuyển sinh, ông cũng đang đón Giáng sinh và năm mới, nhưng tôi sợ rằng ông đang cô đơn, và giống như Ai-ming, ông chưa tìm được một gia đình để bảo bọc ông. Bất chấp sự giận dữ của tôi đối với ông và nỗi đau không rời xa mình, tôi không thể hất bỏ lòng khao khát cho ông được hạnh phúc.

Đương nhiên không thể tránh khỏi việc Ai-ming khám phá ra những chiếc thùng dưới bàn. Vào tháng Một, tôi về nhà sau buổi học và thấy giấy tờ của cha bị mở ra hết, Ai-ming không di chuyển đám thùng mà đẩy bàn ăn về phía sau. Một thùng hoàn toàn trống rỗng. Các cuốn nhật ký của cha trải khắp bàn, khiến tôi nghĩ đến một phiên chợ trời nghèo nàn ở Vancouver. Tệ hơn nữa là Ai-ming có thể đọc được tất cả những ký tự mà tôi, đứa con gái duy nhất của ông, không thể đọc nổi một dòng.

Cô đang làm xà-lách cải bắp, cô đã mài quá nhiều cải ngựa đến nỗi tôi tự hỏi liệu từ xà-lách cải bắp có thực là cái tên phù hợp.

Tôi bảo rằng tôi không biết liệu bụng mình có thể tiêu hóa từng đó cải ngựa hay không.

Cô gật đầu bâng quơ và quăng đám cải bắp vào, đảo mạnh tay. Các nguyên liệu bay lên không trung rồi rơi xuống một chiếc bát. Ai-ming đang đeo chiếc tạp dề đề chữ “Canada: Thế Giới Hàng Xóm” của mẹ, chiếc áo khoác đông của cô nằm bên dưới.

Cô đi về bàn. “Có lần, hồi cô còn rất nhỏ, cô đã gặp cha cháu.”

Tôi đứng nguyên tại chỗ. Ai-ming và tôi chưa từng nói về cha. Việc cô biết cha tôi và chưa từng nhắc chuyện đó với tôi khiến tôi tràn ngập một nỗi thất vọng quá mãnh liệt đến khó thở.

“Chiều nay,” cô nói, “cô bắt đầu xem những thứ trong thùng. Đó là những món đồ của cha cháu đúng không?

Dĩ nhiên là cô biết mình nên xin phép trước, nhưng có bao nhiêu là sổ sách.”

Tôi đáp mà không nhìn cô. “Cha cháu chuyển đến Canada vào năm 1979. Đó là mười hai năm ghi chép. Cả cuộc đời ông. Ông hầu như không để lại gì cho mẹ con cháu cả.”

“Cô gọi những thứ này là phòng zá jì,” cô nói. “Nơi chứa những thứ không phù hợp. Những mẩu nhỏ thứ này thứ kia…”

Để nguôi cơn run rẩy bắt đầu từ ngực và giờ đang tỏa xuống tứ chi, tôi lặp đi lặp lại trong đầu từ mà Ai-ming đã dùng, từ đó tôi chưa từng nghe trước đây: zá jì.

“Cháu hiểu đúng không?” Cô nói. “Những thứ chúng ta chưa bao giờ nói ra sẽ kết thúc ở đây, nằm trong nhật ký và sổ sách, nằm tại những nơi riêng tư. Đến lúc chúng ta khám phá ra chúng thì đã quá trễ rồi.” Ai-ming đang giữ chặt một cuốn sổ. Tôi nhận ra nó tức thì: cuốn sổ dài nhưng mỏng có hình dạng như một cánh cửa nhỏ với dây buộc hờ bằng sợi cô-tông.

Đó là cuốn Những Bản Ghi.

“Thế cháu đã thấy cuốn sổ này chưa?” Khi thấy tôi vẫn không trả lời, cô mỉm cười buồn bã với tôi. “Đây là chữ viết tay của cha cô. Cháu thấy không? Chữ của ông ấy trông quá nghệ thuật và được viết ra quá dễ dàng. Ông luôn viết rất cẩn thận, kể cả nếu đó là một chữ dễ viết. Bản tính của ông là để ý đến từng chi tiết.”

Cô mở cuốn sổ. Những từ ngữ dường như nổi trên mặt giấy và chuyển động theo ý chúng. Tôi lui lại. Cô không cần chỉ cho tôi xem, tôi biết cuốn sổ trông thế nào.

“Cô có zá ji của chính mình,” cô nói tiếp. “Nhưng giờ nó ở khắp nơi và cô không biết làm sao để chứa nó. Cháu có biết vì sao chúng ta giữ ghi chép không Ma-li? Hẳn phải có lý do, nhưng giữ những thứ không đáng kể này thì ích gì chứ? Cha cô từng là một nhà soạn nhạc tài ba, một nhạc công tuyệt vời, nhưng ông đã từ bỏ tài năng ấy để có thể bảo vệ cô. Ông là con người ngay thẳng và trung thực, thậm chí cha cháu cũng muốn giữ một phần của ông ấy. Thậm chí cha cháu cũng yêu thương ông ấy. Nhưng họ đã để ông chết. Họ đã giết ông như thể ông là một con vật. Làm thế nào có ai đó có thể giải thích những điều này cho cô chứ? Nếu cha cô vẫn còn sống, cô đã không ở đây. Cô đã không phải ở một mình. Còn cha cháu, cha cháu sẽ không cần… Ôi Ma-li, cô xin lỗi. Cô rất xin lỗi.”

Ai-ming làm một điều mà tôi chưa từng thấy cô làm kể từ khi đến đây hơn một tháng trước. Cô không chỉ khóc, cô mất tự chủ đến nỗi không quay đi hay che mặt lại. Âm thanh đó khiến tôi rối loạn quá đỗi, tiếng khóc ai oán nho nhỏ ấy phá vỡ mọi thứ. Tôi nghĩ cô đang nói, “Hãy giúp tôi, hãy giúp tôi.” Tôi sợ rằng nếu tôi động vào cô, nỗi đau đớn nơi cô sẽ phình lên trong tôi và vĩnh viễn trở thành nỗi đau của chính tôi. Tôi không thể chịu đựng được. Tôi quay người khỏi cô. Tôi vào phòng mình và đóng cửa lại.

Căn phòng cảm giác rất nhỏ. Tôi thì thầm với chính mình, gia đình là chiếc hộp quý giá không thể mở ra đóng lại tùy ý chỉ bởi vì mẹ nói vậy. Bức ảnh cha trên tủ áo khiến tôi đau đớn quá đỗi. Không, không phải do bức ảnh của cha, mà là cảm giác nó gây ra, thứ cảm xúc tức tối này đã biến tất cả mọi thứ, kể cả tình yêu tôi dành cho mẹ và Ai-ming, trở nên cay đắng. Tôi muốn ném bức ảnh xuống sàn nhưng lại sợ rằng hình ảnh là thực, bức ảnh thực sự chứa đựng cha tôi, và nếu tôi làm hỏng nó thì ông sẽ không bao giờ có thể về nhà. Mưa bên ngoài nện vào dòng suy nghĩ của tôi. Dưới lớp kính cửa sổ, nước mưa thay đổi và trượt xuống, và tất cả những lạch nước nhỏ ấy trở thành những dòng lớn nhỏ, tụ lại và run rẩy, chúng bắt đầu khiến tôi khó nghĩ và thôi miên tôi. Phải chăng tôi cũng nhỏ nhoi như vậy? Liệu tôi có bao giờ thay đổi được gì không? Bỗng nhiên tôi nhớ mùi của cha, mùi đó ngọt ngào như lá non hoặc như cỏ mới cắt, đó là mùi hương xà phòng cha dùng. Giọng ông vang lên với cú pháp nghiêm trang kỳ cục, “Con gái muốn nói gì với cha nào? Vì sao con khóc?” Giọng ông không giống bất cứ giọng người sống nào.

