Chương 1 “Đừng nói chúng ta không lợi quyền” – Madeleine Thien
Madeleine Thien dẫn dắt người đọc đi sâu vào cuộc sống đầy biến động của một gia đình Trung Hoa qua hai thế hệ tiếp nối nhau: thế hệ những người sống qua cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông giữa thế kỷ XX, rồi đến đời con cái của họ – những sinh viên tham gia biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn (1989), Hành trình của hai cô gái trẻ Marie và Ai-Ming không chỉ ráp nối lại từng mảnh ghép của câu chuyện gia đình, mà còn dần hé lộ những bi kịch của một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Trung Quốc, khi mỗi người nghệ sĩ phải đấu tranh với chính cái tôi của mình để sống còn, giữ vững lòng trung thành và cống hiến cho nền âm nhạc mà mình đang theo đuổi.
[Trích đoạn Chương 1] Đừng nói chúng ta không lợi quyền
Trích từ: Đừng nói chúng ta không lợi quyền
Tác giả: Madeleine Thien
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 1.2019
*
Trong vòng một năm, cha bỏ chúng tôi hai lần. Lần đầu tiên là khi ông kết thúc cuộc hôn nhân, và lần thứ hai, là khi ông tự kết liễu mình. Vào năm 1989 đó, mẹ tôi bay tới Hồng Kông và đưa cha tôi về an nghỉ ở một nghĩa trang gần biên giới Trung Quốc. Sau đấy, lòng rối bời, bà vội vã trở về nhà ở Vancouver nơi tôi đang ở một mình. Khi đó tôi mười tuổi.
Đây là những gì tôi nhớ:
Cha tôi có khuôn mặt đẹp trai không tuổi; ông là một người tử tế nhưng u sầu. Ông đeo kính không gọng và tròng kính mang lại ấn tượng là chúng chỉ lơ lửng ngay trước mặt ông như tấm màn mỏng nhất. Đôi mắt ông nâu sẫm, thận trọng và bất an; ông chỉ mới 39 tuổi. Cha tôi tên là Jiang Kai và ông sinh ra tại một làng nhỏ ngoại vi Trường Sa[1]. Sau này, khi tôi biết được rằng cha tôi là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng ở Trung Quốc, tôi nghĩ đến cách những ngón tay ông gõ trên bàn bếp, cách chúng nhẹ gõ qua mặt bàn và trên đôi cánh tay mềm của mẹ tôi cho tới tận đầu những ngón tay, khiến bà phát điên và khiến tôi bùng lên niềm vui thú. Ông đặt cho tôi tên tiếng Trung là Jiang Li-ling và tên tiếng Anh là Marie Jiang. Khi ông mất, tôi mới chỉ là một đứa trẻ, và cho dù có rời rạc và không chính xác thì một vài ký ức vẫn là tất cả những gì tôi có về ông.
Tôi không bao giờ để mất chúng.
Trong những năm tháng tuổi hai mươi, những năm tháng khó
khăn sau khi cả cha mẹ tôi đều đã mất, tôi toàn tâm toàn ý dành thời gian cho
quan sát số, giả thuyết, lô-gích và chứng minh, đây là những công cụ mà các nhà
toán học chúng tôi dùng không chỉ để diễn giải, mà còn đơn giản là để mô tả thế
giới. Suốt chục năm qua tôi là giáo sư tại Đại học Simon Fraser, Canada. Các
con số cho phép tôi di chuyển giữa một lượng lớn không tưởng và một lượng nhỏ
vô cùng, cho phép tôi sống một cuộc đời biệt lập khỏi cha mẹ tôi, khỏi những
giấc mơ không được hồi đáp của họ, và như tôi từng nghĩ, để sống cuộc đời của
chính tôi.
Mấy năm trước, hồi năm 2010, trong khi đi dạo nơi phố Tàu ở
Vancouver, tôi đi qua một tiệm bán đĩa DVD. Tôi nhớ rằng trời đang đổ mưa và
trên vỉa hè không có ai. Tiếng nhạc cổ điển vang lên từ hai cái loa vĩ đại nằm
bên ngoài tiệm. Tôi biết bản nhạc đó, bản Xô-nát
số 4 dành cho dương cầm và vĩ cầm của Bach, và tôi bị kéo về phía bản nhạc
một cách mãnh liệt như thể ai đó đang dùng tay kéo tôi lại. Bản hòa âm mang nhà
soạn nhạc, các nhạc công và thậm chí cả sự im lặng lại với nhau, bản nhạc ấy,
với những con sóng xoắn ốc từ nỗi buồn và lòng oán giận là tất cả những gì tôi
nhớ.
Choáng váng, tôi dựa vào lớp kính.
Và rồi đột nhiên tôi đang ở trong xe ô-tô với cha tôi. Tôi
nghe tiếng mưa văng lên lốp và tiếng cha tôi hát nho nhỏ.
Ông sống động quá, thương yêu quá, đến nỗi
sự khó hiểu về việc ông tự sát lại một lần nữa khiến tôi buồn ghê gớm. Lúc đó
cha tôi đã mất được hai thập kỷ, và mảnh ký ức về ông tinh nguyên đến như vậy
chẳng bao giờ trở lại với tôi nữa. Khi ấy tôi ba mươi mốt tuổi.
Tôi đi vào tiệm. Người nghệ sĩ dương cầm với cái tên Glenn
Gould xuất hiện trên màn hình phẳng: ông và Yehudi Menuhin đang trình diễn bản
xô-nát của Bach mà tôi đã nhận ra. Glenn Gould đang cong mình trên chiếc dương
cầm, ông mặc bộ lễ phục sẫm màu và đang nghe những giai điệu vượt quá tầm mà
phần lớn chúng ta có khả năng cảm nhận, ông ta… quá đỗi thân thuộc đối với tôi,
giống như cả một ngôn ngữ, cả một thế giới mà tôi đã quên.
Vào năm 1989, cuộc sống trở thành một chuỗi những việc cần thiết hàng ngày đối với mẹ con tôi: đi làm và đi học, xem ti-vi, ăn, ngủ. Lần ra đi đầu của cha tôi xảy đến cùng lúc với những sự kiện quan trọng diễn ra ở Trung Quốc, mẹ tôi chăm chăm xem tin tức về những sự kiện đó trên kênh CNN. Tôi hỏi bà những người biểu tình đó là ai, bà nói rằng họ là sinh viên và dân thường. Tôi hỏi liệu cha tôi có ở đó, và bà nói “Không đâu, đó là Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh.” Các cuộc biểu tình khiến hơn một triệu người dân Trung Quốc xuống đường bắt đầu vào tháng Tư, khi cha vẫn sống với chúng tôi, và tiếp tục đến sau khi ông biến mất để tới Hồng Kông. Và rồi, vào ngày 4 tháng Sáu, cũng như những ngày, rồi những tuần sau đó, mẹ tôi khóc. Tôi ngó bà hết đêm này đến đêm kia. Cha đã rời khỏi Trung Quốc vào năm 1978 và bị cấm quay trở lại. Nhưng sự khó hiểu của tôi gắn liền với những điều tôi có thể thấy: đó là những hình ảnh hỗn loạn và khủng khiếp của người và xe tăng, và hình ảnh mẹ tôi trước màn hình.
Mùa hè năm đó cảm tưởng như một giấc mơ, tôi tiếp tục các
bài học thư pháp ở trung tâm văn hóa gần nhà, dùng bút lông và mực sao chép thơ
tiếng Trung, hết dòng này đến dòng khác. Nhưng những từ tôi có thể nhận ra được
không nhiều, những từ như Đại, Tiểu, Nữ, Nguyệt, Thiên. Cha tôi nói tiếng Quan
Thoại còn mẹ nói tiếng Quảng Đông, nhưng tôi chỉ rành tiếng Anh. Hồi đầu, những
hình ghép tiếng Trung dường như là một trò chơi hay thú vui, nhưng rồi việc
không hiểu được bắt đầu gây trở ngại cho tôi. Tôi viết đi viết lại những ký tự
mà tôi không thể đọc được, càng viết càng lớn cho tới khi phần mực thừa làm ướt
đẫm tờ giấy mỏng rồi xé mất tờ giấy. Tôi chẳng quan tâm. Tôi không đến lớp nữa.
Vào tháng Mười, hai sĩ quan cảnh sát đến cửa nhà chúng tôi.
Họ báo cho mẹ biết rằng cha đã đi rồi, và rằng văn phòng điều tra ở Hồng Kông
sẽ lo trường hợp này. Họ nói cái chết của cha là do tự sát. Sau đó, sự im lặng
trở thành một người nữa sống trong nhà chúng tôi. Nó ngủ trong tủ đồ cùng với
áo, quần và giày của cha, nó bảo vệ những bản nhạc của Beethoven, Prokofiev và
Shostakovich, đám mũ, chiếc ghế bành và chiếc cốc đặc biệt của cha. Im lặng
chuyển vào tâm trí chúng tôi và dữ dội như biển cả trong mẹ con tôi. Mùa đông
năm đó, Vancouver thậm chí còn xám hơn và ướt át hơn lệ thường, như thể làn mưa
là chiếc áo len dày mà chúng tôi không thể cởi ra được. Tôi đi ngủ mà vẫn chắc
rằng đến sáng, cha sẽ đánh thức tôi dậy như ông luôn làm, giọng ông kéo tôi ra
khỏi giấc ngủ, cho tới khi ảo tưởng trộn lẫn với mất mát và gây đau đớn hơn
nhiều cảm xúc mang tới trước đó.
Tuần theo tuần trôi qua, và năm 1989 chuyển thành 1990. Mẹ
con tôi ăn tối trên ghế xô-pha mỗi tối vì không có chỗ trên bàn ăn. Giấy tờ
pháp lý của cha tôi bao gồm các chứng chỉ đủ loại và chứng nhận khai thuế đã
được sắp xếp, nhưng các giấy tờ linh tinh vẫn còn. Khi mẹ kiểm tra căn hộ triệt
để hơn, các giấy tờ khác được tìm thấy, bao gồm các bản nhạc, một nắm thư từ
cha tôi viết nhưng chưa từng gửi (ví dụ như “Chim Sẻ ơi, em không biết liệu lá
thư này có tới được với anh không, nhưng…”), và ngày càng nhiều những cuốn sổ.
Khi tôi thấy những món đồ này cứ tăng lên, tôi hình dung mẹ tin rằng cha sẽ tái
sinh trong một khối hình bằng giấy. Hoặc có thể là giống như tổ tiên mình, bà
tin rằng chữ viết trên giấy là bùa hộ mệnh và bằng cách nào đó có thể bảo vệ
chúng tôi khỏi nguy hại.
Hầu hết các đêm, mẹ ngồi với đám giấy tờ trong khi vẫn mặc
nguyên đồ công sở.
Tôi cố gắng không làm phiền bà. Tôi ở trong phòng khách sát
bên và thỉnh thoảng nghe thấy trang giấy giở gần như không phát ra tiếng động.
Nghe thấy hơi thở yên lặng của bà.
Nghe thấy mưa rào chảy xuống khung cửa sổ.
Chúng tôi bị ngưng lại trong dòng thời
gian.
Hết lần này đến lần khác, chiếc xe buýt điện số 29 ồn ào
chạy qua.
Tôi tưởng tượng ra những cuộc nói chuyện. Tôi cố hình dung
cha tái sinh ở thế giới bên kia, đang mua một cuốn nhật ký mới, dùng một loại
tiền mới, và nhét tiền thừa vào túi chiếc áo khoác mới, chiếc áo nhẹ làm từ lông
vũ, hoặc có thể là áo trùm làm bằng lông lạc đà, áo này đủ chắc cho cả thiên
đàng và thế giới bên kia.
Trong lúc đó, mẹ tôi làm mình sao lãng bằng việc cố gắng
tìm gia đình của cha tôi để báo cho họ biết rằng người con trai, người anh hay
người chú đã mất tích từ lâu của họ không còn sống trên đời này nữa, bất kể họ
đang ở đâu. Bà bắt đầu với việc tìm kiếm người cha nuôi của cha, ông từng sống
ở Thượng Hải và được biết đến như là “vị Giáo sư”. Ông là người thân duy nhất
cha từng nhắc đến. Công cuộc tìm kiếm thông tin diễn ra chậm chạp và nhẫn nại;
thời đó chưa có thư điện tử hay mạng Internet, vì thế việc mẹ gửi thư đi thì dễ
nhưng khó nhận được câu trả lời chính xác. Cha tôi đã rời Trung Quốc từ lâu và
nếu Giáo sư vẫn còn sống, ông phải già lắm rồi.
Bắc Kinh mà chúng tôi thấy trên ti-vi với những nhà xác và
những gia đình đau buồn, với xe tăng đóng ở mỗi ngã tư, trang bị đầy súng
trường, là một thế giới khác xa với Bắc Kinh mà cha tôi từng biết. Tuy thế,
thỉnh thoảng tôi nghĩ, cuối cùng thì cũng không khác nhau nhiều lắm.
Vài tháng sau, tháng Ba năm 1990, mẹ đưa cho tôi xem cuốn
Những Bản Ghi. Đêm hôm đó, mẹ ngồi chỗ quen thuộc nơi bàn ăn, đọc cuốn sổ. Cuốn
sổ trong tay bà dài và hẹp, kích thước như một cánh cửa nhỏ. Cuốn sổ có một sợi
dây cô-tông màu hồ đào buộc hờ lại.
Quá giờ đi ngủ của tôi đã lâu, đột nhiên
mẹ để ý thấy tôi.
“Có việc gì với con thế hả!” Bà nói. Và rồi, bối rối bởi
chính câu hỏi của mình, bà tiếp: “Con đã làm xong bài tập về nhà chưa? Mấy giờ
rồi?”
Tôi đã làm xong từ lâu lắm, và giờ đang xem một bộ phim
kinh dị tắt tiếng. Tôi vẫn còn nhớ đó là cảnh một người đàn ông vừa bị giết
bằng một chiếc cuốc băng. “Nửa đêm rồi ạ,” tôi nói, thất thần vì ông ta đã mềm
như bún.
Mẹ tôi đưa một tay ra và tôi tới chỗ bà. Bà ôm một tay
quanh eo tôi, siết chặt. “Con có muốn xem thứ mẹ đang đọc không?”
Tôi nghiêng người qua cuốn sổ và chăm chú nhìn đám chữ. Các
ký tự tiếng Trung chạy xuống trang giấy như những dấu chân thú trên tuyết.
“Đó là một câu chuyện,” mẹ nói.
“Thế ạ. Thể loại gì ạ?”
“Mẹ nghĩ đó là tiểu thuyết. Một người ưa mạo hiểm tên là Da-wei giong buồm về châu Mỹ và một nữ anh hùng tên là May Fourth[2] đi bộ qua sa mạc Gobi…”
Tôi cố gắng hơn nữa nhưng những từ ngữ vẫn không thể đọc
được.
“Ngày xưa người ta sao nguyên cả quyển sách bằng cách chép
tay,” mẹ nói. “Người Nga gọi đó là ‘samizdat’, còn người Trung Quốc gọi là… ờ,
mẹ không nghĩ là mình có một từ riêng cho việc đó. Con nhìn xem cuốn sổ này bẩn
chưa, có cả ít cỏ trên sổ nữa. Ai mà biết được bao nhiêu người đã mang cuốn sổ
tới những nơi nào… cuốn sổ này tuổi đời hơn con mấy chục năm đấy, Li-ling.”
Tôi tự hỏi có thứ gì ít tuổi hơn mình không? Rồi tôi hỏi bà
liệu có phải cha đã sao chép cuốn sổ.
Mẹ lắc đầu. Bà nói chữ viết đẹp lắm, phải từ một nhà thư
pháp tài giỏi, chứ chữ viết của cha thì chỉ tàm tạm thôi. “Cuốn sổ này là một
chương của một cuốn sách dài. Ở đây có ghi ‘Số 17’. Không thấy ghi tên tác giả,
nhưng con xem này, có tựa đề là ‘Những Bản Ghi’”.
Bà đặt cuốn sổ xuống. Trên bàn ăn, giấy tờ của cha chất
đống như những đợt sóng bạc đầu lao về phía trước, như muốn lao khỏi mặt bàn mà
đổ xuống mặt thảm. Tất cả đám thư từ của chúng tôi cũng nằm đó. Từ năm mới đến
nay, mẹ bắt đầu nhận được thư từ Bắc Kinh, đó là những lời chia buồn của các
nhạc công trong Dàn nhạc Giao hưởng Trung ương, mãi gần đây họ mới biết về cái
chết của cha. Mẹ đọc những lá thư này với quyển từ điển trong tay bởi chúng
được viết bằng tiếng Trung Giản thể, kiểu chữ mẹ chưa từng học. Mẹ tôi được
giáo dục ở Hồng Kông, bà học chữ tiếng Trung truyền thống. Nhưng ở đại lục, trong
những năm 1950, một bảng chữ mới đơn giản hơn đã trở thành luật tại Trung Hoa
Cộng sản. Hàng ngàn từ đã thay đổi; ví dụ, từ “viết” đổi từ 寫 thành 写, từ “biết” đổi từ 識 thành 识. Thậm chí từ “Đảng
Cộng sản” cũng đổi từ 共產黨 thành 共产党. Đôi khi mẹ nhìn ra được từ cũ, còn lại mẹ đoán nghĩa. Bà
bảo giống như là đọc một lá thư từ tương lai hoặc nói chuyện với một người quay
lưng về phía mình vậy. Đã thế còn thêm phức tạp vì thực tế là hiếm khi bà đọc
tiếng Trung nữa, bà chủ yếu bộc lộ suy nghĩ bằng tiếng Anh. Bà không thích
tiếng Quan Thoại của tôi vì bà nói “Trọng âm của con méo mó hết thảy.”
“Ở đây lạnh quá,” tôi thì thầm. “Mẹ con mình mặc đồ ngủ rồi
vào giường đi mẹ.”
Mẹ nhìn cuốn sổ chằm chằm, không nghe
thấy.
“Đến sáng mẹ sẽ bị mệt đấy,” tôi khăng khăng. “Mẹ sẽ ngủ gà
gật tới hai chục lần cho xem.”
Mẹ mỉm cười nhưng đôi mắt sau cặp kính căng lại vì điều gì
đó. “Đi ngủ đi con,” bà nói. “Đừng thức chờ mẹ.”
Tôi hôn gò má mềm mại của bà. Bà hỏi, “Nhà sư nói gì với
thợ làm bánh pizza?”
“Nói gì ạ?”
“Làm cho tôi một cái đầy đủ các thứ.”
Tôi cười lớn, rên rỉ rồi lại cười lớn, đoạn rùng mình khi
nghĩ đến nạn nhân trong bộ phim trên ti-vi, nghĩ đến làn da trắng bệch của ông
ta. Mỉm cười, bà kiên quyết dùng khuỷu tay đẩy tôi ra.
Nằm trên giường, tôi cân nhắc mấy điều
thực tế.
Điều đầu tiên là ở lớp Năm mà tôi đang theo học, tôi là một
người khác hẳn. Tôi rất thuần hậu, biết cư xử và đạt kết quả tốt đến nỗi tôi
phải tự hỏi liệu bộ não và linh hồn mình có tách biệt không.
Điều thứ hai là tại những nước nghèo hơn, người như mẹ con
tôi sẽ không cô đơn đến thế này. Trên ti-vi, những nước nghèo đông đúc lắm, họ
là những chiếc thang máy quá tải đang cố vươn lên trời cao. Người ta ngủ tới
sáu người chung một giường và cả tá người chung một phòng. Ở đó bạn có thể luôn
nói lớn suy nghĩ của mình, yên tâm là sẽ có ai đó nghe thấy bạn kể cả nếu họ
không muốn. Thật ra, cách trừng phạt một người chắc là loại bỏ họ khỏi gia đình
và bè bạn, cô lập họ ở một đất nước lạnh lẽo và phá vỡ họ bằng nỗi cô đơn.
Điều thứ ba không phải là một thực tế mà là một câu hỏi:
Vì sao tình yêu của chúng tôi lại không mấy
ý nghĩa đối với cha?
Hẳn là tôi đã ngủ, vì thình lình tôi thức dậy và thấy mẹ
đang khom người phía trên tôi. Ngón tay bà lau mặt tôi. Tôi chẳng bao giờ khóc
vào ban ngày cả, chỉ đêm thôi.
“Đừng thế này, Li-ling,” mẹ nói. Bà lẩm bẩm nhiều thứ. Bà
nói, “Nếu con bị mắc kẹt trong một căn phòng và không ai đến cứu con thì con có
thể làm gì? Con phải đập mạnh vào tường và phá cửa sổ. Con phải trèo ra và cứu
chính mình. Li-ling à, hiển nhiên là khóc không giúp người ta sống sót đâu.”
“Tên con là Marie,” tôi gào. “Là Marie!”
Bà mỉm cười. “Con là ai?”
“Con là Li-ling!”
“Con là Nữ.” Bà dùng tên ở nhà cha gọi tôi, vì chữ “nữ” vừa
có nghĩa là nữ, vừa có nghĩa là con gái. Ông thích nói đùa là ở nơi ông sinh
ra, người nghèo còn chẳng buồn đặt tên cho con gái họ. Mẹ sẽ đánh vào vai ông
và nói bằng tiếng Quảng Đông, “Đừng tiêm nhiễm mấy thứ vớ vẩn vào đầu óc con
bé.”
Được bảo bọc trong vòng tay mẹ, tôi cuộn mình vào giấc ngủ
một lần nữa.
Sau đó tôi thức giấc nghe tiếng mẹ lẩm bẩm dòng suy tư và
bà đang cười nhẹ. Sáng mùa đông thật tối tăm, nhưng tiếng cười bất chợt của mẹ
cắt ngang phòng như tiếng kêu của chiếc máy sưởi điện. Da bà thơm mùi gối sạch
và mùi kem hương hoa mộc tê ngọt ngào mà bà dùng.
Khi tôi thì thầm tên bà, bà lẩm bẩm, “Ha.”
Rồi sau đó, “Ha ha.” Tôi hỏi bà, “Mẹ đang bước đi trên đất liền hay dưới biển
vậy?”
Với vẻ rất khác lạ, bà nói, “Ông ấy đây
rồi.”
“Ai cơ ạ?” Tôi cố nhìn trong bóng tối của căn phòng. Tôi
thực sự tin là ông ấy ở đây.
“Người nhận nuôi. Người… Ừm… Vị Giáo sư
đó.”
Tôi nắm chặt tay bà. Phía bên kia tấm màn cửa, bầu trời
đang đổi màu. Tôi muốn theo bà đi vào quá khứ của cha, vậy nhưng tôi không tin
được. Người ta có thể đi xa vào ảo tưởng, họ có thể thấy điều gì đó quá thu hút
khiến họ không màng quay lại. Tôi sợ rằng giống như cha, bà sẽ không còn nhớ lý
do để về nhà nữa.
Cuộc sống bên ngoài, từ việc bắt đầu năm học mới, các bài
kiểm tra thường kỳ, đến các trại toán học đầy vui thú, vẫn tiếp tục như thể
chưa từng dừng lại, cuộc sống ấy được lái về phía trước bởi các mùa vòng đi
vòng lại. Áo hè và áo đông của cha vẫn chờ đợi bên cánh cửa, bên dưới mũ và
phía trên giày của ông.
Sớm tháng Mười hai, một phong bì thư dày được gửi đến từ
Thượng Hải, một lần nữa mẹ ngồi xuống với cuốn từ điển. Cuốn từ điển cỡ nhỏ,
bìa cứng cực kỳ dày với lớp bìa màu xanh lá và trắng. Khi tôi giở sách, các
trang trong mờ và nhẹ gần như không khí. Đây đó, tôi thấy một vệt dầu mỡ hoặc
vết cà phê hình khuyên, chắc là do cốc cà phê của mẹ hoặc có thể của tôi cũng
nên. Mỗi từ được viết dưới phần gốc của từ đó, hay còn gọi là ngữ căn. Ví dụ
như từ 門 nghĩa là “môn” (cánh cổng), nhưng nó cũng
là một ngữ căn, có nghĩa nó là một khối cơ sở xây nên các từ và khái niệm khác.
Nếu ánh sáng, hay “nhật” 日, soi sáng qua “môn”,
chúng ta có từ “không gian” 間. Nếu có chữ “mã” 馬 trong “môn”, nó có nghĩa là sự mai phục 闖, và nếu có chữ “khẩu” 口 trong
“môn”, chúng ta có từ “câu hỏi” 問. Nếu có chữ “thị”
(mắt) 目 và “cẩu” 犬 bên
trong, chúng ta có từ “yên lặng” 闃.
Lá thư từ Thượng Hải dài ba mươi trang được viết bởi một
bàn tay viết rối; sau vài phút tôi thấy mệt khi nhìn mẹ khó khăn đọc nó. Tôi đi
ra phòng trước và chằm chằm nhìn sang hàng xóm. Ngang qua sân, tôi thấy một cây
thông Noel khốn khổ. Trông như thể ai đó đã cố gắng làm cái cây ngộp thở bằng
vòng kim tuyến.
Mưa trút xuống và gió thổi qua. Tôi mang cho mẹ một cốc kem
trứng.
“Thư mang tin tốt không ạ?”
Mẹ đặt những trang thư xuống. Hai mí mắt bà trông sưng lên.
“Đây không phải là điều mẹ chờ đợi.”
Tôi đưa ngón tay chạy ngang qua phong bì
và bắt đầu giải nghĩa tên người gửi. Cái tên đó khiến tôi ngạc nhiên. “Một phụ
nữ ạ?” Tôi hỏi, đột nhiên thấy sợ.
Mẹ gật đầu.
“Bà ấy có một yêu cầu,” mẹ nói khi lấy phong bì từ tay tôi
rồi đẩy nó xuống dưới mấy trang giấy. Tôi dịch lại gần mẹ hơn, như thể bà là
một lọ hoa sắp rơi khỏi bàn, nhưng cặp mắt sưng tấy của mẹ mang một thứ cảm xúc
không ngờ. Phải chăng là sự an ủi? Hay là, trước sự kinh ngạc của tôi, có lẽ
nào đó là niềm hân hoan? Mẹ tiếp lời: “Bà ấy muốn xin một ân huệ.”
“Mẹ sẽ đọc lá thư cho con nghe chứ?”
Mẹ nhéo đầu sống mũi giữa hai mắt mình và nói. “Cả lá thư
dài lắm. Bà ấy nói rằng đã nhiều năm rồi bà ấy không gặp cha con. Nhưng đã có
lúc họ thân thiết như gia đình.” Mẹ ngập ngừng ở từ gia đình. “Bà ấy nói rằng chồng bà là giáo viên soạn nhạc của cha
con ở Học viện Âm nhạc Thượng Hải. Nhưng rồi họ mất liên lạc với nhau trong
những năm tháng khó khăn đó.”
“Những năm tháng khó khăn nào ạ?” Tôi bắt đầu nghi ngờ là
cái ân huệ kia có liên quan đến đô-la Mỹ hoặc một cái tủ lạnh mới, và tôi sợ
rằng bà sẽ bị lợi dụng.
“Trước khi con ra đời cơ, hồi những năm 1960. Khi cha con
còn là một sinh viên nhạc.” Mẹ nhìn xuống với một biểu cảm không thể đọc được.
“Bà ấy nói rằng năm ngoái cha con liên lạc với họ. Cha gửi thư cho bà ấy từ
Hồng Kông vài ngày trước khi ông mất.”
Một chuỗi câu hỏi nảy ra trong tôi. Tôi biết mình không nên
làm phiền bà nhưng cuối cùng chỉ vì muốn hiểu được câu chuyện, tôi hỏi, “Bà ta
là ai ạ? Tên bà ta là gì?”
“Họ của bà ấy là Đặng.”
“Tên bà ta cơ ạ.”
Mẹ mở miệng nhưng không thốt ra lời nào. Cuối cùng, bà nhìn
thẳng vào mắt tôi và nói, “Tên bà ấy là Li-ling.”
Bà ta có cùng tên với tôi, chỉ có điều viết bằng tiếng
Trung giản thể. Tôi với tay về phía lá thư. Mẹ kiên quyết đặt tay lên tay tôi.
Chặn trước câu hỏi tiếp theo của tôi, bà nói tiếp, “Ba mươi trang thư này nói
về hiện tại chứ không phải quá khứ. Con gái của Đặng Li-ling đã đến Toronto
nhưng hộ chiếu của con bé không thể sử dụng được. Con gái bà ấy không có nơi
nào để đi và bà ấy cần sự giúp đỡ của chúng ta. Con gái bà ấy…” Mau lẹ, bà đẩy
lá thư vào trong bì thư. “Con gái bà ấy sẽ tới sống với chúng ta một thời gian.
Con có hiểu không? Lá thư này là về hiện tại.”
Tôi cảm thấy ruột gan vặn xoắn và thế giới đảo lộn tùng
phèo. Vì sao một người lạ lại sống cùng chúng tôi chứ?
“Con gái bà ấy tên là Ai-ming,” mẹ nói, ráng đưa tôi về
thực tại. “Giờ mẹ sẽ đi gọi điện để sắp xếp cho con bé đến đây.”
“Con và cô ta có cùng tuổi không?”
Trông mẹ bối rối. “Không đâu con, cô ấy hẳn phải mười chín
tuổi rồi và đang là sinh viên. Đặng Li-ling nói rằng con gái bà ấy… bà ấy nói
rằng Ai-ming dính vào rắc rối ở Bắc Kinh trong thời gian biểu tình Thiên An Môn
diễn ra. Con bé đã chạy trốn.”
“Rắc rối thế nào ạ?”
“Đủ rồi,” mẹ tôi nói. “Đó là tất cả những
gì con cần biết.” “Không! Con cần biết nữa.”
Bực bội, mẹ đóng mạnh cuốn từ điển lại. “Ai nuôi con lớn
thế hả? Con còn quá bé để tọc mạch thế này!”
“Nhưng mà…“
“Đủ rồi.”
Mẹ chờ cho tới khi tôi vào giường mới gọi điện. Bà nói bằng
tiếng mẹ đẻ của mình, tiếng Quảng Đông, với một ít tiếng Quan Thoại chen vào,
thậm chí qua cánh cửa đóng, tôi có thể nghe thấy giọng bà ngấp ngứ với những
thanh dấu vốn chưa bao giờ trở thành một phần ngôn ngữ tự nhiên đối với bà.
“Nơi cháu đang ở có lạnh lắm không?” Tôi
nghe mẹ nói.
Rồi tiếp: “Cháu sẽ nhận vé xe buýt của
hãng Greyhound ở…”
Tôi bỏ kính xuống rồi trông ra ngoài cửa sổ mờ mịt. Mưa
nhìn như tuyết. Giọng mẹ nghe như tiếng nước ngoài.
Sau một hồi lâu im lặng, tôi đeo lại kính qua tai, trèo ra
khỏi giường và đi ra ngoài. Mẹ đang cầm cây bút trong tay, một đống hóa đơn nằm
trước mặt bà như thể chờ để sai khiến. Bà thấy tôi và hỏi, “Dép của con đâu?”
Tôi nói là tôi không biết.
Mẹ bùng nổ. “Vào giường đi Nữ! Sao con không hiểu hả? Mẹ
chỉ muốn một chút yên bình thôi! Con không bao giờ để mẹ một mình cả, con cứ
nhìn mẹ và cứ như là con nghĩ mẹ sẽ…” Bà đập cây bút xuống. Một số mảnh vỡ ra
và lăn qua sàn nhà. “Con nghĩ mẹ sẽ rời bỏ à? Con nghĩ mẹ ích kỷ như cha con à?
Con nghĩ sẽ có lúc mẹ bỏ rơi con và làm con tổn thương như ông ấy đã làm à?”
Một từ tiếng Quảng Đông dài dữ dội bùng ra, rồi bà tiếp: “Đi về giường đi!”
Trông bà có tuổi và mong manh quá, ngồi đó với cuốn từ điển
cũ nặng nề.
Tôi lao vào phòng tắm, đóng sầm cửa, mở ra, rồi đóng sầm
lớn tiếng hơn, và đổ ra khóc. Tôi mở nước vào bồn, nhận ra rằng quả thực điều
tôi thật sự muốn là đi về giường. Những tiếng nức nở của tôi trở thành tiếng
nấc, và khi tiếng nấc cuối cùng cũng ngưng, tất cả những gì tôi nghe được là
tiếng nước rơi xuống. Ngồi lên cạnh bồn, tôi ngắm chân mình méo đi dưới làn
nước. Cặp chân xanh xao của tôi gập lại khi tôi nhúng mình xuống nước.
Người cha trong ký ức trở lại với tôi. Ông đẩy băng cát-xét
vào máy chạy cát-xét, bảo tôi cuộn cửa sổ xuống, rồi chúng tôi chạy xe tới Main
Street, dọc theo Great Northern Way, kèn vang theo bản Công-xéc-tô Hoàng Đế của Beethoven do Glenn Gould trình diễn dưới
sự chỉ huy của Leopold Stokowski. Những nốt nhạc lộn xộn chảy xuống như thác và
lên vô tận, cha tôi chỉ huy bằng tay phải trong khi lái xe bằng tay trái. Tôi
nghe tiếng ông ngân nho nhỏ, đầy giai điệu và gõ nhịp: DA! DA-de-de-de DA!
Da, da, da! Tôi có cảm giác rằng khi chúng tôi diễu hành trong khúc khải hoàn ngang qua Vancouver, khúc nhạc đầu tiên được tạo ra bởi cha tôi chứ không phải Beethoven. Tay ông chuyển động theo nhịp 4/4, điểm nhấn treo ngang giữa nhịp bốn và nhịp một, và tôi tự hỏi việc một người đã từng nổi tiếng, từng trình diễn tại Bắc Kinh trước mặt chính Mao Trạch Đông mà thậm chí không có một chiếc dương cầm trong nhà mình, việc đó có thể hiểu như thế nào? Phải chăng ông kiếm tiền bằng công việc trong một cửa tiệm? Thực ra, mặc dù tôi đã nài nỉ được học chơi vĩ cầm, câu trả lời của cha tôi luôn là “không”. Vậy mà giờ chúng tôi đang ở đây, băng ngang thành phố, được bao trùm trong giai điệu chiến thắng này, để cho quá khứ của cả Beethoven và của cha tôi, chưa bao giờ chết mà chỉ phản chiếu lại bên dưới kính chắn gió, rồi trỗi dậy và bao phủ chúng tôi như vầng mặt trời.
Chiếc xe hiệu Buick đó không còn nữa vì mẹ đã bán nó rồi.
Mẹ đã luôn là người mạnh mẽ hơn cha, giống như cây xương rồng trong phòng khách
– cái cây trong nhà duy nhất còn sống sót sau sự ra đi của cha. Để sống thì cha
tôi cần nhiều hơn nữa. Nước trong bồn phủ qua người tôi. Xấu hổ vì để phí nước,
tôi vặn mạnh khóa nước vào. Cha tôi từng nói rằng âm nhạc tràn đầy những khoảng
lặng. Ông không để lại gì cho tôi hết, không thư từ, không nhắn gửi. Không một
lời.
Mẹ gõ cửa.
“Marie ơi,” bà nói. Mẹ vặn tay nắm nhưng cửa bị khóa.
“Li-ling ơi, con có ổn không?”
Một khoảng lặng dài trôi qua.
Sự thật là tôi đã yêu cha nhiều hơn thế. Nhận thức đó đến
với tôi cùng lúc khi tôi biết mà không chút hồ nghi rằng cha hẳn đã phải đau
đớn lắm, rằng mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi. Mẹ cũng đã yêu cha. Nước mắt rơi,
tôi đặt hai bàn tay lên mặt nước. “Con chỉ muốn tắm thôi.”
“Ồ,” bà nói. Giọng bà dường như vang vọng lại trong chính
chiếc bồn. “Đừng để bị lạnh trong đó nhé.”
Bà cố mở cửa lần nữa nhưng cửa vẫn khóa.
“Chúng ta sẽ ổn thôi,” cuối cùng bà nói.
Hơn tất thảy, tôi muốn đánh thức cả hai chúng tôi dậy khỏi
giấc mơ này. Thay vì thế, tôi té nước một cách vô vọng lên dòng nước mắt của
mình và gật đầu, “Con biết.”
Tôi lắng nghe tiếng dép của bà xa dần khi chúng rời đi.
—
Vào ngày 16 tháng 12 năm 1990, mẹ về nhà trong xe tắc-xi
cùng với đứa con gái mới nhận, người đó không mặc áo khoác, chỉ quấn một chiếc
khăn dày, mặc áo len, quần bò xanh và đi giày bằng vải bố. Trước đây tôi chưa
từng gặp một cô gái người Trung Quốc – người cũng đến từ Trung Hoa đại lục
giống cha tôi. Một đôi găng tay màu xám treo tòn ten từ một sợi dây quanh cổ cô
ta, chúng lắc lư theo nhịp một cách căng thẳng trên đôi chân cô. Hai đầu chiếc
khăn xanh viền tua, một ngã ra trước, một nằm phía sau, khiến cô trông giống
như một học giả. Mưa đang rơi nặng hạt, cô ta bước đi, đầu cúi xuống, tay cầm
chiếc va-li cỡ trung trông như trống rỗng. Cô ta xanh xao, tóc cô ta nhấp nhánh
màu biển.
Tôi mở cửa ra như bình thường, mắt mở to như thể tôi không
nghĩ có khách đến.
“Nữ ơi,” mẹ nói. “Cầm va-li đi con. Mau
nào.”
Ai-ming bước vào nhà, dừng lại bên rìa thảm chùi chân. Khi
tôi với tay cầm chiếc va-li, tay tôi tình cờ chạm tay cô ta, nhưng cô ta không
rụt lại. Thay vì thế cô ta đưa bàn tay kia ra và nhẹ phủ lên tay tôi. Cô ta
nhìn thẳng vào tôi với một sự cởi mở và hiếu kỳ đến mức khiến tôi xấu hổ mà
nhắm mắt lại.
“Ai-ming à,” tiếng mẹ đang nói. “Để chị giới thiệu với em,
đây là con gái của chị.”
Tôi rút tay ra và mở mắt.
Mẹ tôi vừa cởi áo khoác vừa liếc nhìn trước tiên là tôi,
rồi đến căn phòng. Ghế xô-pha màu nâu với ba sọc màu lạc đà trông đã khá cũ,
nhưng tôi đã trang hoàng nó với gối hoa và thú nhồi bông lấy từ giường tôi. Tôi
cũng đã bật ti-vi lên để khiến căn phòng có diện mạo sống động hơn. Mẹ gật mạnh
đầu với tôi. “Nữ à, chào cô con đi.”
“Ô kìa, cứ gọi em là Ai-ming là được rồi. Làm ơn ạ. Ừm,
thật ra, em thích như vậy hơn.”
Để cả hai đều vừa lòng, tôi nói, “Xin
chào.”
Đúng như tôi nghi ngờ, chiếc va-li rất nhẹ. Tay kia tôi đưa
ra để cầm áo khoác cho Ai-ming, nhưng nhớ ra quá muộn là cô không mặc áo khoác.
Tay tôi ve vẩy trong không khí như một dấu hỏi. Cô đưa tay ra nắm lấy tay tôi
rồi bắt tay tôi thật chặt.
Đôi mắt cô dò hỏi. Tóc cô được ghim lại một bên và buông
xõa phía bên kia, khiến cô tựa như luôn mãi ở góc nghiêng và đang chực quay
sang tôi. Cô bỏ giày ra khỏi chân không một tiếng động trong khi vẫn nắm tay
tôi, xong chiếc này đến chiếc kia. Những vệt mưa mờ đọng trên khăn của cô. Cuộc
sống của chúng tôi đã thu nhỏ lại đến mức mà tôi không thể nhớ nổi lần cuối
cùng một người lạ bước vào nhà chúng tôi là bao giờ nữa; sự hiện diện của
Ai-ming khiến mọi thứ trở nên lạ lẫm, như thể những bức tường tụ lại gần hơn để
ngó cô ấy. Đêm hôm trước, cuối cùng thì chúng tôi cũng đã xếp gọn giấy tờ, sổ
sách của cha, đặt chúng vào các thùng rồi chất dưới bàn bếp. Giờ đây tôi thấy
mặt bàn trống không đầy giả dối. Tôi lấy tay mình ra, bảo rằng tôi sẽ đặt va-li
trong phòng cô ấy.
Mẹ chỉ cô đi xem quanh nhà. Tôi quay lại ghế xô-pha, giả vờ
đang xem kênh Thời tiết, dự báo là mưa đến hết tuần, mưa đến hết năm 1990, mưa
đến hết thế kỷ, thậm chí là đến hết phần còn lại của vô tận thời gian. Hai
giọng nói vang lên tiếp nối nhau như những toa xe cáp treo, thi thoảng ngắt
quãng bởi im lặng. Sự căng thẳng trong căn hộ trườn vào bên trong tôi và tôi có
cảm giác rằng sàn nhà làm bằng giấy, rằng mọi chốn đều có chữ viết lên mà tôi
không thể đọc được, và chỉ cần một cử chỉ không suy nghĩ cũng có thể nghiền nát
toàn bộ nơi này.
Chúng tôi ngồi quanh bàn ăn tối cùng nhau. Mẹ đã bỏ đi một
bên lá bàn, biến đổi chiếc bàn từ hình trứng sang hình tròn. Bà tự ngắt lời nói
dông dài của mình để ném cho tôi một cái nhìn nói rằng, Thôi nhìn chằm chằm đi.
Thỉnh thoảng chân tôi lại tình cờ đá vào một trong những
chiếc thùng dưới gầm bàn, khiến Ai-ming giật mình.
“Ai-ming, em có thấy trời lạnh không?” Mẹ nói một cách vui
vẻ, lờ tôi đi. “Chính chị cũng chưa từng trải nghiệm mùa đông cho tới khi chị
tới Canada.”
“Ở Bắc Kinh cũng có mùa đông nhưng em không thấy phiền.
Thực ra nơi em lớn lên cách xa Bắc Kinh, nơi đó ở miền Nam nên nóng ẩm, vì vậy
khi chuyển lên Bắc Kinh em mới biết cái lạnh là thế nào.”
“Chị chưa bao giờ đến thủ đô, nhưng chị nghe nói bụi bay
đến từ các sa mạc phía tây.”
“Đúng ạ.” Ai-ming gật đầu, tươi cười. “Bụi dính vào quần áo
với tóc, rồi cả vào đồ ăn thức uống nữa.”
Ngồi đối diện cô trên bàn, tôi có thể thấy cô đúng thực
mười chín tuổi. Đôi mắt cô sưng tấy mệt mỏi, và không ngờ điều đó lại nhắc tôi
nhớ tới khuôn mặt đau buồn của mẹ. Tôi nghĩ rằng, đôi khi bạn có thể nhìn một
người và biết rằng họ chứa đầy từ ngữ. Có thể lời lẽ bị giữ lại vì nỗi đau hay
sự riêng tư, hoặc là một sự lừa gạt. Có thể là những lời lẽ sắc như dao đang
chờ rút máu. Tôi cảm giác như mình vừa là trẻ con vừa là người lớn. Tôi muốn mẹ
con tôi được ở một mình, nhưng vì lý do nào đó không thể giải thích được, tôi
cũng muốn được gần cô.
“Chữ ‘ming’ trong từ Ai-ming nghĩa là gì?” tôi hỏi bằng
tiếng Anh, vừa đá một thùng để nhấn mạnh. “Chữ ‘ming’ có nghĩa là hiểu, hay
nghĩa là số phận?” Cả hai người họ nhìn tôi.
“Ăn phần gà của con đi,” mẹ nói.
Người con gái quan sát tôi, vẻ mặt hài lòng. Cô vẽ một hình
trong không trung giữa chúng tôi, 明 – “nhật” và “nguyệt” kết hợp lại nghĩa là hiểu biết hoặc sáng
suốt. Đó là một từ thông dụng.
“Cha mẹ cô đặt tên theo nghĩa của từ aì-míng,” cô nói. “Nghĩa là ‘tôn vinh sự thông thái’. Nhưng cháu
nói đúng, tiếng đó cũng chứa đựng hồ nghi. Nghĩa là… ừm, không phải là tôn vinh
số phận đâu, mà là chấp nhận số phận.” Cô lại nhấc bát lên rồi thọc đầu đũa vào
phần cơm mềm.
Mẹ hỏi xem cô có cần gì hoặc cô có muốn
làm gì không.
Ai-ming đặt bát xuống. “Nói thật với chị, em có cảm tưởng
như đã lâu lắm rồi không có lấy một giấc ngủ ngon. Em không thể nào nghỉ ngơi ở
Toronto. Cứ mỗi vài tuần em lại di chuyển.” “Chuyển nhà à?” Mẹ hỏi.
Ai-ming run rẩy. “Em đã nghĩ là… em sợ cảnh sát. Em sợ họ
sẽ gửi em về nước. Em không biết liệu mẹ em đã kể với chị hết mọi chuyện chưa.
Em hi vọng vậy. Ở Bắc Kinh, em không làm gì sai cả, không phạm tội gì cả, nhưng
kể cả thế… Dì và chú em giúp em rời khỏi Trung Quốc, em đi xuyên qua biên giới
sang Kyrgyzstan và sau đó… chị mua vé cho em tới đây.
Bất chấp tất cả mọi điều, chị đã giúp em…
Em rất biết ơn, em e là mình sẽ không bao giờ cảm ơn chị cho đủ. Em xin lỗi về
mọi thứ…”
Trông mẹ ngượng ngùng. “Đây,” bà nói. “Ăn
gì đi.”
Nhưng một thay đổi xuất hiện nơi Ai-ming. Hai tay cô run
rẩy dữ dội đến nỗi không thể cầm đũa. “Mỗi ngày em nghĩ đi nghĩ lại về mọi
chuyện nhưng em không thể hiểu nổi làm thế nào mình lại đến đây. Giống như em
là một kẻ trốn chạy vậy. Ở nhà, mẹ em đang vật lộn. Em sợ giấc ngủ… đôi khi em
mơ rằng tất cả những chuyện này không thật sự diễn ra, nhưng rồi việc thức dậy
trở thành cơn ác mộng. Nếu mà em ở bên mẹ, giá mà cha em còn sống, giá mà ông
đã không… nhưng điều quan trọng nhất là em phải khiến mình trở thành một điều
gì đó, bởi vì ngay lúc này đây, em không có gì hết. Em còn không có cả hộ chiếu
nữa. Em sợ dùng cuốn hộ chiếu em có lúc trước, bởi vì cuốn hộ chiếu đó là… bất
hợp pháp. Cuốn hộ chiếu đó không phải của em, nhưng em không có lựa chọn nào
khác. Em nghe nói là nếu có thể xuyên biên giới sang Mỹ thì ở đó có lệnh ân xá
cho sinh viên Trung Quốc và em có thể đủ tiêu chuẩn. Kể cả nếu không có gì
chăng nữa thì em cũng sẽ trả lại chị mọi thứ, em thề đấy. Em hứa mà.”
“Zhí nǔ,” mẹ nghiêng người về phía cô và nói. Từ
ấy khiến tôi lúng túng. Từ ấy có nghĩa “con gái của anh tôi”, nhưng mẹ không có
anh em trai nào cả.
“Em muốn chăm sóc họ nhưng mọi thứ thay đổi nhanh quá. Mọi
thứ đi sai hết cả.”
“Em không cần biện giải cho mình ở đây,” mẹ nói. “Chúng ta
là gia đình, và đó không chỉ là lời nói đâu, em hiểu không? Nó có nghĩa hơn lời
nói nhiều.”
“Và nữa,” Ai-ming nói, trở nên xanh xao, “em thật lòng chia
buồn với sự mất mát của chị.”
Mẹ tôi và Ai-ming nhìn nhau. “Cảm ơn em,” mẹ nói. Những
giọt nước mắt bất thần nơi mắt bà khiến mọi thứ trong tôi bất động. Bất chấp
tất cả những gì chúng tôi đã trải qua, mẹ hiếm khi khóc. “Chị cũng chia buồn
với sự mất mát của em. Chồng chị rất yêu thương cha em.”
Vào ngày thứ Bảy đầu tiên mẹ không phải đi làm, bà xuống
phố rồi về nhà với tất, áo len, một đôi giày đi mùa đông cùng một áo khoác. Hồi
đầu, Ai-ming ngủ rất nhiều. Cô thường xuất hiện từ phòng ngủ của mẹ với mái tóc
rối, khi đang mặc đôi quần tất của tôi cùng chiếc áo phông cũ của mẹ. Ai-ming
sợ đi ra ngoài, vì thế đã mấy tuần trôi qua trước khi cô đi đôi giày mới. Tuy
nhiên cô mặc chiếc áo khoác hàng ngày. Vào các buổi chiều, cô đọc sách nhiều
lắm, cô ngồi bên bàn ăn với một đống sách của cha tôi. Cô để hai tay trong túi
áo khoác khi đọc và dùng một con dao phay để giữ sách thẳng ra. Đôi khi tóc cô
trượt về phía trước che mất ánh sáng, khi ấy cô sẽ cuộn tóc lên rồi nhét búi
tóc vào trong cổ áo len.
Một đêm, sau khi ở với chúng tôi chừng một tuần, cô bảo mẹ
cắt tóc cho. Tôi nhớ là lúc ấy vừa sau Giáng sinh. Vì không phải đến trường nên
tôi dành phần lớn thời gian ăn sô-cô-la Turtles trước truyền hình. Mẹ yêu cầu
tôi qua giúp xịt nước từ bình nhựa vào tóc của Ai-ming nhưng tôi từ chối, nói
là không nên cắt tóc vị khách của chúng tôi.
Hai người phụ nữ cười lớn. Ai-ming nói rằng cô muốn có vẻ
ngoài hiện đại. Họ đi vào bếp rồi đặt các tấm giấy báo xuống, Ai-ming cởi áo
khoác ra, trèo lên ngồi trên chiếc ghế đẩu kê chân để mái tóc dài của cô buông
xõa tự do tiện đường cho mấy cây kéo của mẹ. Tôi đang xem một tập phim “The
A-Team” nhưng tiếng kéo lách cách và tiếng họ cười khúc khích khiến tôi không
thể tập trung được. Đến đoạn quảng cáo đầu tiên, tôi vào bếp xem họ làm đến đâu
rồi.
Hai tay Ai-ming chắp lại như thể đang cầu nguyện, cô đảo
mắt về phía tôi. Mẹ đã cắt một phần ba mái tóc của cô, phần đuôi tóc ướt nằm dài
trên sàn như những sinh vật biển bị tàn sát. “Ôi,” tôi nói, “sao mẹ cắt thế
này?”
Mẹ giơ vũ khí của mình lên. “Con là người tiếp theo đấy, Nữ.”
“Ma-li à, gần năm mới rồi. Đây là lúc cắt tóc.” Ai-ming khó
phát âm cái tên Marie, vì vậy cô đã chọn một biến thể tiếng Trung, từ này trong
từ điển có nghĩa là “khoáng chất hấp dẫn”.
Ngay lúc đó, mẹ cắt một đám tóc khá lớn nữa. Đám tóc lượn
bay xuống sàn, như thể vẫn còn đang thở.
“Đây là năm mới ở Canada. Người Canada không cắt tóc vào
năm mới. Họ uống rượu sâm-banh.”
Mỗi lần mẹ kéo cò chai nước nhựa, một làn hơi nước bao phủ
Ai-ming, cô nhắm chặt mắt chống lại cái lạnh. Tôi quan sát Ai-ming biến đổi
ngay trước mắt tôi. Ngay đến làn da tái của cô cũng bắt đầu có vẻ bớt tệ. Khi
đã cắt tóc đến ngang vai, mẹ bắt đầu tạo dáng cho những lọn tóc nằm ngang qua
trán Ai-ming theo phong cách sang chảnh rõ ràng. Cô rất, rất xinh đẹp. Đôi mắt
sẫm màu trong veo, khuôn miệng như nụ hồng trên làn da của cô – giống như các
nhà thơ vẫn tả. Gò má Ai-ming ửng hồng, sắc độ này chưa từng thấy chỉ một giờ
trước, màu hồng càng ngày càng đậm mỗi lần mẹ nhìn cô chăm chú một lúc lâu nhằm
đánh giá tác phẩm thủ công của mình. Họ quên hết về tôi.
Tôi quay lại căn phòng kia, danh sách những người làm phim
“The A-Team” đang chạy. Tôi ngồi sụp xuống đi-văng, kéo gối lên đến ngực. Gần
như ở cửa sổ nào đèn trang trí cũng đang tỏa sáng, chỉ mỗi cửa sổ nhà chúng tôi
là không, và tôi có cảm giác rằng căn hộ của chúng tôi nằm dưới sự giám sát của
một đám người ngoài hành tinh trong vật thể bay của họ, họ không chắc là liệu
nên đỗ xuống Vancouver hay là bay đi nơi khác. Những người ngoài hành tinh đó
đang hỏi lẫn nhau: Họ có sô-đa không nhỉ? Họ ăn đồ gì vậy? Có lẽ chúng ta nên
chờ rồi quay lại vào mùa xuân nhỉ? Đỗ xuống đi, tôi bảo họ. Người ta không có cấu tạo để trôi nổi được
trong không gian. Trừ khi chúng ta biết trọng lượng cơ thể mình và cảm nhận
được trọng lực, nếu không chúng ta sẽ quên mất mình là gì, và sẽ để mất mình mà
thậm chí còn không để ý.
Ai-ming đang đọc một trong những cuốn thơ song ngữ của cha
tôi. Giờ tôi cầm cuốn sách lên, cuốn sách thân thuộc với tôi vì tôi đã dùng
sách cho các bài học thư pháp. Tôi giở sách cho tới khi thấy một bài thơ mà tôi
biết, bài thơ có các từ mà cha tôi gạch chân,
Ngắm từng chút một màn đêm quay đầu.
Tiếng dội trong nhà; muốn đi lên mà không dám.
Ánh sáng rực rỡ sau tấm mành; mong đi qua mà không thể.
Đau đớn lắm khi thấy chú chim nhạn trên trâm cài tóc của em.
Tôi thật xấu hổ khi thấy phượng hoàng trong gương của em.
Tôi trở về Hoành Đường lúc bình minh
Mờ dần đi như ánh sáng trên yên ngựa nạm ngọc.
Tôi đọc bài thơ hai lần rồi đóng sách lại. Tôi hi vọng rằng
ở kiếp sau nơi cha tôi chuyển sinh, ông cũng đang đón Giáng sinh và năm mới,
nhưng tôi sợ rằng ông đang cô đơn, và giống như Ai-ming, ông chưa tìm được một
gia đình để bảo bọc ông. Bất chấp sự giận dữ của tôi đối với ông và nỗi đau
không rời xa mình, tôi không thể hất bỏ lòng khao khát cho ông được hạnh phúc.
Đương nhiên không thể tránh khỏi việc Ai-ming khám phá ra
những chiếc thùng dưới bàn. Vào tháng Một, tôi về nhà sau buổi học và thấy giấy
tờ của cha bị mở ra hết, Ai-ming không di chuyển đám thùng mà đẩy bàn ăn về
phía sau. Một thùng hoàn toàn trống rỗng. Các cuốn nhật ký của cha trải khắp
bàn, khiến tôi nghĩ đến một phiên chợ trời nghèo nàn ở Vancouver. Tệ hơn nữa là
Ai-ming có thể đọc được tất cả những ký tự mà tôi, đứa con gái duy nhất của
ông, không thể đọc nổi một dòng.
Cô đang làm xà-lách cải bắp, cô đã mài quá nhiều cải ngựa
đến nỗi tôi tự hỏi liệu từ xà-lách cải bắp có thực là cái tên phù hợp.
Tôi bảo rằng tôi không biết liệu bụng mình có thể tiêu hóa
từng đó cải ngựa hay không.
Cô gật đầu bâng quơ và quăng đám cải bắp vào, đảo mạnh tay.
Các nguyên liệu bay lên không trung rồi rơi xuống một chiếc bát. Ai-ming đang
đeo chiếc tạp dề đề chữ “Canada: Thế Giới Hàng Xóm” của mẹ, chiếc áo khoác đông
của cô nằm bên dưới.
Cô đi về bàn. “Có lần, hồi cô còn rất nhỏ, cô đã gặp cha
cháu.”
Tôi đứng nguyên tại chỗ. Ai-ming và tôi chưa từng nói về
cha. Việc cô biết cha tôi và chưa từng nhắc chuyện đó với tôi khiến tôi tràn
ngập một nỗi thất vọng quá mãnh liệt đến khó thở.
“Chiều nay,” cô nói, “cô bắt đầu xem những thứ trong thùng.
Đó là những món đồ của cha cháu đúng không?
Dĩ nhiên là cô biết mình nên xin phép
trước, nhưng có bao nhiêu là sổ sách.”
Tôi đáp mà không nhìn cô. “Cha cháu chuyển đến Canada vào
năm 1979. Đó là mười hai năm ghi chép. Cả cuộc đời ông. Ông hầu như không để
lại gì cho mẹ con cháu cả.”
“Cô gọi những thứ này là phòng zá jì,” cô nói. “Nơi chứa những thứ không phù hợp. Những mẩu nhỏ
thứ này thứ kia…”
Để nguôi cơn run rẩy bắt đầu từ ngực và giờ đang tỏa xuống
tứ chi, tôi lặp đi lặp lại trong đầu từ mà Ai-ming đã dùng, từ đó tôi chưa từng
nghe trước đây: zá jì.
“Cháu hiểu đúng không?” Cô nói. “Những thứ chúng ta chưa
bao giờ nói ra sẽ kết thúc ở đây, nằm trong nhật ký và sổ sách, nằm tại những
nơi riêng tư. Đến lúc chúng ta khám phá ra chúng thì đã quá trễ rồi.” Ai-ming
đang giữ chặt một cuốn sổ. Tôi nhận ra nó tức thì: cuốn sổ dài nhưng mỏng có
hình dạng như một cánh cửa nhỏ với dây buộc hờ bằng sợi cô-tông.
Đó là cuốn Những Bản Ghi.
“Thế cháu đã thấy cuốn sổ này chưa?” Khi thấy tôi vẫn không
trả lời, cô mỉm cười buồn bã với tôi. “Đây là chữ viết tay của cha cô. Cháu
thấy không? Chữ của ông ấy trông quá nghệ thuật và được viết ra quá dễ dàng.
Ông luôn viết rất cẩn thận, kể cả nếu đó là một chữ dễ viết. Bản tính của ông
là để ý đến từng chi tiết.”
Cô mở cuốn sổ. Những từ ngữ dường như nổi trên mặt giấy và
chuyển động theo ý chúng. Tôi lui lại. Cô không cần chỉ cho tôi xem, tôi biết
cuốn sổ trông thế nào.
“Cô có zá ji của
chính mình,” cô nói tiếp. “Nhưng giờ nó ở khắp nơi và cô không biết làm sao để
chứa nó. Cháu có biết vì sao chúng ta giữ ghi chép không Ma-li? Hẳn phải có lý
do, nhưng giữ những thứ không đáng kể này thì ích gì chứ? Cha cô từng là một
nhà soạn nhạc tài ba, một nhạc công tuyệt vời, nhưng ông đã từ bỏ tài năng ấy để
có thể bảo vệ cô. Ông là con người ngay thẳng và trung thực, thậm chí cha cháu
cũng muốn giữ một phần của ông ấy. Thậm chí cha cháu cũng yêu thương ông ấy.
Nhưng họ đã để ông chết. Họ đã giết ông như thể ông là một con vật. Làm thế nào
có ai đó có thể giải thích những điều này cho cô chứ? Nếu cha cô vẫn còn sống,
cô đã không ở đây. Cô đã không phải ở một mình. Còn cha cháu, cha cháu sẽ không
cần… Ôi Ma-li, cô xin lỗi. Cô rất xin lỗi.”
Ai-ming làm một điều mà tôi chưa từng thấy cô làm kể từ khi
đến đây hơn một tháng trước. Cô không chỉ khóc, cô mất tự chủ đến nỗi không
quay đi hay che mặt lại. Âm thanh đó khiến tôi rối loạn quá đỗi, tiếng khóc ai
oán nho nhỏ ấy phá vỡ mọi thứ. Tôi nghĩ cô đang nói, “Hãy giúp tôi, hãy giúp
tôi.” Tôi sợ rằng nếu tôi động vào cô, nỗi đau đớn nơi cô sẽ phình lên trong
tôi và vĩnh viễn trở thành nỗi đau của chính tôi. Tôi không thể chịu đựng được.
Tôi quay người khỏi cô. Tôi vào phòng mình và đóng cửa lại.
Căn phòng cảm giác rất nhỏ. Tôi thì thầm với chính mình, gia đình là chiếc hộp quý giá không thể
mở ra đóng lại tùy ý chỉ bởi vì mẹ nói vậy. Bức ảnh cha trên tủ áo khiến tôi
đau đớn quá đỗi. Không, không phải do bức ảnh của cha, mà là cảm giác nó gây
ra, thứ cảm xúc tức tối này đã biến tất cả mọi thứ, kể cả tình yêu tôi dành cho
mẹ và Ai-ming, trở nên cay đắng. Tôi muốn ném bức ảnh xuống sàn nhưng lại sợ
rằng hình ảnh là thực, bức ảnh thực sự chứa đựng cha tôi, và nếu tôi làm hỏng
nó thì ông sẽ không bao giờ có thể về nhà. Mưa bên ngoài nện vào dòng suy nghĩ
của tôi. Dưới lớp kính cửa sổ, nước mưa thay đổi và trượt xuống, và tất cả
những lạch nước nhỏ ấy trở thành những dòng lớn nhỏ, tụ lại và run rẩy, chúng
bắt đầu khiến tôi khó nghĩ và thôi miên tôi. Phải chăng tôi cũng nhỏ nhoi như
vậy? Liệu tôi có bao giờ thay đổi được gì không? Bỗng nhiên tôi nhớ mùi của
cha, mùi đó ngọt ngào như lá non hoặc như cỏ mới cắt, đó là mùi hương xà phòng
cha dùng. Giọng ông vang lên với cú pháp nghiêm trang kỳ cục, “Con gái muốn nói
gì với cha nào? Vì sao con khóc?” Giọng ông không giống bất cứ giọng người sống
nào.
Dù không mong muốn, tôi nhớ lại mình nghe lỏm mẹ nói rằng
khi cha được tìm thấy, ông ấy hầu như không có đồ đạc gì cả. Mẹ lúc ấy đang nói
chuyện trên điện thoại trong một cú gọi đường dài với một người bạn ở Hồng
Kông. Bà nói rằng chiếc va-li đầy ắp khi ông rời đi giờ trống rỗng. Cha đã từ
bỏ mọi thứ, bao gồm cả chiếc nhẫn cưới, máy chơi đĩa CD cầm tay hiệu Sony và
nhạc của mình. Thậm chí ông còn không mang một tấm ảnh nào của chúng tôi. Mẩu
giấy nhắn duy nhất ông để lại không phải là lời từ biệt. Mẩu giấy chỉ nói rằng
ông có những khoản nợ không thể trả được, những thất bại ông không thể sống
cùng, và rằng ông mong được chôn ở Hồng Kông nơi biên giới Trung Quốc. Ông nói
rằng ông yêu chúng tôi.
Mỗi năm một lần, cha thường đưa chúng tôi đi nghe nhạc giao
hưởng. Chẳng bao giờ chúng tôi có ghế tốt cả nhưng cha nói điều đó không thành
vấn đề, quan trọng là được ở đó, là có mặt trong phòng khi bản nhạc, cho dù già
cỗi đến mấy, được hồi sinh. Cha thường bảo rằng cuộc sống tràn đầy những trở
ngại, và không ai có thể chắc chắn rằng ngày mai hay năm tới, mọi thứ sẽ vẫn y
nguyên như vậy. Ông kể rằng khi ông còn là một cậu bé, người cha nuôi của cha,
vị Giáo sư, đã đi cùng ông tới một buổi hòa nhạc ở Thượng Hải, và trải nghiệm
đó đã mãi mãi thay đổi ông. Bên trong ông, những bức tường mà ông chưa từng
biết đến sự tồn tại của chúng đột nhiên để lộ chính mình. “Cha biết là mình
được số mệnh sắp đặt cho một cuộc đời kiểu khác,” ông nói. Một khi nhận thức
được những bức tường này, tất cả những gì ông nghĩ được là làm sao để kéo ngã
chúng.
“Những bức tường nào ạ?” Tôi hỏi.
“Mìng,” ông nói.
“Nghĩa là số phận.” Chỉ sau này khi tôi tra từ này một lần nữa, tôi mới biết
rằng mìng có nghĩa là số phận, nhưng
cũng có nghĩa là cuộc sống.
Tiếng gõ cửa đưa tôi về hiện tại với mưa, với căn phòng và
với bản thân tôi.
[1] Thủ phủ tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc – ND.
[2] Nghĩa là ngày 4 tháng Năm – ND.
-Còn tiếp-
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC
Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.
Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.
Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.
Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.
Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.
Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.
Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.
Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.
Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.
Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.
Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.
Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
GIỚI THIỆU
Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.
Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.
Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.
Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.
Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.
Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.
Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.
Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?
Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.
Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!
CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU 500g bột nếp 100g khoai lang tím 150g bí đỏ 300g khoai lang trắng Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm 400g đậu xanh bóc vỏ 150g đường cát 10g muối 100ml nước cốt dừa Phần nước cốt dừa: 300ml nước cốt dừa 700ml nước dão dừa 20g bột gạo 20g bột bắp 5g hành lá 800g đường cát (nấu chè) 150g đường cát (nấu nước cốt dừa) 100g mè trắng 3g muối 100g gừng sẻ
THỰC HIỆN
Sơ chế: • Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm. • Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng. • Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện. • Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút. • Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.
Gói viên chè: • Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn. • Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.
Nấu chè: • Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi. • Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.
Nấu nước cốt dừa: • Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay. • Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.
YÊU CẦU THÀNH PHẨM • Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa. • Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.
Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.
Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.
Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.
Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!
Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.
Pingback: Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo: Một cuộc phỏng vấn với Madeleine Thien – Bookish
Pingback: Top 10 Tác phẩm Văn học dịch Quý I/2019 – Bookish