Phía sau trang sách

The Memory Police: Nét bút Á Đông giữa cảnh dystopia tăm tối

Published

on

“Điều tồi tệ nhất của việc giữ những ký ức không phải là nỗi đau, mà là sự cô độc. Ký ức cần phải được chia sẻ.”

– Người truyền ký ức, Lois Lowry

“Khi tôi lang thang qua những khoảnh rừng của ký ức, những tấm ảnh là thứ la bàn đáng tin cậy nhất. Nhưng thời gian cứ thế tiếp diễn. Thật tệ khi đánh mất chiếc la bàn ấy, nhưng tôi không còn sức lực nào để kháng cự sự tan biến kia.”

– The Memory Police, Yōko Ogawa

Đầu tiên, nói thật lòng thì tôi vốn được Bookish mời tham gia bài viết bàn tròn xoay quanh giải International Booker 2020 cùng minh. từ đầu những ngày tháng 4. Tôi nhận lời và tiến hành đọc danh sách rút gọn, từ cuốn đầu tiên là Tyll đến cuối cùng, sát ngày trao giải, là The Adventures of China Iron. Nhưng đại dịch kéo dãn buổi trao giải và bẵng ba tháng sau đến ngày hôm kia, khi nghe được thông tin trao giải; tôi, minh. và Bookish không trở tay kịp, và bài viết bàn tròn rơi vào quên lãng.

Nhưng để hỏi tôi có chuẩn bị trả lời bài phỏng vấn ấy không, thì câu trả lời là có, và tôi mong được hỏi đến câu nào nhất, thì là, dự đoán của tôi cuốn nào sẽ thắng? Lại trần tình một điều tiếp đến, tôi hy vọng đó là The Memory Police (tạm dịch Cảnh sát ký ức). Đối với tôi, người đọc Yōko Ogawa lần đầu, nhận thấy cuốn sách này đẹp, và hẵng buồn. Bà có thể nhẹ nhàng, tình cảm, phảng phất một nét buồn cô động của Banana Yoshimoto; nhưng cũng có lúc lạnh căm, bất động, mang nét của Murakami trong mỗi phân đoạn câu chuyện. Yōko Ogawa đánh gục tôi bằng cốt truyện, bằng cảm quan và sự tinh tế, nhưng bà cũng khắc sâu vào tôi nhát dao của cái buồn bãng lãng, bò trườn nhẹ nhàng như một con rắn chà xát trên da.

Yōko Ogawa. Ảnh: Kanpai!

Đứng trước thế giới tan hoang vào những ngày này, các tiểu thuyết hậu tận thế – phản địa đàng như đang bước lên một ngôi vị mới chưa từng chiếm giữ từ trước đến nay. Nếu trước đó con người ta vẫn sống dửng dưng với thời đại mình, khi tiểu thuyết khoa học kỳ ảo có đôi ba lúc bị gọi với danh ba xu, còn phản địa đàng như kiểu văn chương của thời mạt thế. Nhưng nhận thức mới đã không đến trễ, và ngay sau nó là những sinh vật nhỏ bé li ti nhưng sức công phá vô cùng mãnh liệt. Chúng ta từng há hốc mồm với thế dystopia của Lois Lowry trong Người truyền ký ức hay Chuyện người tùy nữ của Margaret Atwood; chúng ta cũng từng bất ngờ khi 28 của Jeong You-Jeong, Tro tàn sắc đỏ của Pyun Hye-Young hay Mùi Adam của Jean-Christophe Rufin lại thật trùng khớp trong những ngày này. Điều đó càng chứng tỏ tiểu thuyết phản địa đàng không đáng được gọi với danh mạt thế, dù theo bất kỳ nghĩa nào – dự đoán tương lai, nhìn nhận hiện tại.

Ra mắt vào năm 1994, The Memory Police của Yōko Ogawa thật sự là tiếng vọng lớn vào trong thế giới ta đang sống. Và tiếng vọng ấy đi theo hiệu ứng Doppler như càng vọng xa ra khỏi hai bờ vách ngăn ngôn ngữ. Với sự chuyển ngữ đầy mượt mà của Stephen Snyder, Cảnh sát ký ức lại một lần nữa sống dậy. Rõ ràng sau ngần ấy năm, giá trị của nó không hề cũ. Sự tinh tế của Yōko Ogawa đã xây nên một tiểu thuyết chấn động nhưng cũng đầy hy vọng. Cuốn sách là bản hòa thanh của nhiều cung bậc, qua đó ta sẽ nhận ra những điều ẩn sâu vẫn còn giấu kín dưới tầng tầng lớp lớp chữ nghĩa văn chương.