Dù không mong muốn, tôi nhớ lại mình nghe lỏm mẹ nói rằng khi cha được tìm thấy, ông ấy hầu như không có đồ đạc gì cả. Mẹ lúc ấy đang nói chuyện trên điện thoại trong một cú gọi đường dài với một người bạn ở Hồng Kông. Bà nói rằng chiếc va-li đầy ắp khi ông rời đi giờ trống rỗng. Cha đã từ bỏ mọi thứ, bao gồm cả chiếc nhẫn cưới, máy chơi đĩa CD cầm tay hiệu Sony và nhạc của mình. Thậm chí ông còn không mang một tấm ảnh nào của chúng tôi. Mẩu giấy nhắn duy nhất ông để lại không phải là lời từ biệt. Mẩu giấy chỉ nói rằng ông có những khoản nợ không thể trả được, những thất bại ông không thể sống cùng, và rằng ông mong được chôn ở Hồng Kông nơi biên giới Trung Quốc. Ông nói rằng ông yêu chúng tôi.

Mỗi năm một lần, cha thường đưa chúng tôi đi nghe nhạc giao hưởng. Chẳng bao giờ chúng tôi có ghế tốt cả nhưng cha nói điều đó không thành vấn đề, quan trọng là được ở đó, là có mặt trong phòng khi bản nhạc, cho dù già cỗi đến mấy, được hồi sinh. Cha thường bảo rằng cuộc sống tràn đầy những trở ngại, và không ai có thể chắc chắn rằng ngày mai hay năm tới, mọi thứ sẽ vẫn y nguyên như vậy. Ông kể rằng khi ông còn là một cậu bé, người cha nuôi của cha, vị Giáo sư, đã đi cùng ông tới một buổi hòa nhạc ở Thượng Hải, và trải nghiệm đó đã mãi mãi thay đổi ông. Bên trong ông, những bức tường mà ông chưa từng biết đến sự tồn tại của chúng đột nhiên để lộ chính mình. “Cha biết là mình được số mệnh sắp đặt cho một cuộc đời kiểu khác,” ông nói. Một khi nhận thức được những bức tường này, tất cả những gì ông nghĩ được là làm sao để kéo ngã chúng.

“Những bức tường nào ạ?” Tôi hỏi.

Mìng,” ông nói. “Nghĩa là số phận.” Chỉ sau này khi tôi tra từ này một lần nữa, tôi mới biết rằng mìng có nghĩa là số phận, nhưng cũng có nghĩa là cuộc sống.

Tiếng gõ cửa đưa tôi về hiện tại với mưa, với căn phòng và với bản thân tôi.


[1] Thủ phủ tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc – ND.

[2] Nghĩa là ngày 4 tháng Năm – ND.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Published

on

Trích từ: Fuzz - Khi Tự Nhiên Phạm Luật

Tác giả: Mary Roach

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 04.2025

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

Ngộ sát nơi đường cùng

Ở Ấn Độ có cái gọi là “trại nâng cao nhận thức”. Lần đầu tiên tôi nghe được từ này là từ một nhà nghiên cứu tại Viện Động vật Hoang dã của Ấn Độ, người điều hành các trại nâng cao nhận thức về voi và báo hoa mai. Tôi tưởng tượng ra đấy là một khu trại kiểu Mỹ, với giường tầng và kẹo dẻo, và cố gắng liên tưởng điều này trong đầu với những con vật to lớn, nguy hiểm. Theo lẽ tự nhiên, tôi muốn đến đó. Hóa ra, trại nâng cao nhận thức này giống với ngày nhận thức toàn dân hơn. Tôi từng thấy danh sách các trại nâng cao nhận thức về bệnh sốt xuất huyết, trại nâng cao nhận thức về bệnh tiểu đường, trại nâng cao nhận thức về an toàn giao thông và ít nhất một trại nâng cao nhận thức về chứng ngáy và ngưng thở khi ngủ, nghe khá giống phòng ngủ nhà tôi. Đó là những buổi họp mặt cung cấp thông tin nhằm nâng cao nhận thức về những nguy hiểm mà mọi người có thể không biết rõ hoặc không muốn nghĩ đến và đưa ra hướng dẫn về cách tốt nhất để tránh hoặc sống sót qua các tình huống đó.

Mỗi năm cứ đến tháng Mười hai, Dipanjan Naha, nhà nghiên cứu vừa nhắc ở trên lại khóa cửa văn phòng mình ở Dehradun, dán tấm thẻ THI HÀNH CÔNG VỤ của Chính phủ Ấn Độ trên chiếc xe thuê bốn bánh, rồi bắt đầu chuyến đi trại-nâng-cao-nhận-thức. Năm nay, người em họ Aritra sẽ đi cùng anh với tư cách là trợ lý, và tôi cũng có mặt trong chuyến đi này. Chúng tôi đang khởi hành từ Bắc Bengal – thật khó hiểu, lại là khu vực thuộc Tây Bengal – nơi mỗi năm, voi hoang dã giết chết trung bình 47 người và làm bị thương 164 người khác. Bốn mươi bảy người mỗi năm, trong khu vực có diện tích bằng Connecticut (Khoảng 13.000 km2 - ND). Cơ quan lâm nghiệp Ấn Độ sẽ cho kiểm lâm viên can thiệp các trường hợp này, nhưng họ không giết con voi. Một số kiểm lâm viên sẽ có mặt tại trại nâng cao nhận thức đầu tiên của Naha, ở làng Bamanpokhri. Tôi háo hức muốn biết các hoạt động sẽ diễn ra thế nào.

Bên ngoài cửa kính ô tô là cảnh quan nông nghiệp: đồn điền chè, trang trại cúc vạn thọ, những hàng lúa thẳng tắp cắm sâu vào lòng đất như lông bàn chải đánh răng xơ cứng. Những ngôi làng nhỏ nằm xen kẽ với cánh đồng và khoảnh đất – những ngôi nhà bằng tôn và mái tranh, một ngôi đền, một vài cửa hàng rượu lộ thiên. Đàn bò lang thang trên đường và mấy con dê đen nhỏ đi song song dọc hai bên, nhưng tôi không thấy con vật nào khác, bối cảnh này không hợp lý với lũ voi.

Voi! Naha đảm bảo với tôi rằng chúng không ở đâu xa. Đang là mùa đông, thời điểm các đàn di chuyển trong năm. Chúng kiếm ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày trong các mảnh gỗ tếch và lal – tàn tích của những khu rừng từng trải dài từ bang Assam của Ấn Độ qua Bắc Bengal đến tận biên giới phía đông của Nepal. Sau đó, “hành lang voi” này bị đứt gãy và thu nhỏ lại, đầu tiên là do nhiều đồn điền chè rộng lớn của người Anh và gần đây là do các căn cứ quân sự và khu định cư của người tị nạn và người nhập cư từ Nepal và Bangladesh. Ngày càng nhiều người đến các khu rừng này để đốn gỗ và chăn thả gia súc, biến môi trường sống của voi thành của người. Trong nỗ lực đi qua vùng đất này, voi phải đối mặt với các rào cản, nguy hiểm, ngõ cụt. Hành lang giờ đã thành trò bắn đạn. Đàn có thể bị cô lập trong một khoảnh rừng sâu biệt lập. Chúng trở thành “những con voi cô lập”. Để voi sống trong một vùng biệt lập là không nên. Vốn gene sẽ bị thoái hóa và mật độ dân số tăng đột biến. Chẳng bao lâu sẽ không có đủ nguồn thức ăn cho chúng nữa. Chúng lang thang vào các ngôi làng để ăn những gì có thể tìm thấy, và đó chính là mùa màng và kho thóc của người dân. Khởi nguồn của xung đột giữa người và voi.

Aritra chỉ ra ngoài cửa sổ khi chúng tôi ngang qua một lối rẽ. “Đi thêm 2 cây số lên con đường đó là nơi voi đã giết chết một người đàn ông. Vào vài ngày trước. Ba người đang làm việc trên đường. Họ bỏ chạy khi nhìn thấy voi, rồi một người bị tách ra, và con voi đi theo anh ta”.

Tôi thấy điều này thật khó tưởng tượng. Tôi lớn lên cùng với chú voi Babar và chương trình National Geographic. Voi là loài hiền lành và chậm chạp. Chúng đi tất và mặc phục trang màu xanh tươi sáng. Chúng chưa bao giờ là loài đáng sợ. Điều này gây ra sự mất kết nối nhỏ giữa tôi và những người tiếp đón mình. Đêm đầu tiên trên đường, chúng tôi ngụ trong ngôi nhà gỗ thuộc sở hữu của chính phủ trong khu rừng tếch ngay dưới đường từ biển báo đánh dấu khu vực voi băng qua. Đầu bếp của ngôi nhà nói rằng anh đã nhìn thấy một con gần cổng vào đêm trước khi chúng tôi đến đây. Phản ứng với thông tin này, tôi thông báo ý định đi dạo. Lúc đó khoảng 7 giờ tối, cách hai tiếng sau khi voi ra ngoài tìm thức ăn và Dipanjan Naha cùng em họ mình dừng lại gần cánh rừng.

“Đừng đi xa quá, Mary”, Aritra nói. Chúng tôi ngồi ngoài hiên uống trà cùng tắc kè và bướm đêm. Aritra có khuôn đầu tròn và tính cách thân thiện, hay cười. Anh dễ dàng chuyển từ vai trợ lý của Naha sang vai người em họ thân thuộc.

Naha cũng không thích kế hoạch của tôi. “Xin hãy hết sức cẩn thận”.

Họ nhìn nhau, rồi đặt cốc xuống và đứng dậy đi theo tôi.

Chúng tôi đi xa đến tận đường ray xe lửa ở cuối đường lái xe. Naha kể đôi lời về lịch sử đường sắt khổ hẹp ở Ấn. Chúng tôi đứng lại vài phút, như thể đợi một chuyến tàu. Aritra dùng chân mân mê hòn sỏi giữa các thanh ray. “Hãy trở lại bên trong”.

--

Để đánh giá đúng hơn mức độ nguy hiểm của cuộc đụng độ ngoài ý muốn với voi, hãy ngồi lại với người điều tra các vụ tử vong. Saroj Raj là sĩ quan kiểm lâm của Bamanpokhri Beat – cơ quan lâm nghiệp địa phương, nơi mỗi năm kể từ năm 2016 đều có người bị voi giết chết.

Sĩ quan Raj đã đến nhà cộng đồng chỉ gồm một căn phòng của Bamanpokhri – địa điểm của trại nâng cao nhận thức hôm nay – để nói chuyện với mọi người và trả lời các câu hỏi. Cho đến giờ chỉ có mình tôi đặt câu hỏi. Có vẻ những người có mặt đúng giờ ở đây đều do buộc phải đến. Người tham dự gồm một nhóm học sinh mặc đồng phục kẻ sọc và nửa tá kiểm lâm viên đến từ các đội động vật hoang dã địa phương. Naha không bận tâm. Đang là kỳ Diwali – tuần nghỉ lễ – và bây giờ đang là giờ sau bữa trưa. “Nên họ rất miễn cưỡng phải đến đây”.

Sĩ quan Raj cho tôi biết chi tiết về những trường hợp tử vong gần đây nhất. Mỗi lần anh đều bắt đầu với ngày chính xác. Cảm giác rằng có rất nhiều giấy tờ. “Ngày 31 tháng Mười năm 2018. Ba công nhân đang làm đường.” Nơi chúng tôi đã đi qua trước đó. “Đột nhiên một con voi xuất hiện.”

Một con voi có thể đáng sợ hơn nhiều con. Đàn voi gồm những con cái trưởng thành và voi con, những người bạn to xác yêu hòa bình của tuổi thơ tôi. Voi sống cô độc thường là voi đực và voi đực có thể gây rắc rối. Voi đực trải qua giai đoạn rối loạn nội tiết tố định kỳ gọi là musth, khi mức testosterone của chúng tăng cao gấp mười lần so với những thời điểm khác. Điều này mang lại cho chúng lợi thế cạnh tranh với những con đực khác và với voi cái đầu đàn, nhưng cũng có một mức độ thất thường nào đó. Theo cách nói của chuyên gia về voi châu Á Jayantha Jayewardene, trạng thái musth trải dài gồm “dễ nổi cáu” đến “khuynh hướng tấn công hay phá hoại” đối với những con voi khác và con người, “thậm chí cả những vật vô tri vô giác”. Dân làng biết điều này. Sĩ quan Raj nói: “Những người đàn ông đã cố trốn vào bụi rậm. “Một người không may bị ngã.”

Sĩ quan Raj cung cấp chi tiết mà Aritra đã cẩn thận bỏ qua. Con voi giẫm lên đầu người đàn ông. Với cân nặng 3 tấn, con voi chỉ cần giẫm hoặc quỳ lên một người – hay (vào năm 1992) trong trường hợp voi diễn xiếc nổi giận thực hiện động tác trồng cây chuối lên nạn nhân – thì đúng là cách giết người hiệu quả. Nhưng dựa trên dấu chân và sự xáo trộn của thảm thực vật xung quanh trong trường hợp này, quyết định của Sĩ quan Raj chính là chết do tai nạn.

“Ngày 16 tháng Mười năm 2016. Cũng là một tai nạn.” Một người đàn ông đang trèo lên bờ sông thì gặp một con voi. Sĩ quan Raj nhớ lại: “Chỗ đó trơn trượt. Cả hai đều trượt xuống bờ sông. Con voi lăn qua người anh ta.” Đôi khi voi giết người y như cách của ô tô: một thứ to lớn lao tới hoặc cán qua thứ gì đó nhỏ hơn nhiều. (Những người chăm sóc voi cố gắng không chen vào giữa bức tường và con voi.) (Tại sở thú nơi tôi làm việc ở độ tuổi 20, mức lương cho người trông giữ voi cao hơn một chút so với những người chăm sóc các động vật khác – mặc dù không phải vì rủi ro. Cô ấy được trả một khoản “bồi thường phân” vì phải xúc phân quá nhiều. Như thế cũng đúng. Theo tài liệu Smithsonian Contributions to Zoology (Cống hiến Smithsonian cho ngành Động vật học) năm 1973, một con voi châu Á đi vệ sinh 18 đến 20 lần trong ngày, thải ra “4 đến 7 cục phân” nặng khoảng 1,8kg mỗi lần, với sản lượng hằng ngày hơn 180kg. - TG)

Sĩ quan Raj nói: “Những con voi này không có ý định giết người.” Làm sao anh biết được? Bởi vì xác còn nguyên vẹn. “Nếu voi thật sự tức giận, cái xác sẽ không còn nguyên mà sẽ bị xé nát thành nhiều mảnh.” Một cuốn sách của Jayantha Jayewardene liệt kê danh sách ghi lại chín cách thức mà một con voi giận dữ hoặc hung hãn giết người. “Đặt một chân trước lên một chi của nạn nhân và dùng vòi xé toạc chân kia” là cách số 3. (Voi sử dụng kỹ thuật neo và kéo tương tự khi tước cành lá một bụi cây bị bật gốc để ăn.) Người ta cho rằng tầng lớp cai trị ở Tích Lan (nay là Sri Lanka) vào những năm 1600 đã tận dụng hành vi tự nhiên này nhằm huấn luyện voi làm đao phủ. Bản in khắc từ cuốn Mối quan hệ lịch sử của Đảo Ceylon đã mô tả một con voi như vậy. Một chân trước đặt trên thân của nạn nhân, còn vòi quấn quanh chân trái đang giơ lên của người đàn ông. Nếu không có chú thích (“Cuộc hành quyết bởi một con voi”) và cánh tay nát tả tơi ở phía trước, bạn có thể lầm tưởng rằng các quốc vương Tích Lan đã huấn luyện voi phục vụ như hộ vệ.

Phần trình bày nâng cao nhận thức của Naha sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tránh khiến cho một con voi khó chịu. Điều này được tóm tắt trong mục 20 trên áp phích “Những phương pháp tốt nhất để giảm thiểu xung đột giữa người và voi” mà Aritra vừa treo trên tường của nhà cộng đồng: “Không được hành động theo kiểu Rambo!”. Bắn voi không chỉ bất hợp pháp mà còn vô nghĩa, tùy thuộc vào cỡ nòng của vũ khí. Tại Palm Bay, Florida, voi Janet đã chịu được 55 phát đạn bắn ra từ khẩu súng lục ổ quay 9mm của các sĩ quan cảnh sát cũng như loạt súng đầu tiên do một sĩ quan SWAT đang ngoài giờ thi hành nhiệm vụ bắn với loại đạn thiết kế nhằm xuyên thủng cả xe bọc thép. (Loạt đạn thứ hai đã khuất phục con voi này.) (Vào ngày 1/2/1992 tại rạp xiếc Great American ở Palm Bay, Florida, một con voi tên Janet đã mất kiểm soát khi đang chở một người mẹ cùng hai đứa con của bà và ba đứa trẻ khác. - ND)

Khi nhìn thấy một con voi hoặc đàn voi trong khu vực, điều an toàn mà dân thường có thể làm là gọi đến đường dây nóng 24/7 để đội chuyên trách về voi của Sĩ quan Raj xử lý. Đội biết voi là động vật có tính xã hội nên chúng sẽ bình tĩnh hơn nếu bị dồn đi theo đàn. Các kiểm lâm viên dồn chúng vào từ các phía, giống như người chăn bò, di chuyển cả nhóm về hướng khu rừng nơi chúng sinh sống. Lúc này, động vật trong rừng đã nhận ra âm thanh của đoàn xe lùa voi. “Chúng tôi lái xe vào khu vực, và chúng rời đi.” Sĩ quan Raj khẽ mỉm cười. Anh không phải người hay cười. “Điểm này có lợi cho chúng tôi.”

Sĩ quan Raj khiến việc tuần tra voi nghe như kiểm soát an ninh ở trung tâm thương mại, nhưng rõ ràng có nhiều rủi ro. Một sĩ quan tuần tra ngồi cùng chúng tôi đã bị buộc tội bốn lần. “Họ nói bạn không được chạy,” anh nói. “Và phải nói thật với cô, rất khó làm thế khi con voi đang lao thẳng vào mình!” Đề nghị đi cùng của tôi bị từ chối, và lần thứ hai cũng vậy. Vẻ mặt của Sĩ quan Raj cho thấy tôi đã trở thành một “chuyện phiền toái”, nên tôi đành từ bỏ.

Nếu có, thương vong thường xảy ra trong nửa giờ hoặc hơn trước khi đội đến nơi. Khi phát hiện voi phá hoại mùa màng của mình, dân làng chạy ra khỏi nhà, la hét, ném đá, đốt đuốc và đốt pháo (Lửa thường làm voi hoảng sợ và bom đạn đã hạn chế tính hữu dụng của voi trong chiến tranh. Mặc dù nhìn từ xa, hình ảnh những “chiến tượng” mặc áo giáp với thanh kiếm buộc vào vòi mang lại lợi thế về mặt tâm lý, nhưng điều này nhanh chóng biến mất khi hai bên xích lại gần nhau hơn. Các tài liệu ghi chép rằng voi quay đầu và bỏ đội hình khi nghe tiếng súng hỏa mai hoặc thấy những mũi tên rực lửa. Một con voi bỏ chạy, vung kiếm xông vào đội quân của chính mình có thể gây ra nhiều thương vong tương tự điều chúng có thể gây ra cho kẻ thù. - TG). Một ngôi làng có thể có những “người chăn voi” tự do chuyên dùng chày và thực hiện các biện pháp dân gian không được khuyến khích khác. Voi đực và voi cái đầu đàn có thể lao vào phòng thủ, còn các con voi cái và voi con bình thường vốn điềm tĩnh thì có thể hoảng sợ và giẫm đạp. Trong bóng tối của cánh đồng, con người dễ vấp ngã và voi lại không thấy đường để chạy và, như mẹ tôi thường nói, sẽ có ai đó bị thương.

Sĩ quan Raj nói: “Dẫn voi là việc dễ dàng. Hướng dẫn mọi người mới là việc khó khăn. Họ không để tâm lắng nghe.” Họ khó chịu và điều đó cũng dễ hiểu. Nông dân trong làng làm việc quần quật và không dư dả nhiều. Một con voi châu Á có thể tiêu thụ đến 136 kg thực vật trong ngày. Trong lúc đột kích và giẫm đạp, một đàn voi nhỏ có thể nhanh chóng ngốn hết công sức lao động và sinh kế cả một vụ mùa.

Một con voi giữa cánh đồng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy hành động thiếu khôn ngoan. Naha cho biết, đưa ra phán đoán lung tung và thiếu khả năng kiểm soát xung lực của cơn cuồng loạn có thể dẫn đến kết cục rất thảm khốc. Anh ngồi xổm trước cái loa, gỡ một đống dây điện. “Đây là những gì chúng tôi thấy. Một nhóm người say rượu. Có người muốn làm anh hùng nên đi tới trước mặt con vật, quấy rối nó và để tự vệ, con vật đó...” Naha cũng tránh động từ giết khi hạ giọng đầy ngụ ý. “Tai nạn đã xảy ra”. Theo dữ liệu của anh, 36% số người bị voi giết ở Bắc Bengal từ năm 2006 đến năm 2016 là lúc đang say rượu. Về sau, tôi thấy dòng tiêu đề này trên tờ Hindustan Times: “Người đàn ông say rượu thách thức đàn voi, bị giẫm chết ở Jharkhand” (Jharkhand giáp Tây Bengal). “Anh ta đã cố gắng chiến đấu với chúng”, một nhân viên kiểm lâm nói với phóng viên. “Chúng” ở đây là mười tám con voi.

Nguy thay, voi cũng thích chè chén. Ở Bắc Bengal, voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. (Vì voi thiếu enzyme chính để phân hủy ethanol nên cần lượng ít hơn bạn nghĩ). Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng – thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn.

Có dữ liệu củng cố cho các nhận xét của Sĩ quan Raj. Năm 1984, trong một nghiên cứu tại Khoa Tâm thần và Khoa học Hành vi Sinh học UCLA, ba con voi châu Á “không có tiền sử sử dụng rượu” và bảy con voi châu Phi từ Lion Country Safari đã được phục vụ một “thùng phuy lớn” nước có cồn. Các con vật này sau đó có xu hướng đi lang thang, rời xa đàn. Chúng đứng hoặc nghiêng mình, nhắm mắt lại hoặc “quấn vòi quanh mình”. Chúng bỏ bữa. Chúng không buồn tắm. Voi cái đầu đàn trở nên to tiếng và hung dữ hơn, cũng như con voi đực tên Congo.

Để ngăn voi uống rượu và say xỉn, có thể dân làng sẽ kéo rượu mạnh vào trong nhà. Một ý tưởng khủng khiếp. Vì giờ người ta không phải lo lắng về những con voi say xỉn mà là những con voi quyết tâm say xỉn – tức là những con voi ngửi thấy mùi rượu trong nhà và thấy chẳng có lý do gì lại không đập bỏ một bức tường để vào uống. Trong khảo sát của Naha, trong các vụ thương vong do voi gây ra, 8% người dân Bắc Bengal bị giết khi đang ngủ.

Ghế ngồi đã được lấp đầy gần hết và Naha cầm micro lên để bắt đầu bài nói của mình. Tất nhiên, anh nói bằng tiếng Hindi nên Aritra sẽ phiên dịch, thỉnh thoảng cúi sang và khum tay vào tai tôi để nói một câu đơn với nhịp điệu dứt khoát, bí hiểm. “Đã say thì không nên đi trước voi”. “Luôn luôn phải đi phía sau voi.”

Naha là một diễn giả biểu cảm với vốn từ vựng trôi chảy về cử chỉ tay. Tôi không ngờ tới điều này. Ngoài sân khấu, anh là người tiết kiệm cả chuyển động lẫn lời nói. Anh đứng với đôi vai vuông vức và bàn chân hướng ra ngoài như để tạo một chỗ dựa vững chắc. Anh giống người đàn ông tôi vẫn thường thấy trên các biển quảng cáo Xi măng Ambuja, dáng đứng vững vàng và bình thản với cả đập thủy điện ầm ầm trong tay. Tôi đã nghe anh nói “Tôi từng bị một con hổ đuổi theo” với giọng điệu như thường ngày bạn hay tôi vẫn nói “Tôi từng ở Omaha”.

Triết lý đằng sau trại nâng cao nhận thức rất đơn giản. Nếu muốn tiếp cận ai đó, hãy nói chuyện với họ khi họ đang thoải mái và tỉnh táo. Cho họ ngồi xuống và để Aritra phục vụ họ một tách trà và samosa. Mọi người càng hiểu rõ về đặc điểm sinh học của voi và hành vi của đàn voi thì các cuộc chạm trán càng an toàn. Mấu chốt là phải giữ bình tĩnh và cho con vật không gian. Đặc biệt là voi mẹ đi cùng con, đặc biệt hơn nữa là voi đực đơn độc, và đặc biệt hơn hơn nữa là voi đực đang kỳ musth. (Một số đặc điểm nổi bật của kỳ musth, nhờ được Jayantha Jayewardene hỗ trợ thông tin: các tuyến trên thái dương tiết rỉ nhiều, cương cứng thường xuyên và “đôi mắt yêu tinh mở to hoàn toàn với nhãn cầu di chuyển”.)

Có một điểm khác cần phải nhấn mạnh với mọi người. Sĩ quan Raj đã đề cập đến trước đó, khi chúng tôi trò chuyện: “Con người chúng ta, đang làm phiền chúng.”

Bối rối thay, điều này bao gồm cả công việc chuyên môn của các chuyên gia như Sĩ quan Raj. Chăn dẫn voi về khu rừng gần nhất mang lại lợi ích tức khắc cho dân làng nhưng về lâu dài, Naha nói với tôi, việc này khiến vấn đề trầm trọng hơn. Vì điều này chọc tức voi. Chúng bắt đầu gán con người với nỗi lo lắng và thiếu thốn khi bị đuổi đi đương lúc kiếm ăn. Chúng bắt đầu kiên quyết hơn để bảo vệ mình. Báo cáo từ các khu vực có xung đột ở bang Assam lân cận cho biết voi cái đang bắt đầu trở nên hung dữ y như voi đực.

Naha tin rằng một hệ thống tốt hơn sẽ kết hợp các cảm biến để phát hiện đàn voi đang tiếp cận. Cảnh báo được gửi tới các trưởng làng và các đội phản ứng địa phương đã qua đào tạo, họ sẽ theo dõi tình hình và cố gắng can thiệp trước khi ruộng nương bị giẫm đạp và sự hỗn loạn nổ ra. Naha không có ý nhắc đến cảm biến chuyển động hay cảm biến nhiệt, cả hai đều kích hoạt với các động vật hữu nhũ khác. Ý anh là cảm biến địa chấn: loại được kích hoạt bởi các rung động mạnh đến mức chỉ có tiếng bước chân của một con voi (hoặc động đất nhỏ) mới làm được. Trong khi đó, điều bạn có thể làm để giảm bớt gánh nặng cho nhân loại: tiếp tục nỗ lực khôi phục rừng và để yên cho các khu bảo tồn.

--

Phó quản lý của đồn điền trà Gopalpur mặc quần short dài gọn gàng và đi giày thể thao phồng màu neon. Đầu nghiêng ra sau khiến anh trông có vẻ xa cách, hoặc chỉ vì anh cần một cặp kính mới. Anh ra chào khi chúng tôi lái xe vào. Trại nâng cao nhận thức dành cho công nhân, điểm dừng chân thứ hai của chúng tôi trong tuần này, dự kiến sẽ bắt đầu sau nửa giờ nữa. Nhưng trước tiên phải làm một tách trà đã.

Phó quản lý là dạng người của những con số. Anh nói, khu đất này rộng 1.200 mẫu Anh và đặt các tách trà trước mặt chúng tôi. Hai nghìn một trăm công nhân thu hoạch lá trà. Chúng tôi vừa lắng nghe vừa nhấm nháp, rồi anh dẫn chúng tôi ra khỏi cửa và băng qua đường, đến một cái rạp mở nơi Naha sẽ diễn thuyết.

Công nhân đã đến rồi. Họ xem qua tờ rơi để trên mỗi cái ghế, đặt trong loại túi nhựa trong có thể đóng lại được (tên thương hiệu: My Clear Bag). Phụ nữ ngồi một bên, tách biệt với nam giới. Naha loay hoay với hệ thống âm thanh, cửu vật từ thời xưa trước khi có phim phát trực tuyến, khi điền trang này mời đến các ban nhạc sống phục vụ hoạt động giải trí cuối tuần.

Trời nóng và ẩm ướt. Các quản lý đồn điền đến muộn. Công nhân dùng cái túi trong suốt của mình để quạt. Thời gian trôi qua. Có người từ nhà phó quản lý mang khay tới. Thêm trà! Phần của chúng tôi được phục vụ trong cốc sứ có kèm đĩa. Các công nhân thì nhấp từng ngụm từ cốc giấy – loại cốc nhỏ không lớn hơn ly uống rượu. Tôi chỉ muốn nói, Gì vậy trời, các vị có đến 1.200 mẫu đất cơ mà.

Các quản lý đã đến! Những chiếc SUV như xe biệt đội, lao nhanh và phanh gấp. Cửa xe mở ra và đóng sầm lại, và các quản lý, tổng cộng năm người, bước vào hiện trường. Các công nhân đồng loạt đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Thay vì ngồi cùng Aritra và tôi trên ghế khán giả, các quản lý lại bước lên một dãy bàn đặt trên sân khấu. Họ mở những chai nước được đặt ở chỗ ngồi của mình cùng sổ ghi chú và bút. Trên sân khấu đa dạng đến ngạc nhiên các bộ ria mép.

Các quản lý lần lượt cầm micro. Aritra hét lên phần dịch của mình át hẳn tiếng loa âm lượng cỡ sảnh khiêu vũ. Người quản lý đầu tiên nhấn mạnh các công nhân phải chú ý, vì ta ở gần sông và rừng nên sẽ gặp vấn đề với voi. Anh đưa mic cho quản lý bên cạnh, người này vạch ra chiến lược ngăn chặn voi hiện tại của đồn điền: một đội tuần tra bằng máy kéo, đốt pháo khi cần thiết. Micro tiếp tục chuyến hành trình của mình. Quản lý tiếp theo lại là anh chàng của các con số. Trong 12 năm anh ta làm việc ở đây, có bảy hay tám người đã bị voi giết chết.

Cuối cùng micro được trao cho Naha. Trên thực tế, các công nhân rất chú ý lắng nghe, chăm chú đến mức tôi tự hỏi liệu họ có bị phạt nếu nhìn đi chỗ khác hay không. Còn các quản lý lại thì thầm với nhau và lén nhìn điện thoại đặt trong lòng. Một người nhận cuộc gọi, đưa tay che ngang điện thoại như thể, giống như ợ hơi, hành vi đó sẽ đỡ thô lỗ hơn.

Khi phần trình bày kết thúc, Naha mời các công nhân tham gia đặt câu hỏi và nhận xét. Một người hái trà ngay lập tức đứng dậy khỏi ghế. Cô ấy lớn tuổi hơn nhiều người, có lẽ đã 50 và ăn mặc giống mọi phụ nữ ở đây, bộ sari có hoa văn sặc sỡ như khi làm việc trên đồng. Aritra nhảy lên định đưa mic cho cô nhưng cô không cần. Sự tức giận của cô đủ biến thành một bộ khuếch đại. Bộ sậu ria mép ngồi không yên trên ghế.

Aritra tiếp tục dịch. “Các vị bảo chúng tôi thay đổi cây trồng,” người phụ nữ nói, ám chỉ những khu vườn nhỏ của công nhân. “Từ ngô, gạo thành gừng, ớt, những thứ voi không thích. Nhưng chúng tôi trồng ngô và lúa để nuôi sống chính mình. Ngoài ra, khi máy kéo đi rồi, voi sẽ quay lại, lần nữa, lần nữa. Voi cần rất nhiều thức ăn.” Người phụ nữ lại ngồi xuống. “Ta cần các biện pháp khác.”

Cô ấy nói đúng, nhưng giải pháp tốt thường khó thi hành. Trên thực tế, các biện pháp mà trực giác thấy hiển nhiên lại bị hạn chế do chi phí và các vấn đề có thể phát sinh. Hàng rào điện là một ví dụ. Cần đủ lượng để xua đuổi các đàn voi, nhưng không được quá nhiều đến mức cản trở quá trình di cư của chúng. Việc duy trì và sửa chữa các dải hàng rào dài rất tốn thời gian, tốn tiền và thường không hoàn thiện. Hoặc thực hiện sai. Điện áp phải đủ cao để khiến voi nản lòng nhưng không cao đến mức khiến nó bị điện giật. Trung bình mỗi năm có 50 con voi bị điện giật chết ở Ấn Độ.

Và một thách thức đáng kể là trí thông minh của loài voi. Một con voi Ấn Độ khi đối mặt với hàng rào điện có thể sẽ sớm tìm ra cách vượt qua mà không bị điện giật. Nó sẽ nhận ra rằng gỗ không dẫn điện. Nó sẽ đẩy cột xuống hoặc sẽ nhặt một khúc gỗ và dùng nó để đè dây xuống cho con khác bước qua.

Không phải lúc nào trí thông minh cũng có lợi cho voi. Trong lịch sử, voi đã luôn bị bắt làm việc cho quân đội Ấn và gần đây là ngành công nghiệp khai thác gỗ. Chúng được đối đãi như các nhân viên, theo đó Sở lâm nghiệp ghi lại số giờ làm việc của chúng vào sổ đăng ký công việc. Những “công nhân voi” này tất nhiên không được trả lương, nhưng Naha nói với tôi, ở tuổi 50, chúng được hưởng “lương hưu” dưới hình thức chỗ nghỉ hưu tại một pikhana (chuồng voi) với ba bữa ăn và tắm rửa mỗi ngày, kèm theo xoa bóp bằng dầu.

Khi mọi người đứng dậy khỏi ghế để rời đi, tôi nhờ Aritra giới thiệu mình với người phụ nữ đã dám lên tiếng lúc nãy. Tên cô ấy là Padma. Cô phiền muộn là có lý do. Một tuần trước, cô thức dậy lúc 4h30 sáng và thấy một con voi đã dỡ tường và ăn hết số ngũ cốc cô bán trong một quán rượu nhỏ ở khu công nhân. Cô vẫn chưa nhận được tiền bồi thường từ điền trang.

Một nhóm nhỏ các quản lý lượn lờ trong tầm nghe. Một người đứng ra đánh lạc hướng cuộc trò chuyện. “Xin chào, cô đến từ Mỹ, con trai tôi làm việc ở Memphis, khách sạn hạng nhất, cô có biết khách sạn Memphis không?” Quả thực tôi biết khách sạn này, những con vịt đi xuống cầu thang ở sảnh mà không vì lý do rõ ràng nào liên quan đến vịt hay khách sạn. Tôi tập trung vào Padma. (Truyền thống về những chú vịt ở đài phun nước The Peabody: Những năm 1930, Frank Schutt, Tổng giám đốc của The Peabody và một người bạn, Chip Barwick, trở về sau chuyến đi săn cuối tuần đến Arkansas. Họ đã uống quá nhiều rượu whisky và nghĩ rằng sẽ rất buồn cười nếu đặt một số mồi nhử vịt sống của họ (lúc đó những người thợ săn sử dụng mồi nhử sống là hợp pháp) trong đài phun nước Peabody xinh đẹp. Ba chú vịt nhỏ được chọn làm “chuột lang” và phản ứng không kém phần nhiệt tình. Từ đó bắt đầu một truyền thống đã trở nên nổi tiếng trên thế giới. Năm 1940, Bellman Pembroke, cựu huấn luyện viên động vật ở rạp xiếc, đã đề nghị giúp đưa những con vịt đến đài phun nước mỗi ngày và dạy chúng trò diễu hành Vịt Peabody nổi tiếng hiện nay. Ông Pembroke trở thành Peabody Duckmaster, phục vụ với cương vị đó trong 50 năm cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1991. Gần 90 năm sau cuộc tuần hành khai mạc, đàn vịt vẫn ghé thăm đài phun nước ở sảnh từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều mỗi ngày. - ND)

Aritra tiếp tục dịch. “Đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra với cô ấy.”

Người quản lý vẫn tiếp tục: “Năm giờ vịt đi xuống...”

Naha tham gia cùng chúng tôi. Anh đề xuất chúng tôi lái xe đến khu công nhân để xem đống đổ nát ở cửa hàng của Padma. Các quản lý trao nhau những cái nhìn cấp thiết, nhưng đã quá muộn. Chúng tôi chen vào xe với Padma và quay đi.

Tiệm tạp hóa nhỏ bé không hẳn bị cướp phá mà bị san bằng. Một bức tường tôn nằm ọp ẹp bên dưới dầm đỡ bằng bê tông. Lần trước, một con voi đột nhập vào nhà Padma khi cô đang ngủ. Đây là ví dụ khi “con voi trong phòng” không phải là phép ẩn dụ; khi chuyện đùa về voi không phải là chuyện đùa. Voi “đậu” trên hàng rào nhà bạn lúc mấy giờ? Có lẽ là khoảng 11 giờ đêm.

Voi là loài ăn thực vật nhưng chúng không hề kén ăn. Chúng sẽ ăn hầu hết các bộ phận của cây – hạt, cỏ và lá, thân, cành, vỏ cây. Năm 2017, tại một đồn điền trà ở Sonitpur thuộc quận Assam, ba con voi hoang dã đột nhập vào cửa hàng của công nhân vào lúc 2 giờ sáng và lấy sản phẩm làm từ sợi bông có tên là rupee. Chúng đập hộp đựng tiền và ăn sạch 26.000 rupee mệnh giá lớn.

Một thứ mà voi Ấn Độ không ăn là lá trà. Ai ở đây cũng thích uống trà nhưng rất ít ai, dù là người hay thú, thích ăn trà. Lá trà quá đắng. Các thiệt hại nhỏ về mùa màng xảy ra khi voi giẫm nát cây cối lúc đi qua khu đất, nhưng nhìn chung, người chịu thiệt là công nhân chứ không phải chủ sở hữu và quản lý.

Tuy nhiên, Padma và các đồng nghiệp nói rằng họ không tức giận những con voi. Bảy mươi lăm phần trăm số người được Naha phỏng vấn về việc voi đến làng mình đều có cảm xúc tích cực với chúng. Với số lượng thương vong và phá hoại do voi gây ra ở Bắc Bengal, số lượng các vụ giết voi trả thù lại hiếm tới mức ngạc nhiên. Naha cho biết chỉ có 3-5 con voi bị vậy mỗi năm.

Với sự giúp đỡ của Aritra, tôi kể cho Padma nghe điều xảy ra với thú có vú lớn ở Hoa Kỳ khi chúng gây thương tích cho con người hoặc dám đột nhập vào nhà. Tôi hỏi cô ấy liệu những người cô biết có bao giờ bày tỏ mong muốn giết một con voi đột nhập vào nhà hoặc cửa hàng của mình không. “Sao bạn lại giết một vị thần?” cô ấy nói, ám chỉ vị thần Hindu đầu voi Ganesh. “Chúng tôi chỉ nói, ‘Namaste và làm ơn đi đi.’”

Padma dẫn chúng tôi ra cánh đồng trà hiện đang mùa thu hoạch. Công nhân hái trà trải dọc theo các hàng, làm việc trên những bụi cây cao ngang lưng. Chỉ lá non xanh tươi mới được hái. Các công nhân làm tôi nhớ đến những người đánh trống, đứng yên với cánh tay di chuyển nhanh như điện. Họ buộc phải nhanh như vậy. Nếu không đáp ứng được hạn ngạch đã đặt ra, họ sẽ bị trừ lương.

Naha cúi xuống chỉ cho tôi khoảng trống bên dưới bụi trà. Người hái trà đôi khi gây bất ngờ cho một con báo cái đang nằm trong bóng râm cùng đàn con. Có thể con vật hoảng sợ thức dậy và nếu cảm thấy bị dồn vào chân tường hoặc bị đe dọa, nó sẽ lao vào người công nhân. Hiếm có ai tử vong, nhưng vẫn có thương tích. Chín mươi phần trăm các cuộc tấn công của báo hoa mai ở Bắc Bengal xảy ra trong các đồn điền trà.

Chúng tôi quan sát cánh phụ nữ làm việc. Khi hái đầy tay, họ thò tay ra sau đầu để nhét lá vào bao vải đeo trên trán. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Padma trước đó lại rất quan tâm đến chiếc ba lô của tôi. Bạn sẽ thấy rằng các quản lý có thể tìm mua những chiếc túi chuyên dụng phù hợp hơn cho nhiệm vụ của họ. Tôi nói điều này với Naha.

Anh xắn tay áo lên. “Họ được trả 150 rupee một ngày.” Số tiền này thấp hơn giá một ly cà phê cappuccino tại sân bay Delhi. “Đây là tâm lý thuộc địa. Họ chính là những người lao động thuộc bộ lạc mà người Anh đã mang đến từ miền trung Ấn Độ. Người ta thuê họ vì cho rằng họ chăm chỉ và ngoan ngoãn.”

Khi Naha kể cho tôi nghe về sổ đăng ký công việc dành cho động vật, về những chú voi đã nghỉ hưu và chế độ tắm cho chúng, ban đầu tôi rất ấn tượng. Chính phủ ở đây đảm bảo cho động vật làm việc hưởng một số lợi ích tương tự như người lao động bình thường. Bây giờ, nhìn cách người ta đối xử với người hái trà, lối đối xử hợp pháp, thì đánh giá của tôi không còn lạc quan nữa. Tùy thuộc vào giống loài, tôn giáo, giới tính và đẳng cấp của mình, có thể Ấn Độ là nơi làm động vật tốt hơn làm người. Vào năm 2019, chính quyền Delhi công bố kế hoạch cải tạo một trong năm khu bảo tồn mà họ duy trì dành cho những con bò linh thiêng vốn được thả rông, cản trở giao thông của thành phố. Có lẽ để đáp lại chỉ trích rằng thành phố chăm sóc bò tốt hơn người dân, Sở trưởng Sở Chăn nuôi của thành phố đã thông báo: “Chúng tôi đang lên kế hoạch cho một chương trình chung sống độc đáo, nơi người già sẽ được phép ở cùng đàn bò”.

Gần đây mọi chuyện đã trở nên cực đoan hơn. Thủ tướng hiện tại, Narendra Modi lên nắm quyền nhờ sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu. Đây là người đã ban tặng địa vị nhân cách (tư cách pháp nhân) cho sông Hằng. Một dòng sông được bảo vệ nhân quyền, trong khi phụ nữ như Padma kiếm được 150 rupee mỗi ngày và người Hồi giáo bị hành hình vì bán thịt bò.

Khi chúng tôi lên xe để đi, phó quản đốc chạy tới hai tay ôm đầy những chiếc túi Mylar: nửa cân trà cho mỗi người chúng tôi. Aritra cảm ơn anh rồi quay sang Naha khi xe đang chạy. “Đó là CTC.” (Từ viết tắt chỉ một phương pháp xử lý trà.) Với tôi, anh giải thích, “Loại rẻ nhất.”

--

Động vật hoang dã là chủ đề của Khu du lịch Jaldapara thuộc sở hữu của chính phủ, nơi tôi sẽ ở lại tối nay. Khuôn viên gồm mô hình thạch cao kích thước thật các loài động vật hoang dã địa phương. Nhiều tượng đã đổ hoặc có bộ phận bị gãy nằm ngay chỗ đã rơi xuống, trên bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận đến phi lý. Toàn bộ khoảng sân mang đến cảm giác một sân gôn thu nhỏ sau khi có một băng say rượu đến chơi gôn, đánh bại những con vật kỳ quái bằng bóng hoặc gậy đánh gôn.

Tôi yêu nơi này, yêu sự suy tàn siêu thực của nó, yêu người nhân viên không biết bữa sáng được phục vụ ở đâu hay ngay cả chuyện có bữa sáng hay không, thực sự yêu mọi thứ, ngoại trừ phân chuột trên ban công phòng mình. Tôi cố gắng tưởng tượng điều gì có thể thu hút chuột, nơi ban công không có thức ăn và bất cứ gì để làm tổ và thậm chí không có cả tầm nhìn rộng. Dường như lũ chuột chỉ đến để thải ra. Nhà vệ sinh chuột Jaldapara.

Đã có kế hoạch tu sửa khu nghỉ dưỡng này vì Bộ trưởng Lâm nghiệp Tây Bengal đang làm việc với Tổng công ty Phát triển Du lịch Tây Bengal nhằm thiết lập một khu bảo tồn tê giác ở khu rừng lân cận. Đây chính là khu rừng mà Naha, Aritra và tôi sắp tới. Chúng tôi sẽ theo dõi một “con báo thử nghiệm xung đột” đeo vòng cổ sóng vô tuyến – con báo số 26279 – đã được chuyển đến đây một năm rưỡi trước, khi người ta quyết định vùng đất này trở thành khu bảo tồn động vật hoang dã. Khi đó con vật vẫn chưa trưởng thành và Naha muốn kiểm tra để chắc chắn rằng nó không lớn quá cỡ vòng cổ vô tuyến.

Trong lúc ở đây, Naha sẽ diễn thuyết trước những thôn dân sống ở bìa rừng. Vòng cổ vô tuyến chỉ ra các điểm trên bản đồ, nhưng không trả lời các câu hỏi đặt ra khi thả kẻ săn mồi vào sân sau nhà con người. Có phải con báo đã bắt dê của bạn không? Mọi người có thấy ổn với việc nó ở đây không? Naha đã theo dõi, như một nhân viên xã hội đang sắp xếp việc nhận nuôi. Anh đã luôn theo dõi con báo từ xa và gọi điện cảnh báo nếu nhận thấy nó đang di chuyển về phía nhà họ.

Sáng nay chúng tôi có tài xế mới, Ashok. Anh hiếm khi tham gia vào cuộc trò chuyện, chỉ hoàn toàn tập trung lái xe. Một khác biệt so với người tiền nhiệm – anh này để tránh ngủ gật đã đính điện thoại thông minh của mình vào bên trong kính chắn gió và phát một bộ phim hài. (Naha không hề hoảng sợ. “Một mắt nhìn điện thoại, một mắt nhìn đường.”)

Chúng tôi rẽ khỏi đường nhựa để vào một đường đất xuyên qua những bụi cây ngày càng dày đặc. Cành cây cào xước hai bên hông xe. Ashok ngày càng im lặng. Anh có vẻ căng thẳng. Tôi đã nói gì sai sao? Anh đang lo lớp sơn xe sẽ bị trầy sao?

Vừa qua một dãy nhà, chúng tôi tấp vào lề đường bên cạnh một người đàn ông đang phun thuốc trừ sâu từ chiếc can đeo trên lưng cho luống súp lơ của mình. Naha xuống xe và ông tắt vòi phun. Một mắt bị đục. Ba người đàn ông khác đi loanh quanh đó. Aritra lắng nghe. Không có gì để báo cáo. Đã một thời gian họ không nhìn thấy con báo nữa.

Chúng tôi lái xe tiếp. Chúng tôi đi ngang qua một tháp canh các đội chống săn trộm thường sử dụng. Naha yêu cầu Ashok dừng lại để anh có thể leo lên và bắt được tín hiệu tốt hơn. Aritra bảo tôi ở lại trong xe với anh.

Naha bước xuống cầu thang của tòa tháp và quay lại xe. Anh bảo rằng chúng tôi hiện chỉ cách con báo 300m.

Chúng tôi cho xe đi tiếp. Đường cụt dẫn đến một con sông rộng. Naha lại bước ra ngoài. Anh đi dọc bờ sông đầy cát, tay cầm ăng-ten phía trên như ngọn đuốc. Phía bên kia, một nhóm đàn ông đang ngâm mình trong nước sâu đến thắt lưng để dọn sạch đám lục bình mọc um tùm.

Naha thò vào cửa sổ ô tô để cho biết rằng chúng tôi hiện đang cách con báo 150m. Tút-tút-tút-tút, có tín hiệu. Chúng tôi không thể đến gần hơn vì “con mèo” to xác đang ở bên kia sông. Anh chỉ tay. “Ngay sát phía trên những người đó.”

Gần đó không có cây cầu nào nên chúng tôi quay lại. Trên vài dặm cuối của chuyến đi, Ashok phá vỡ sự im lặng của mình. Anh và Naha nói chuyện bằng tiếng Hindi. Sau khi Ashok thả chúng tôi xuống, tôi hỏi Naha họ đã nói gì.

“Cha anh ấy đã bị báo hoa mai giết chết.”

Cha anh đi nhặt củi. Không thấy cha về, Ashok, lúc đó mới 12 tuổi đã cùng vài người bạn đi tìm. Họ tìm thấy ông, vẫn còn sống, dưới lòng sông. Giống nơi những người đàn ông khi nãy làm việc, cách con báo vài chục mét. “Họ đưa ông đến bệnh viện,” Naha nói, “nhưng ông không qua khỏi. Ông bị thương quá nhiều. Mắt, và mọi chỗ. Hẳn ông đã bị tấn công tới tấp”.

Ashok sẽ không làm tài xế chặng tiếp theo và như vậy là tốt nhất. Chúng tôi đang hướng về Pauri Garhwal, điểm nóng có nhiều vụ tấn công của báo hoa mai. Không phải kiểu chạm trán diễn ra trên đồn điền trà khi công nhân bất thình lình nhìn thấy con báo ngủ dưới gốc cây. Đó là những vụ rình rập, giết người được thực hiện có chủ ý.

Đọc bài viết

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Cafe sáng