Book trailer

The Booker Prize 2020: The Shadow King – Chiến tranh và chiến tranh

Every sun create a shadow and not all are blest to stand in the light.

Published

on

Chưa khi nào tính nữ được đề cao như thế. Nếu năm ngoái chứng kiến những trào lưu nữ quyền, những hashtag #Metoo, những Margaret Atwood, những Bernardine Evaristo; thì năm nay với danh sách rút gọn giải Booker, ta chứng kiến 4/6 nhà văn nữ, 4/6 tiểu thuyết đề cao tính nữ và đặc biệt hơn hết, tính nữ ở đây lần đầu được khai thác triệt để và mới lạ. Cũng như Ngozi Adichie với Nửa mặt trời vàngThe Shadow King cũng đồng thời là một tiểu thuyết đậm tính nữ. Đặt trong bối cảnh chiến tranh Ethiopia chống quân xâm lược Ý những năm 1935 – 1936 thời đoạn Đệ nhị thế chiến, Maaza Mengiste đã cho thấy một lịch sử Ethiopia chịu nhiều mất mát mà cũng đồng thời qua đó, hình tượng những nữ chiến binh lần đầu hiện lên sáng rõ và đầy vận động trong văn chương tái hiện lịch sử.

*

Cuốn sách là câu chuyện kể về Hirut, Aster và đội quân chống Ý của mình. Sinh ra trong một gia đình với nề nếp quân sự, Kidane từ nhỏ chịu sự huấn luyện nghiêm khắc từ cha. Sau khi quân Ý tràn vào, vua Haile Selassie lại tị nạn ở Anh, anh đứng lên lãnh đạo đội quân của mình, cùng với Aster và Hirut. Aster là con gái một gia đình giàu có, cô bị ép kết hôn sớm không có tình yêu với Kidane và vừa chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng; trong khi Hirut là người giúp việc – nơi mẹ cô có mối gắn bó chặt chẽ với Kidane. Khi quân Ý tràn vào, Kidane dẫn đầu đội quân gồm dân làng trốn vào hang chờ thời cơ giao chiến với quân của Fucelli. Giữa tương quan một bên được trang bị tiên tiến và một bên chỉ với vũ khí thô sơ, họ trong thế giằng co. Quân Ý đến mang theo những tội ác tày trời; hơn thế, là người thích phô trương, Fucelli cho gọi Ettore như thợ chụp ảnh ghi lại những tấm hình tra tấn, giết chết tù binh nhằm một mặt răn đe dân làng theo quân kháng chiến, một mặt cho Thế giới kia thấy được sức mạnh của đế quốc này.

Quân đội của Kidane lui về cố thủ và đợi chờ thời cơ tấn công. Trong lúc này, Aster cũng thành lập đội quân của riêng mình. Tuy luôn bị Kidane gièm pha cho là vô dụng và chỉ được giao cho việc bếp núc cũng như chăm sóc thương binh, nhưng khi số người không đủ, cuối cùng những người phụ nữ cũng trở thành chiến binh kiên cường, tập luyện mỗi tối chuẩn bị cho trận chiến lớn. Trong một cuộc giao tranh, Aster và Hirut bị bắt làm tù binh, chịu sự giễu cợt của quân Ý. Từ sự đồng cảm nơi nhân tình của Fucelli – một người đàn bà Ethiopia chính gốc – hai người trốn thoát và kết cục cuối cùng là cuộc giải phóng của quân đội Kidane. Với The Shadow King, Maaza Mengiste lấy cuộc chiến này làm trung tâm, từ đó tỏa ra vòng ngoài gồm những nhân vật như người ngồi trong một hội nghị bàn tròn, mà điểm đặc biệt duy nhất, là họ ngồi tách rời nhau ra, không hẳn trong trạng thái cách ly của thời kì dịch bệnh, mà mỗi người họ là một mặt trời, mà khi đã là mặt trời sẽ tồn tại bóng. Giữa họ và những cái bóng ấy.

*

Như đã nói trên, điểm thành công nhất của The Shadow King là những khắc họa lịch sử mà nếu không nhờ Maaza, chắc hẳn sẽ không ai biết tới một Ethiopia đã từng đứng lên chống quân đội Ý như thế. Nhưng hơn thế nữa, cái hay đồng thời là việc khắc họa những nhân vật bên lề, rõ ràng, chi tiết mà đầy ấn tượng. Có đôi lúc những tưởng Maaza chỉ như đang mượn trận chiến làm nên nhân vật, bởi lẽ, các nhân vật của cô hùng vĩ và đầy ngời sáng. Cũng như tựa đề cuốn sách, Maaza gợi mở trong từng nhân vật, từng bản thể cá nhân, giữa người thật và cái bóng, giữa những nhập nhoạng chếnh choáng đứng chờ người đọc đến để mà nhận ra.

Ảnh: The New York Times

Với Aster, ban đầu đó là người đàn bà bình thường như bao người đàn bà khác. Một người đàn bà biết ghen khi chồng mình dành nhiều tình cảm cho Hirut, một người đàn bà sầu bi vào ngày giỗ đầu của con, một người đàn bà hoảng loạn nhận ra chồng mình không chút thương xót cho đứa con chết yểu. Với bộ đồ màu đen và trạng thái bi kịch sầu thảm của ngày giỗ đầu, đương lúc quân Ý tràn về từ biển, Aster – người đàn bà điên loạn, mất con, có chồng bội phản ấy – cưỡi ngựa đến các nhà thờ hét vọng đến tận thiên thanh, đòi lũ Thiên thần hạ thế. Nhưng cũng Aster, người đàn bà ấy, người gây dựng đội quân phụ nữ, người luôn mặc bộ quần áo của cha chồng mình, đứng trước toàn quân, chỉ huy trận đấu. Song song trong đó là hai nhân vật, hai con người, chuyển dời hòa nhập vào nhau.

Với Hirut, dường như là nhân vật chính của toàn câu chuyện, người chịu đầy đủ mọi thứ bi kịch. Cha mẹ mất sớm, bị Kidane cưỡng ép, mất đi gia bảo là cây súng mà cha để lại vì bị ép sung nạp cho thời chiến tranh. Chính những bi kịch trong đời sống này đã đẩy cô đến mức độ tăng tiến của cái vỡ òa, của lòng căm thù, của cái căm phẫn vẫn đang sục sôi. Cô tập luyện hàng ngày hàng giờ, những lời chỉ dẫn bắn súng của cha văng vẳng bên tai; và dù cho khi bị bắt làm tù binh ở trại quân Ý, cô vẫn kiên quyết giữ cái lạnh lùng của một chiến binh, cái vẻ ngoài không ai có thể bộc phá. Aster và Hirut, cả hai người họ như những đàn bà bộ tộc Amazon, những người trong trận đánh chiến với Achilles ở thành Troy đã làm cho chàng chìm đắm say mê. Mạnh mẽ, hoang dại mà đầy sức sống.

Nếu hai người phụ nữ được Maaza khắc họa như những điểm nhấn của tiểu thuyết này, thì Kidane và Fucelli lại như những gã tầm thường vô cùng muốn quên. Nếu Kidane sợ sệt trước những trận đấu của đội quân mình, là người u mê đứng trước Hirut; thì Fucelli luôn chứa trong mình cái bất an của những tướng lĩnh, của kẻ bị ám ảnh bởi cái chết. Y luôn nhắc nhớ mình là Achilles không thể bị đánh bại bởi các nữ chiến binh Amazon. Y luôn đeo hai đai vũ khí và một con dao cắm ngay ở chân trong khi xung quanh là bảy cận vệ. Cũng như Kidane, y say mê Fifi – người phụ nữ bản địa – nhưng may thay, đó là một người đàn bà tỉnh trí, sáng rực và ở đúng nơi khi cần thiết. Với Fucelli, ta luôn thấy ở y cái thâm độc của người ra lệnh, mà hiển hình nhất là chi tiết nắm chui Ettore – người phó nháy chụp hình – người ghi lại những khoảnh khắc đáng quên.

Ngoài hai nữ chiến binh của bộ tộc Amazon – Hirut và Aster, Ettore góp mặt trong cuốn sách này như nút giao của những bản thể nhìn nhận chiến tranh. Giữa thế bị giằng co bởi lợi lộc của quân xâm lược Ý, nhưng cũng đồng thời ờ thế bị trị khi Phát xít Đức bài trừ Do thái, trong Ettore luôn là những dằn vặt tự thân của cuộc chiến này. Giữa những tự vấn tội ác của riêng bản thân, rằng, Bởi vì, thưa cha, rằng, đây là chiến tranh. Phải thế không? khi tiếp tay cho Fucelli chụp những xác chết bị tra tấn; nay một nhận thức nào đó trỗi dậy trong anh, về những bức thư qua lại của người cha vốn kiệm lời, về những tình cảm sau cuối rốt cuộc anh cũng nhận ra, về chiến tranh, tình người về hàng vạn những điều khác. Đến cuối khi dân làng nổi dậy giết chết Fucelli, anh mới nhận ra, đây là đất nước của những bóng ma và mỗi một tấm ảnh được chụp là một tổ hợp của những hình dáng bóng ma, một sự gặt hái cái chết.

Và điểm cuối cùng, ngoài bối cảnh lịch sử cuốn hút và việc mô tả nhân vật sắc nét, The Shadow King cũng chứa trong mình kết cấu của bản hùng ca về cuộc chiến tranh, mà những đoạn chuyển được Maaza ngắt quãng bằng dòng suy nghĩ của vua Haile Selassie người Abyssinians thời bấy giờ. Ở nước Anh xa xôi, ông nghĩ về động cơ trốn chạy của mình, về nỗi luyến nhớ quê nhà, về máu thịt núi non Ethiopia. Ở đó, câu chuyện về công chúa thứ hai của xứ Abyssinian, Zenebework, bị gả ép cưới cho Gugsa vì các khế ước chính trị, bị đối xử không tình yêu, nhớ nhà nhưng vua cha không cho phép, cuối cùng chết khi sinh con đầu lòng dường như hiện diện thông qua Aster. Đến cuối tiểu thuyết, khi những ảo ảnh mộng du đưa vua Haile Selassie về lại sân ga, Hirut – nữ chiến binh của Ethiopia, con gái của Getey và Fasil, người sinh ra trong một vụ mùa bội thu – vẫn là người cuối cùng dẫn ông về lại ngai vàng của người đứng đầu, thực hiện vai trò của nữ chiến binh bộ tộc Amazon xứ Ethiopia.

Với The Shadow King và kết cấu đặc biệt của nó, Maaza Mengiste đã viết nên bản hùng ca về chiến tranh Ethiopia, về phụ nữ – những nữ chiến binh, về những mảng sáng tối trong tâm hồn mỗi một con người trong bối cảnh lấy chiến tranh làm trung tâm. Đầy năng lượng như Alice Hoffman trong Những người nuôi giữ bồ câu nhưng cũng tinh tế từ những mạch ngầm như Nửa mặt trời vàng của Ngozi Adichie, The Shadow King là cái bóng của mỗi con người, là vết nhơ rất khó gột rửa và là chứng nhân cho một thời kỳ đã qua. Dẫu không chứa đựng bất cứ một tính cá nhân cụ thể nổi trội nào, dẫu chỉ bối cảnh là thứ đặc sắc nhất; nhưng bằng lối viết dung dị, bình thản và tuần tự, The Shadow King tổng hòa, hòa hợp và vừa đủ.

Hết.

minh.

*

The Booker Prize 2020






Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Book trailer

Những thiên thần của người gác rừng: Chuyện bảo vệ môi trường dưới góc nhìn trẻ thơ

Published

on

By

Những thiên thần của người gác rừng – câu chuyện thiếu nhi dễ thương, chứa nhiều thông điệp về yêu thương, bảo vệ môi trường của nhà văn Phương Huyền – vừa tái xuất bạn đọc trong một diện mạo mới với toàn bộ tranh minh họa được in màu, giúp tác phẩm dễ tiếp cận trẻ nhỏ hơn.

Những thiên thần của người gác rừng là chuyến nghỉ hè kỳ thú nơi miền quê của cô bé Mi cùng những bạn thú nhồi bông đáng yêu: Mèo Cà Chua và Bọt Biển. Bắt đầu từ lần dạo chơi ở bìa rừng, cả ba lạc bước đến một thế giới cổ tích kỳ lạ, nơi có những thiên thần bảo vệ rừng, có cả rừng kẹo đủ màu, dòng sông xi rô dâu ngọt lịm và cỏ cây, hoa lá, chim muông đều biết nói và hát rất hay.

Và rồi, chuyến phiêu lưu đưa cả ba đến một nơi khác lạ: khu rừng chết chóc, dòng sông bẩn thỉu đầy rác rưởi, và đàn cá không còn cất tiếng hát... Ôi không, chuyện gì xảy ra thế này? Xứ sở thần tiên tuyệt vời đâu mất rồi? Từ đó, các bạn nhỏ dần hiểu ra con người đã tàn phá thiên nhiên thế nào, và vì đâu rừng không còn xanh tươi như trước.

Đời sống miền quê hiện lên ngộ nghĩnh dưới góc nhìn của thú nhồi bông

Những thiên thần của người gác rừng được tác giả lấy cảm hứng từ chính con gái của mình khi cô quan sát con trong những sinh hoạt thường nhật, hoặc khi nhìn con trò chuyện với thú bông. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở nguồn cảm hứng, con gái của Phương Huyền còn trở thành người bạn đồng sáng tạo với mẹ trong quá trình hoàn thiện tác phẩm. Nhà văn chia sẻ: “Mi đã giúp tôi khiến cho tuổi thơ của con trở nên ‘dữ dội’ hơn khi vừa hóa thân vào nhân vật trong truyện vừa vẽ lên trong trí tưởng tượng của tôi cả một khu rừng bí mật. Chúng tôi đã có những lúc làm việc cùng nhau khi con trong vai trò người biên tập. Tôi đọc, con sửa; tôi kể, con góp ý; tôi bí, con khơi nguồn... Cuốn sách này được hình thành như thế, bằng tất cả tình yêu tôi dành cho con và cho cả những cô bé, cậu bé đã được sinh ra trên cuộc đời này.”

Câu chuyện mở đầu bằng đoạn đối thoại nhân hóa vui nhộn giữa Mèo Cà Chua và Mèo Tam Thể. Ở phần giới thiệu về Mèo Cà Chua, có thể thấy tác giả đã rất dụng công xây dựng hình tượng cho nhân vật đặc biệt này theo lối độc đáo, ngộ nghĩnh, hợp với tư duy và trí tưởng tượng phong phú của các bạn nhỏ. Cái tên Mèo Cà Chua có thể dễ gây hiểu nhầm nhân vật này là mèo. Nhưng thực tế, đây lại là một con hổ nhồi bông nhỏ xinh, được bé Mi gọi là mèo chỉ đơn thuần vì bé thích như thế, và hậu tố Cà Chua xuất hiện là vì hổ có cái mũi đỏ chót như trái cà chua.

Bối cảnh chính của tác phẩm diễn ra ở thôn quê nên những trang viết miêu tả đời sống sinh hoạt nơi đây có lẽ đặc biệt giá trị với những bạn nhỏ ở thành thị. Đó là các miêu tả về: chợ quê, cách người dân quê chào hỏi nhau, lúa vàng trên cánh đồng, những khu rừng, cây cỏ… Bọt Biển – một con rùa nhồi bông xanh, đồng thời cũng là người bạn thân thiết của bé Mi – đã có một nhận xét về chợ quê rất hóm hỉnh như sau: “Chợ gì mà nhỏ xíu xiu. Bán cái gì cũng chút chút. Mà mới hơn 7 giờ sáng đã hết người rồi. Có điều ra chợ vui lắm nha. Giống như cả chợ đều biết nhau vậy đó.”

Thông điệp ý nghĩa về tình bạn chân chính và quyền bình đẳng

Truyện còn gửi gắm nhẹ nhàng, thông điệp ý nghĩa về tình bạn, quyền bình đẳng qua cách Mèo Tam Thể – một con mèo thật – kết bạn với hai thú nhồi bông là Mèo Cà Chua và Bọt Biển:

“Tụi mình làm bạn ha.”
“Bạn là mèo thiệt, tụi tui là thú nhồi bông mà.”
“Có sao đâu. Mình vẫn hiểu nhau. Hiểu nhau thì là bạn rồi.”

Từ đó, các bạn nhỏ có thể nhận thấy tình bạn chân chính là tình bạn không có sự phân biệt giữa cao thấp, sang hèn, những khác biệt về địa vị hay chủng tộc. Điều này không chỉ thể hiện trong tình bạn giữa Mèo Tam Thể và Mèo Cà Chua, Bọt Biển; mà còn được thể hiện trong tình bạn giữa Mèo Cà Chua, Bọt Biển và bé Mi. Dù là động vật thật, thú nhồi bông hay con người, chỉ cần có thể hiểu nhau, biết cách lắng nghe và đối thoại với nhau là đã có thể trở thành bạn. Tình bạn thật cao quý mà cũng thật giản dị là như thế.

Trong truyện còn đề cập đến Bệnh viện Thiên Đường – đây là không gian mà bé Mi tạo nên để chăm sóc thú nhồi bông của mình: “Nghe mẹ chị nói thú bông từ hồi chị mới sinh ra tới giờ còn nguyên. Mỗi năm dân số vườn thú lại tăng. Vậy mà chị chẳng bỏ em nào hết. Em nào cũng cưng, cũng yêu. Rồi xong còn làm hẳn cái bệnh viện tên là Bệnh viện Thiên Đường cho cả đám ở.”

Chi tiết về Bệnh viện Thiên Đường không chỉ phản ánh góc nhìn dễ thương của trẻ thơ mà còn gián tiếp dạy trẻ cách trân quí những món đồ xung quanh dù là cũ hay mới; và những món đồ được đề cập ở đây lại là thú nhồi bông – vốn phần nào mô phỏng hình ảnh của thú thật – nên thông qua việc trân trọng thú nhồi bông, trẻ cũng sẽ học được cách yêu thương động vật.

Phương pháp giáo dục con độc đáo được truyền tải qua tranh minh họa bắt mắt

Những thiên thần của người gác rừng xuất bản lần đầu vào năm 2018. Sau 5 năm đón nhận nhiều tín hiệu tích cực từ bạn đọc, tác phẩm tái xuất trong một diện mạo mới với hình thức bắt mắt hơn khi toàn bộ tranh minh họa đều được in màu trên giấy couche, giúp câu chuyện càng dễ tiếp cận trẻ nhỏ. Bố cục tranh minh họa cho nội dung được trình bày phóng khoáng, phá cách với nhiều trang sử dụng khung tranh ngang tỉ lệ 16:9, hoặc khung vuông có phần thoại được đặt trong những hình oval mang phong cách manga – phiên bản bìa mềm của cuốn sách cũng thể hiện đúng tinh thần này. Đây là một nét độc đáo trong phần minh họa của tác phẩm vì thông thường ở những sách văn học thiếu nhi khác, phần tranh minh họa sẽ ở một trang riêng, tách bạch rõ ràng với nội dung.

Tác phẩm Những thiên thần của người gác rừng còn đưa ra nhiều phương pháp giáo dục lí thú, hữu ích để các bậc phụ huynh có thể áp dụng cho con. Chẳng hạn, khi dạy trẻ phải biết vâng dạ với người lớn thì ba lẫn mẹ bé Mi đều “dạ” khi nghe bé Mi gọi. Đây là cách ba mẹ tập cho Mi thói quen phải lễ phép ngay từ khi bé mới bập bẹ biết nói. Hoặc, trong truyện còn đề cập đến việc hai mẹ con đổi vai cho nhau khi nói chuyện: con trở thành mẹ, mẹ trở thành con. Nhờ đó, hai mẹ con không chỉ có nhiều cuộc trò chuyện hài hước, mà còn thấu hiểu nhau hơn khi diễn vai của người kia.

Những thiên thần của người gác rừng đưa ra nhiều hình ảnh tương phản về khu rừng bí mật kỳ diệu và khu rừng đã bị tàn phá trên thực tế. Khu rừng bí mật càng xinh đẹp, lung linh chừng nào thì khi đối diện với khu rừng đã bị hoang phế do con người cho nổ mìn để khai thác đá trên núi, các bạn nhỏ lại càng đau lòng chừng nấy. Từ đó, thông điệp về việc bảo vệ môi trường càng trở nên thống thiết hơn bao giờ hết. 

Trích đoạn

Hãy giúp tôi chuyển đi những thông điệp yêu thương, giúp tôi truyền đi những năng lượng tích cực để bảo vệ môi trường sống của mình. Viết cho tuổi thơ các con, nhưng lòng tôi đầy băn khoăn, trăn trở về những khu rừng, những ngọn núi, những dòng sông... đang mỗi ngày bị tàn phá. Chỉ có các con, thế hệ tương lai của đất nước mới làm nên điều kỳ diệu. Bởi các con chính là “Những thiên thần của người gác rừng”.

Về tác giả

Phương Huyền là một nhà báo, biên tập viên, hiện đang phụ trách mảng văn học và tâm lý trên kênh FM99.9 Mhz. Đồng thời, chị còn là một nhà văn với hơn 10 đầu sách đã ra mắt bạn đọc, trong đó có hai tác phẩm nổi tiếng dành cho thiếu nhi là Cái tai và cuộc phiêu lưu kỳ thúNhững thiên thần của người gác rừng. Bên cạnh đó, bản thân chị Phương Huyền còn là một người mẹ có kinh nghiệm hình thành tình yêu đọc sách cho con từ rất sớm.

Đọc bài viết

Book trailer

Dòng đời: Lắng đọng với những trải lòng của danh ca Elvis Phương

Published

on

By

Dòng đời – cuốn hồi kí vừa ra mắt bạn đọc của Elvis Phương do Phương Nam Book phát hành – là những trang viết trải lòng của nam danh ca về chính cuộc đời mình.

Hơn 60 năm ca hát, từ lúc bén duyên với âm nhạc rồi lựa chọn sống hết mình cho đam mê, Elvis Phương đã từng nếm trải, bôn ba không ít để được thành danh và đứng vững trên sân khấu cho đến tận ngày nay…

Tất cả dòng chảy cuộc đời mình được tác giả giãi bày lại không chỉ bằng lời kể mà còn qua nhiều hình ảnh tư liệu sống động, giúp độc giả hình dung bên cạnh cuộc đời của một người nghệ sĩ còn là đời sống âm nhạc sôi nổi của một thời, như một món quà tri ân đến tất cả khán giả cùng những bạn bè thân sơ đã yêu mến Elvis Phương.

Hành trình theo đuổi âm nhạc truyền tải nhiều cảm hứng sống

Thuở nhỏ, Elvis Phương vốn thích điện ảnh hơn, ông xem rất nhiều phim từ thời kì phim đen trắng cho đến phim màu, với đủ mọi thể loại từ phim ca nhạc của Ấn Độ cho đến những phim cao bồi.

Bước ngoặt cuộc đời gõ cửa khi ông xem phim O’Cangaceiro. Theo Elvis Phương nhận xét, bộ phim không quá đặc sắc, cốt truyện cũng như những phim khác cùng thể loại; tuy nhiên, phần âm nhạc của phim đã khiến ông ấn tượng, đặc biệt là đoạn nhạc cuối phim với tiếng harmonica.

Sau hôm đó, ông đã xin mẹ tiền mua một chiếc harmonica loại bỏ túi rất nhỏ hiệu Piccolo, ngày đêm chăm chỉ tập thổi theo giai điệu bài hát cuối phim. Và từ đó, cậu bé Elvis Phương bỗng thích hát ca hơn là xem phim, bắt đầu chặng đường theo đuổi âm nhạc với niềm đam mê và tình yêu bất tận.

Vạn sự khởi đầu nan, những ngày đầu đến với âm nhạc của Elvis Phương cũng không hề dễ dàng. Ông từng phải “đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ.” Nhưng với Elvis Phương, điều đó không hề làm ông thấy buồn tủi, khi gảy đàn hát, ông vẫn “cảm nhận được sự sung sướng chạy rần rần trong mạch máu.”

Thuở ban đầu, gia đình Elvis Phương đã không ủng hộ ông theo đuổi con đường âm nhạc. Cha Elvis Phương là người phản đối quyết liệt nhất vì ông chỉ muốn con nối nghiệp thầu khoán. Elvis Phương đã phải lén cha nghe nhạc và lẩm bẩm hát theo chiếc radio nhỏ bé chạy bằng pin là vật bất ly thân mà ông vô cùng trân quý. Tuy nhiên, có một lần Elvis Phương bị cha bắt quả tang khi đang nghe nhạc với radio. Cha ông đã nổi giận và đập vỡ tan tành chiếc radio. Đối với Elvis Phương, sự kiện này khiến ông cảm thấy như bị “mất đi người bạn thân đầu đời và tận diệt niềm vui bé nhỏ.” Tuy nhiên, đây chỉ là sự kiện khởi đầu cho chuỗi ngày xung đột bất tận giữa Elvis Phương và cha ông sau này.

Năm 1962 là một cột mốc quan trọng trong hành trình âm nhạc của Elvis Phương. Thời điểm đó, sau khi Elvis Phương đậu Tú Tài, cha ông quyết định sẽ gửi ông sang Pháp du học. Sau một thời gian dài không biết bao nhiêu lần phải chịu đựng những lời mạt sát của cha về nghề ca hát với quan niệm phổ biến thời đó là “xướng ca vô loài”, hay những cái tát của cha khiến ông bị “nẩy đom đóm mắt”, nỗi đau đớn khi “cây đàn thùng thân yêu của tôi bị đập nát bởi bàn tay không thương xót của ba tôi kèm với vẻ mặt đằng đằng sát khí”; Elvis Phương quyết định sẽ không đi theo con đường cha ông đã vạch sẵn. Tình yêu âm nhạc trong ông đủ lớn để khiến ông lựa chọn không đi Pháp và có thể dõng dạc tuyên bố với cha rằng ông muốn ở lại Việt Nam để hát. Hậu quả là Elvis Phương bị cha từ mặt, ông buộc phải vứt bỏ không khí ấm cúng quen thuộc, khăn gói rời nhà để đi theo tiếng gọi của âm nhạc. Cũng từ đây, âm nhạc Việt Nam chính thức ghi dấu cái tên Elvis Phương.

“Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo.”

Tâm tình cảm động về tình yêu của Ngựa Hoang

Elvis Phương tự ví mình là Ngựa Hoang nên phần lớn tiêu đề trong 12 chương sách đều được đặt theo chặng đời của một chú Ngựa Hoang. Lời dẫn nhập trong sách được đặt tên là “Ngựa Hoang tâm sự”. Ba chương đầu kể lại thời niên thiếu và những ngày Elvis Phương mới theo đuổi âm nhạc nên cái tên Ngựa Hoang chưa xuất hiện trong tiêu đề mà là nơi chốn phôi thai Ngựa Hoang được góp mặt ở chương 1 “Đồng cỏ ngày xanh thời niên thiếu”, chương 2 “Bước vào đồng cỏ âm nhạc”, chương 3 “Những năm tháng tuyệt vời: Rockin’ Stars”.

Khi chú Ngựa Hoang đã trổ mã và có những bước tiến xa trong âm nhạc thì từ chương 4 đến chương 11 (ngoại trừ chương 10), tiêu đề luôn bắt đầu bằng Ngựa Hoang: Ngựa Hoang dưới ánh đèn màu, Ngựa Hoang và những con Phượng Hoàng, Ngựa phi đường xa, Ngựa Hoang những ngày phiêu bạt, Ngựa Hoang trên đồng cỏ quê hương, Ngựa Hoang cùng bạn hữu và đồng nghiệp, Ngựa Hoang thập tử nhất sinh. Qua cách đặt tiêu đề, có thể thấy Elvis Phương là một chú Ngựa Hoang có lòng kiêu hãnh, sự tự ý thức về bản thân mình rất cao. Ông tâm sự ở phần mở đầu rằng: “Tôi đã ví mình như con ngựa hoang. Lẽ nào là tôi hoang đàng, bê bối, giang hồ lắm sao? Không! Hoàn toàn không!” Quả thực như thế, chú Ngựa Hoang ấy không hoàn toàn bất kham hay chỉ mải mê rong ruổi trên con đường âm nhạc. Tình yêu là một ngoại lệ khiến Ngựa Hoang phải lùi bước ở chương 10 “Nước mắt một loài hoa & Vì thế anh yêu em”. Người phụ nữ có thể làm được điều đó chính là Lệ Hoa – người vợ ông hết mực yêu thương và nguyện dành trọn cả phần đời còn lại cho bà.

“Những giọt nước mắt đắng cay của một người phụ nữ yêu thương mình da diết đã khiến lòng tôi chua xót, nhưng tôi cũng không dám phủ nhận chính những giọt nước mắt đó đã tưới mát tâm hồn tôi, đã nuôi tôi sống để đôi lúc cảm thấy đời sống như đáng sống hơn. Tháng ngày trôi qua cùng bao sóng gió, giờ đây ngựa hoang thật sự, thật sự muốn dừng chân vì đã cảm nhận được ở người bạn đời hiện tại những điều mình khát khao bấy lâu. Đã đến lúc ngựa hoang đi đến quyết định cuối cùng cho cuộc đời mình.”

Đối với Elvis Phương, động lực để ông vui sống mỗi ngày, có thể lăn lộn với nghề hơn 60 năm mà không cảm thấy nhàm chán chính là nhờ có vợ ông luôn bên cạnh, thấu hiểu và chăm lo tất cả để ông được vui hát, thăng hoa khi phục vụ khán thính giả.

Chính tình cảm sâu nặng dành cho vợ đã khiến Elvis Phương có nguồn cảm hứng viết bảy ca khúc dành tặng bà, được đăng lời trong sách, lần lượt là: Lời hẹn ước, Yêu, Bài hát cho em, Still in love with you, Bẽ bàng, Chiều thu Paris, Gót hồng thôi hết phiêu du.

Những dòng chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời thăng trầm của người nghệ sĩ

Không chỉ có tình yêu, chính cuộc đời cũng khiến Ngựa Hoang dừng lại suy tư ở chương 12 “Nhìn lại đời! Nhìn lại người! Và nhìn lại chính mình!” Và cuộc đời hay “dòng đời” – như cách Elvis Phương chọn cụm từ này để đặt tên cho tác phẩm hồi kí của mình – cũng chính là mạch nguồn mà ông luôn trân trọng biết ơn dù phải đối mặt với những khó khăn, thử thách như thế nào.

Bên cạnh 12 chương chính, sách còn có hai phần phụ lục là “Những CD Elvis Phương”, “Elvis Phương – 62 năm ca hát”, bao gồm những hình ảnh tư liệu quý giá nhất trong suốt 62 năm sự nghiệp của Elvis Phương. Toàn bộ 69 trang ảnh cho hai phần phụ lục này đều được in màu, trình bày đẹp mắt. Sách còn tặng kèm hai postcard với mặt trước in màu những hình ảnh của Elvis Phương, mặt sau trích lời bài hát Tôi muốn, Dòng đời – thích hợp để làm quà tặng cho những người mộ điệu.

Tiêu đề Dòng đời của cuốn hồi kí được lấy từ bài hát cùng tên mà Elvis Phương đã từng trình bày. Dòng đời là bài hát được nhạc sĩ Nam Lộc viết lời Việt dựa trên ca khúc My Way nổi tiếng qua phần trình bày của Frank Sinatra. Phần lời của bài hát – cả lời trong bản dịch tiếng Việt lẫn lời gốc tiếng Anh – đều đã tóm gọn trọn vẹn tinh thần trong cuốn hồi kí về hình ảnh một người đàn ông điềm đạm, suy tư chiêm nghiệm lại cuộc đời có biết bao thăng trầm của mình – một cuộc đời mà dù có hối tiếc hay không, ông vẫn luôn cảm thấy nó quá ít ỏi so với sự biết ơn, tình yêu thương, niềm hạnh phúc như lời bài hát My Way:

“Regrets, I've had a few
But then again too few to mention
I did what I had to do
I saw it through without exemption.”

(Tạm dịch:
Tôi cũng có đôi điều hối tiếc
Nhưng nghĩ lại thì chẳng to tát gì
Tôi đã làm những điều cần phải làm
Đã nhìn thấu mọi sự đời.)

Và dù như thế nào, Ngựa Hoang vẫn sẽ cất vó trên đường xa, cũng như người danh ca có cái tên là Elvis Phương ấy vẫn sẽ mãi cất lên tiếng hát, gửi những tâm tình chân thành đến khán thính giả đã yêu mến ông.

Trích đoạn

“Mỗi ngày của tôi trôi qua đều đặn như vậy và đến cuối tuần tôi lại lên đường, lại hấp tấp đến phi trường, lại vội vàng ra khỏi máy bay – được đón tiếp – trình diễn – đưa tiễn – vào lại máy bay trở về... Lịch trình của tôi cứ thế trôi qua một cách êm đềm. Người ta thường cho rằng sự đều đặn dễ mang lại nhàm chán nhưng trái lại với tôi, sự đều đặn đó là cả một rừng hạnh phúc, là cả một nguồn thương yêu to lớn của khán thính giả bốn phương vẫn dành cho mình, vẫn còn thương mình đến ngày hôm nay.”

***

“Đây không phải là tập hồi ký, tôi chỉ muốn chọn một thời điểm thích hợp nhất để nhìn lại chuỗi ngày sau lưng, hoặc đúng hơn, để ghi lại kỷ niệm của chính mình, của những ân sủng, của suốt cuộc đời ca hát của mình. Đây cũng chính là dịp để tôi nói thật về bản thân, về cuộc đời mình; và đúng hơn là có dịp để tâm sự với tất cả bạn bè thân sơ, cũng như khán thính giả khắp nơi, như một món quà tinh thần ấp ủ từ bấy lâu đến bây giờ mới có dịp thực hiện.”

***

“Xét cho cùng, cuộc đời đối với tôi không thoát ra khỏi quy luật bù trừ mà tôi đã thấy ứng nghiệm trong nhiều tình huống. Có những lúc tôi như rơi xuống vực thẳm của khổ đau, nhưng bù lại lắm khi tôi leo lên được nấc thang cao vút của hạnh phúc, của danh vọng. Tôi có tiền, nhà cửa, xe cộ; nhưng ai biết được rằng tôi đã phải trả cho những thứ đó bằng một cái giá rất đắt, bằng cả sự cố gắng phi thường và sự nhẫn nhục đầy nước mắt. Càng thêm tuổi, tôi càng thấy đúng. Nhưng dù thế nào chăng nữa tôi cũng cảm ơn Thượng đế đã dành cho tôi quãng đời hoa niên tuyệt diệu, được sống trọn vẹn một tuổi trẻ mà nhiều người ao ước.”

Về tác giả

Elvis Phương tên thật là Phạm Ngọc Phương, sinh năm 1945 tại Bình Dương, trong một gia đình trí thức Tây học khá giả. Cha mẹ ông là người huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng chuyển đến sinh sống tại Bình Dương từ thập niên 1940. Cha ông là kiến trúc sư và giáo sư dạy tiếng Pháp. Elvis Phương là con trai trưởng trong gia đình với tám người em gái (trong đó có ca sĩ Kiều Nga) và một em trai. Từ lúc năm tuổi, ông đã học mẫu giáo ở trường Pháp Aurore, do đó ông có sự tiếp xúc khá sớm với âm nhạc phương Tây.

Ông biểu diễn trước công chúng lần đầu vào năm 1962 tại trường dòng Regina Pacis. Bài hát đầu tiên Elvis Phương biểu diễn là Nửa đêm ngoài phố của nhạc sĩ Trúc Phương. Ông tham gia nhiều ban nhạc như Rockin' Stars, Les Vampires... Là một trong những người khuấy động phong trào nhạc trẻ đầu tiên của Sài Gòn trong ban nhạc Phượng Hoàng lúc ấy còn có Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà... sau này trở thành một ca sĩ có thể hát nhiều thể loại từ rock, pop, trữ tình cho đến ca khúc trữ tình quê hương.

Đọc bài viết

Book trailer

Hồi ức Phú Nhuận: Trải nghiệm hành trình đa chiều qua lịch sử của một quận đô thị độc đáo

Published

on

By

Hồi ức Phú Nhuận – tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận – không dừng lại trong phạm vi ghi chép dáng dấp cơ bản của một vùng đất, mà còn phần nào đó giúp người đọc nhận diện đời sống đô thị đất Sài Gòn, trong trăm năm qua.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận cố gắng ghi nhận dòng chảy thời gian đi qua một vùng đất bằng việc sưu tầm và viết lại những hồi ức tản mạn không chỉ của riêng tác giả – một người sinh ra và lớn lên gắn bó với vùng đất này, mà còn từ lời kể của nhiều cư dân Phú Nhuận qua các thế hệ.

Tinh thần Phú Nhuận xưa được tái hiện sống động

Phú Nhuận là một trong những quận nội thành quan trọng áp sát trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn 300 năm hình thành và phát triển, từ xuất thân nhỏ bé là một vùng đất cằn cỗi, một gò đất hoang với vài hộ gia đình lưu dân tới khẩn hoang lập ấp, Phú Nhuận đã vươn mình trở thành một quận hoàn toàn đô thị hóa. Nơi đây có một cuộc sống đa dạng với nhiều sắc thái, có lịch sử ngang bằng với đô thị Sài Gòn, có một số nhân vật được trọng nể vì những đóng góp cho xã hội trên nhiều mặt và có những địa chỉ khiến người từ các nơi khác phải tìm đến…

Trong những bài viết của Hồi ức Phú Nhuận, tinh thần Phú Nhuận xưa hiện lên rõ nét qua những câu chuyện hoài niệm về các con đường ngày xưa, có con đường từng trải qua bảy lần thay tên (đường Nguyễn Văn Trỗi), có con đường từng đi ngang quán xá và trại lính (đường Võ Tánh ngày xưa, nay là Hoàng Văn Thụ); là những quán ăn, tiệm cà phê mà tác giả luôn mong “lớn nhanh để đĩnh đạc bước vào” nhưng “không bao giờ có cơ hội đó nữa vì tất cả đều đã đóng cửa qua thời gian”...

Chính vì những lẽ đó, Hồi ức Phú Nhuận tuy là kí ức riêng của tác giả nhưng lại bắt được dòng hơi thở chung của đời sống đô thị Sài Gòn xưa và nay.

Những trang viết giàu cảm xúc, đầy ắp tư liệu

Hồi ức Phú Nhuận gồm 60 bài viết về Phú Nhuận theo trục thời gian trải dài từ xưa đến nay, bao quát đủ mọi mặt trong đời sống của quận đô thị này, được tác giả chia thành chín phần: Mấy nẻo đường quen, Nơi chốn đi về, Dưới mái trường xưa, La cà quán xá, Giải trí và rèn luyện thân thể, Cơ sở làm ăn, Dập dìu tài tử giai nhân, Ôn chuyện xưa; và phần Phụ lục điểm qua sáu giai đoạn hình thành và phát triển của Phú Nhuận.

Với giọng văn trầm tĩnh, giàu cảm xúc và tư liệu đầy đặn, 60 bài viết như những thước phim ngắn được bật lên, lần lượt đưa người đọc tìm về những tinh túy đã từng hiện diện ở Phú Nhuận: có một số thứ dù còn tồn tại nhưng ít nhiều thay đổi qua thời gian, có một số thứ tuy đã biến mất nhưng vẫn ẩn tàng trong kí ức của người Phú Nhuận và trong những góc khuất của đời sống.

Tùy bút vốn là thể loại để người viết có thể tự do tung hứng theo cảm xúc. Nhưng ở Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận đã viết không chỉ dựa vào cảm xúc đơn thuần mà còn có sự nghiên cứu, phóng chiếu với những tư liệu thực tế đúng như thao tác thường thấy ở nhà báo chuyên nghiệp.

Bộ sưu tập công phu về đời sống Phú Nhuận

Phạm Công Luận khảo sát về Phú Nhuận ở đủ mọi khía cạnh: lịch sử, văn hóa, tâm lý, lối sống, giải trí, kinh doanh… Qua đó, những giá trị Phú Nhuận đã từng tồn tại, nay trở lại trong ký ức và niềm thương cảm về thân phận một vùng đất mà mỗi người, mỗi thế hệ người dân đã gắn bó bằng những cách khác nhau.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, tác giả còn cung cấp những thông tin thú vị mà nhiều khi chính người Phú Nhuận chưa hẳn đã biết: Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã sống ở Phú Nhuận những năm cuối đời, sau khi ông mất, con đường có ngôi nhà ông ở (trước đây vốn là con hẻm), đã được đặt lại theo tên ông, trở thành đường Hồ Biểu Chánh như ngày nay; tiệm phở Bắc Huỳnh thuộc hàng cao cấp, dù chỉ tồn tại ngắn ngủi nhưng rất tiếng tăm, khi đột nhiên đóng cửa năm 1982 đã khiến nhiều người vô cùng tiếc nuối; đầu thế kỉ 20, nhà thuốc Ông Tiên ở Phú Nhuận là “nhà bào chế và kinh doanh thuốc Đông dược có tiếng trên toàn cõi Đông Dương”…    

Khi nhắc đến một vùng đất, không thể không đề cập đến những con người đã và đang gắn bó ở đó. Chính vì vậy, trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận dành hẳn hai phần để viết về những người đã chọn Phú Nhuận làm nơi an cư: phần Dập dìu tài tử giai nhân dành cho giới nghệ sĩ, phần Ôn chuyện xưa dành cho những người Phú Nhuận trong kí ức tác giả.

Bên cạnh đó, cuốn sách còn có phần tranh của họa sĩ Phạm Công Tâm, Trương Ánh Mai cùng ảnh tư liệu phong phú từ nhiều nguồn khác nhau. Sự kết hợp hài hòa giữa những trang viết đa chiều, giàu cảm xúc và phần hình ảnh được đầu tư chăm chút khiến Hồi ức Phú Nhuận thực sự là món quà quý để người đọc tìm về di sản văn hóa của Phú Nhuận, để hòa điệu, tri ân những độc giả luôn nặng lòng với quận đô thị này.

Trích đoạn

Các nghệ sĩ của Sài Gòn một thuở, những bóng sắc huyền thoại, những danh ca một thời, những nhà văn nhà báo của nửa thế kỷ trước từng sống ở đây hầu như không còn ai ở lại cư xá này, trừ căn nhà 215D/16 năm xưa của nghệ sĩ Năm Châu, nay đã ngăn thành hai căn cho gia đình hai người con và đổi thành địa chỉ mới.

(Trích Cư xá của các nghệ sĩ)

Trong hơn 20 năm trước 1975, nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng tuy tọa lạc trên con đường nhỏ ở Phú Nhuận nhưng tiếng tăm vang ra khắp Sài Gòn – Gia Định. Nhiều người, nhất là giới văn nghệ sĩ biết tiếng nhà hàng này, đã từng đến thưởng thức bảy món bò của bà Tư Lái, bếp chính. Tuy vậy, không mấy ai biết gốc gác của nó.

(Trích Nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng danh tiếng Sài thành)

Về tác giả

Nhà báo Phạm Công Luận là tác giả của những tựa sách gây tiếng vang và được tái bản nhiều lần như Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Những lối về ấu thơ, Chú bé Thất Sơn. Không chỉ nổi bật trong thể loại tản văn, ông còn là một cây bút gạo cội sở hữu lượng tác phẩm dồi dào, mang đến cho độc giả nhiều tập sách chuyên khảo, hồi ký về Sài Gòn giàu giá trị như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Phong vị báo xuân xưa, Sài Gòn – Ngoảnh lại trăm năm…

Đọc bài viết

Cafe sáng