*

Mượn tóm tắt từ minh., The Memory Police là câu chuyện của nữ tiểu thuyết gia sống trên hòn đảo không tên, nơi ký ức được xem như một mối hiểm nguy. Cứ cách một khoảng thời gian, một thứ gì đó sẽ lại biến mất và rơi vào quên lãng. Từ đây, cảnh sát ký ức nghiên cứu và phát triển khả năng nhận biết những ai kháng lại sự tan biến bằng cách phân tích chuỗi gene, và đây là lúc những người bình thường phải chạy trốn sự truy bắt. Cô nhận che giấu R – biên tập viên, người hiệu chỉnh tiểu thuyết của mình, vì anh là một con người “hoàn toàn” – nghĩa rằng vô cảm trước mọi sự biến mất. Cũng trong lúc đó, thế giới ngoài kia mọi sự dần đổi thay. Từ loài chim biến mất, cho đến hoa hồng, trái cây, tấm ảnh, lịch bàn, tiểu thuyết, chân trái, tay phải,… và cuối cùng là tất cả.

Với tiểu thuyết này, Yōko Ogawa đã xây dựng hai tuyến nhân vật song song nhau và cũng đồng thời trái ngược nhau. Một bên là toán cảnh sát mà nhiệm vụ đầu tiên […] là củng cố sự tan biến, và một bên là những dân làng ngây thơ không thể kháng cự. Hai tuyến nhân vật luôn tồn tại trong mọi cuốn sách phản địa đàng, đại diện cho hai vai vế đối nghịch trong một xã hội: trên – dưới, thống trị – bị trị, quyền lực – nghèo khổ… Giữa hai tầng lớp ấy không có thứ gì khác gắn kết họ ngoài nỗi sợ và lòng căm thù. Nếu cảnh sát ký ức là lũ chó săn mà mùi hương duy nhất đánh động được chúng là những vật thể đáng lẽ phải quên, thì người dân sống trên hòn đảo ấy chỉ như những con mèo đói lả rách rưới chực chờ đứng đợi răng nanh móng vuốt quào ập xuống mình. Họ phải cẩn trọng từng li từng tí, không được mua nhiều bánh mì hơn số lượng thành viên trong gia đình cần hay thậm chí những cái bóng cử động sau tấm màn; và từ đó, như nữ tiểu thuyết gia bộc lộ: tôi cảm thấy, một lần nữa, nỗi lo lắng đã bén rễ sâu trong trái tim mình đã từ rất lâu rồi.

Dĩ nhiên, trong cộng đồng những người dân làng ấy, hai phe tiếp theo lại được chia ra, một bên bình thường – cam chịu và một bên đột biến – vực lên. Nếu trong Người truyền ký ức, Jonas là cậu bé được cộng đồng chọn bằng vẻ đặc biệt của mình, thì trong Cảnh sát ký ức, người ấy là R – người chưa từng quên bất cứ thứ gì. Nếu lũ chó săn đại diện cho cái ác, cho nỗi diệt vong; thì R tồn tại ở đó như thứ chân thật, như niềm hy vọng còn sót lại sau cùng. Mượn tính cách của từng nhân vật, Yōko Ogawa như muốn thể hiện sâu hơn nhân sinh quan của mình nói riêng, và của châu Á – phương Đông nói chung: trận chiến giữa cái ác và cái lành, giữa cam chịu và diệt vong, giữa mưu kế và chân thật.

Ở đó ta thấy cái ác luôn chiếm ưu thế. Như thể một vài chi tiết mà Yōko Ogawa cố gắng khắc họa: nội thất của nơi trụ sở làm việc, chiếc xe chở đi mất người mẹ của nữ nhà văn hay chi tiết chân trái của bọn cảnh sát không biến đi mất trong khi người khác thì mất. Cũng từ đó, hình tượng một anh hùng được khắc họa – người được chọn và duy nhất bước ra ngoài đó, cứu lấy thế giới. Có chăng là với Yōko Ogawa, bà đã không xây dựng một kiểu truyện trẻ con màu hồng như thế. Cái thiện vẫn là thiểu số và luôn lẩn trốn. Họ là những que diêm đứng tách rời nhau, chỉ đợi đến lúc tàn cuộc để cháy một lần rồi thôi. Từ đó một nhân sinh quan vô cùng châu Á như dần hiện lên, giữa hai đối cực của thiện và ác, bị hút vào nhau, gắn kết với nhau.

*

Và mối quan hệ giữa mỗi con người trong tiểu thuyết này được bà nhân lên như cách ít nhiều cho thấy còn đó là niềm hy vọng. Bỏ qua chính thế đối đầu giữa bọn cảnh sát và những người dân; mỗi một người họ đều chứa trong mình một niềm tin yêu vô cùng dai dẳng. Họ sống một đời yếu thế không hề dễ dàng, thế nhưng giữa họ là niềm tin yêu vô cùng thiền định. Ta dễ nhận thấy thể như ông lão và cô nhà văn, giữa người bán cá – ông làm ô cùng với lão già, gia đình cách biệt với người thanh niên mà họ che giấu, hay nữ nhà văn và chú chó Don… Tất cả ở mỗi người họ là sự hiện diện như cách chứng minh hy vọng vẫn còn. Một niềm hy vọng tươi sáng lạc quan.

Ở đó mượn nhân vật R, những điều Yōko Ogawa mong muốn truyền tải đến với người đọc đã được truyền đi một cách dễ dàng. Bằng sự ủi an nữ nhà văn những ngày cuối cùng, anh như nói với người đọc về sự khó khăn, về nỗi căm hờn, về hy vọng mới: Em có thể nghĩ rằng ký ức chính nó sẽ biến tan dần mỗi khi có sự tan biến nào đó, nhưng không phải thế. Chúng chỉ lướt qua nơi một cái hồ ánh sáng không thể chạm đến. Tất cả những gì em phải làm là khuấy đôi tay mình vào đấy để nắm lấy thứ gì có thể. Vài thứ sẽ mang ra ánh sáng từ đó.

*

Ngoài ra, với nghệ thuật truyện lồng trong truyện, Yōko Ogawa cũng khéo léo lồng ghép vào đó niềm tin về niềm hy vọng cuối cùng bà muốn truyền tải. Câu chuyện về cô gái câm và anh đánh máy, về sự chờ đợi và nỗi ngục tù, về sự luân hồi và tương lai mới. Dường như, Yōko Ogawa đang xây nên thế liên tục, tuần hoàn của con rắn Ouroboros, khi cái kết của câu chuyện này rồi thành mở đầu cho câu chuyện sau, hoặc giả là sự ngược lại. Cả hai câu chuyện lồng ghép trong nhau, móc nối vào nhau, che chắn lẫn nhau và hút cạn nhau như một nhập nhằng của cái kết mở. Tuy kết thúc truyện là một cái kết không thể mở hơn, nhưng Yōko Ogawa đã đủ tinh tế để hướng người ta đến nỗi hy vọng – một nét đặc trưng vô cùng Nhật Bản ở các tác gia nữ.

Cảnh sát ký ức, mượn một nhan đề của Kawabata Yasunari để nói về nó – là một cuốn tiểu thuyết rất “đẹp và buồn”. Đẹp về nỗi hy vọng cuối cùng, về những con người tồn tại trong đây; nhưng buồn vì một đời sống đã quá khó khăn, vì sự đứt lìa của mối gắn kết, vì một tưởng tượng 20 năm trước rồi đây sẽ rất có thể trở thành hiện thực. Yōko Ogawa bằng sự nhạy cảm vô cùng tinh tế đã khắc họa nên bức tranh tỏ vẻ u sầu nhưng được phủ lên lớp men đầy màu hy vọng. Và cũng bởi thế, Cảnh sát ký ức thật sự là cuốn sách hay, dẫu bao thời gian đã trôi vút qua, nhưng tiếng vọng ấy sẽ mãi còn lại. Biết đâu ngày tháng nào đó, chính tiếng vọng ấy lại một lần nữa ào qua không gian; tuy không chiến thắng lần này, nhưng mãi còn lại trên từng giá kệ, trong những tâm tưởng, và trong chúng ta. Rất đẹp và buồn.

Hết.


Bài viết có những phân đoạn chứa ý kiến từ minh. bởi trong quá trình làm việc chung để chuẩn bị cho bàn tròn International Booker 2020, việc lắng nghe & tiếp thu thụ động là không tránh khỏi. Cám ơn minh. đã cho phép sử dụng những phân đoạn này.

Ảnh đầu bài: Books & Bao

*

The International Booker Prize 2020




Đọc tất cả bài viết của bí


Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng