Book trailer

The Booker Prize 2020: The Shadow King – Chiến tranh và chiến tranh

Every sun create a shadow and not all are blest to stand in the light.

Published

on

Chưa khi nào tính nữ được đề cao như thế. Nếu năm ngoái chứng kiến những trào lưu nữ quyền, những hashtag #Metoo, những Margaret Atwood, những Bernardine Evaristo; thì năm nay với danh sách rút gọn giải Booker, ta chứng kiến 4/6 nhà văn nữ, 4/6 tiểu thuyết đề cao tính nữ và đặc biệt hơn hết, tính nữ ở đây lần đầu được khai thác triệt để và mới lạ. Cũng như Ngozi Adichie với Nửa mặt trời vàngThe Shadow King cũng đồng thời là một tiểu thuyết đậm tính nữ. Đặt trong bối cảnh chiến tranh Ethiopia chống quân xâm lược Ý những năm 1935 – 1936 thời đoạn Đệ nhị thế chiến, Maaza Mengiste đã cho thấy một lịch sử Ethiopia chịu nhiều mất mát mà cũng đồng thời qua đó, hình tượng những nữ chiến binh lần đầu hiện lên sáng rõ và đầy vận động trong văn chương tái hiện lịch sử.

*

Cuốn sách là câu chuyện kể về Hirut, Aster và đội quân chống Ý của mình. Sinh ra trong một gia đình với nề nếp quân sự, Kidane từ nhỏ chịu sự huấn luyện nghiêm khắc từ cha. Sau khi quân Ý tràn vào, vua Haile Selassie lại tị nạn ở Anh, anh đứng lên lãnh đạo đội quân của mình, cùng với Aster và Hirut. Aster là con gái một gia đình giàu có, cô bị ép kết hôn sớm không có tình yêu với Kidane và vừa chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng; trong khi Hirut là người giúp việc – nơi mẹ cô có mối gắn bó chặt chẽ với Kidane. Khi quân Ý tràn vào, Kidane dẫn đầu đội quân gồm dân làng trốn vào hang chờ thời cơ giao chiến với quân của Fucelli. Giữa tương quan một bên được trang bị tiên tiến và một bên chỉ với vũ khí thô sơ, họ trong thế giằng co. Quân Ý đến mang theo những tội ác tày trời; hơn thế, là người thích phô trương, Fucelli cho gọi Ettore như thợ chụp ảnh ghi lại những tấm hình tra tấn, giết chết tù binh nhằm một mặt răn đe dân làng theo quân kháng chiến, một mặt cho Thế giới kia thấy được sức mạnh của đế quốc này.

Quân đội của Kidane lui về cố thủ và đợi chờ thời cơ tấn công. Trong lúc này, Aster cũng thành lập đội quân của riêng mình. Tuy luôn bị Kidane gièm pha cho là vô dụng và chỉ được giao cho việc bếp núc cũng như chăm sóc thương binh, nhưng khi số người không đủ, cuối cùng những người phụ nữ cũng trở thành chiến binh kiên cường, tập luyện mỗi tối chuẩn bị cho trận chiến lớn. Trong một cuộc giao tranh, Aster và Hirut bị bắt làm tù binh, chịu sự giễu cợt của quân Ý. Từ sự đồng cảm nơi nhân tình của Fucelli – một người đàn bà Ethiopia chính gốc – hai người trốn thoát và kết cục cuối cùng là cuộc giải phóng của quân đội Kidane. Với The Shadow King, Maaza Mengiste lấy cuộc chiến này làm trung tâm, từ đó tỏa ra vòng ngoài gồm những nhân vật như người ngồi trong một hội nghị bàn tròn, mà điểm đặc biệt duy nhất, là họ ngồi tách rời nhau ra, không hẳn trong trạng thái cách ly của thời kì dịch bệnh, mà mỗi người họ là một mặt trời, mà khi đã là mặt trời sẽ tồn tại bóng. Giữa họ và những cái bóng ấy.

*

Như đã nói trên, điểm thành công nhất của The Shadow King là những khắc họa lịch sử mà nếu không nhờ Maaza, chắc hẳn sẽ không ai biết tới một Ethiopia đã từng đứng lên chống quân đội Ý như thế. Nhưng hơn thế nữa, cái hay đồng thời là việc khắc họa những nhân vật bên lề, rõ ràng, chi tiết mà đầy ấn tượng. Có đôi lúc những tưởng Maaza chỉ như đang mượn trận chiến làm nên nhân vật, bởi lẽ, các nhân vật của cô hùng vĩ và đầy ngời sáng. Cũng như tựa đề cuốn sách, Maaza gợi mở trong từng nhân vật, từng bản thể cá nhân, giữa người thật và cái bóng, giữa những nhập nhoạng chếnh choáng đứng chờ người đọc đến để mà nhận ra.

Ảnh: The New York Times

Với Aster, ban đầu đó là người đàn bà bình thường như bao người đàn bà khác. Một người đàn bà biết ghen khi chồng mình dành nhiều tình cảm cho Hirut, một người đàn bà sầu bi vào ngày giỗ đầu của con, một người đàn bà hoảng loạn nhận ra chồng mình không chút thương xót cho đứa con chết yểu. Với bộ đồ màu đen và trạng thái bi kịch sầu thảm của ngày giỗ đầu, đương lúc quân Ý tràn về từ biển, Aster – người đàn bà điên loạn, mất con, có chồng bội phản ấy – cưỡi ngựa đến các nhà thờ hét vọng đến tận thiên thanh, đòi lũ Thiên thần hạ thế. Nhưng cũng Aster, người đàn bà ấy, người gây dựng đội quân phụ nữ, người luôn mặc bộ quần áo của cha chồng mình, đứng trước toàn quân, chỉ huy trận đấu. Song song trong đó là hai nhân vật, hai con người, chuyển dời hòa nhập vào nhau.

Với Hirut, dường như là nhân vật chính của toàn câu chuyện, người chịu đầy đủ mọi thứ bi kịch. Cha mẹ mất sớm, bị Kidane cưỡng ép, mất đi gia bảo là cây súng mà cha để lại vì bị ép sung nạp cho thời chiến tranh. Chính những bi kịch trong đời sống này đã đẩy cô đến mức độ tăng tiến của cái vỡ òa, của lòng căm thù, của cái căm phẫn vẫn đang sục sôi. Cô tập luyện hàng ngày hàng giờ, những lời chỉ dẫn bắn súng của cha văng vẳng bên tai; và dù cho khi bị bắt làm tù binh ở trại quân Ý, cô vẫn kiên quyết giữ cái lạnh lùng của một chiến binh, cái vẻ ngoài không ai có thể bộc phá. Aster và Hirut, cả hai người họ như những đàn bà bộ tộc Amazon, những người trong trận đánh chiến với Achilles ở thành Troy đã làm cho chàng chìm đắm say mê. Mạnh mẽ, hoang dại mà đầy sức sống.

Nếu hai người phụ nữ được Maaza khắc họa như những điểm nhấn của tiểu thuyết này, thì Kidane và Fucelli lại như những gã tầm thường vô cùng muốn quên. Nếu Kidane sợ sệt trước những trận đấu của đội quân mình, là người u mê đứng trước Hirut; thì Fucelli luôn chứa trong mình cái bất an của những tướng lĩnh, của kẻ bị ám ảnh bởi cái chết. Y luôn nhắc nhớ mình là Achilles không thể bị đánh bại bởi các nữ chiến binh Amazon. Y luôn đeo hai đai vũ khí và một con dao cắm ngay ở chân trong khi xung quanh là bảy cận vệ. Cũng như Kidane, y say mê Fifi – người phụ nữ bản địa – nhưng may thay, đó là một người đàn bà tỉnh trí, sáng rực và ở đúng nơi khi cần thiết. Với Fucelli, ta luôn thấy ở y cái thâm độc của người ra lệnh, mà hiển hình nhất là chi tiết nắm chui Ettore – người phó nháy chụp hình – người ghi lại những khoảnh khắc đáng quên.

Ngoài hai nữ chiến binh của bộ tộc Amazon – Hirut và Aster, Ettore góp mặt trong cuốn sách này như nút giao của những bản thể nhìn nhận chiến tranh. Giữa thế bị giằng co bởi lợi lộc của quân xâm lược Ý, nhưng cũng đồng thời ờ thế bị trị khi Phát xít Đức bài trừ Do thái, trong Ettore luôn là những dằn vặt tự thân của cuộc chiến này. Giữa những tự vấn tội ác của riêng bản thân, rằng, Bởi vì, thưa cha, rằng, đây là chiến tranh. Phải thế không? khi tiếp tay cho Fucelli chụp những xác chết bị tra tấn; nay một nhận thức nào đó trỗi dậy trong anh, về những bức thư qua lại của người cha vốn kiệm lời, về những tình cảm sau cuối rốt cuộc anh cũng nhận ra, về chiến tranh, tình người về hàng vạn những điều khác. Đến cuối khi dân làng nổi dậy giết chết Fucelli, anh mới nhận ra, đây là đất nước của những bóng ma và mỗi một tấm ảnh được chụp là một tổ hợp của những hình dáng bóng ma, một sự gặt hái cái chết.

Và điểm cuối cùng, ngoài bối cảnh lịch sử cuốn hút và việc mô tả nhân vật sắc nét, The Shadow King cũng chứa trong mình kết cấu của bản hùng ca về cuộc chiến tranh, mà những đoạn chuyển được Maaza ngắt quãng bằng dòng suy nghĩ của vua Haile Selassie người Abyssinians thời bấy giờ. Ở nước Anh xa xôi, ông nghĩ về động cơ trốn chạy của mình, về nỗi luyến nhớ quê nhà, về máu thịt núi non Ethiopia. Ở đó, câu chuyện về công chúa thứ hai của xứ Abyssinian, Zenebework, bị gả ép cưới cho Gugsa vì các khế ước chính trị, bị đối xử không tình yêu, nhớ nhà nhưng vua cha không cho phép, cuối cùng chết khi sinh con đầu lòng dường như hiện diện thông qua Aster. Đến cuối tiểu thuyết, khi những ảo ảnh mộng du đưa vua Haile Selassie về lại sân ga, Hirut – nữ chiến binh của Ethiopia, con gái của Getey và Fasil, người sinh ra trong một vụ mùa bội thu – vẫn là người cuối cùng dẫn ông về lại ngai vàng của người đứng đầu, thực hiện vai trò của nữ chiến binh bộ tộc Amazon xứ Ethiopia.

Với The Shadow King và kết cấu đặc biệt của nó, Maaza Mengiste đã viết nên bản hùng ca về chiến tranh Ethiopia, về phụ nữ – những nữ chiến binh, về những mảng sáng tối trong tâm hồn mỗi một con người trong bối cảnh lấy chiến tranh làm trung tâm. Đầy năng lượng như Alice Hoffman trong Những người nuôi giữ bồ câu nhưng cũng tinh tế từ những mạch ngầm như Nửa mặt trời vàng của Ngozi Adichie, The Shadow King là cái bóng của mỗi con người, là vết nhơ rất khó gột rửa và là chứng nhân cho một thời kỳ đã qua. Dẫu không chứa đựng bất cứ một tính cá nhân cụ thể nổi trội nào, dẫu chỉ bối cảnh là thứ đặc sắc nhất; nhưng bằng lối viết dung dị, bình thản và tuần tự, The Shadow King tổng hòa, hòa hợp và vừa đủ.

Hết.

minh.

*

The Booker Prize 2020






Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng