Chuyện người cầm bút

Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo: Một cuộc phỏng vấn với Madeleine Thien

“Ngôn ngữ thật mỏng manh. Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo nhiều thứ. Công bằng, lý trí, dân chủ, tự do, lòng tốt, sự thật – chúng ta sử dụng những từ này phục vụ cho các ý định khác xa nhau. Chúng ta dùng chúng để phục vụ cho cả nhân đạo và bạo lực sâu sắc.”

Published

on

Madeleine Thien là tác giả nổi tiếng quốc tế với bốn tác phẩm hư cấu, bao gồm tập truyện ngắn Simple Recipes (tạm dịch Những công thức giản đơn), các tiểu thuyết Certainly (tạm dịch Chắc chắn) và Dogs at the Perimeter (tạm dịch Những chú chó trên vành đai). Cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của cô, Do Not Say We Have Nothing (Phương Nam Book đã dịch và phát hành tại Việt Nam với tựa đề Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền1), là câu chuyện hấp dẫn về các thế hệ bị cuốn vào di sản thời kỳ Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông và sự kiện Thiên An Môn. Cuốn tiểu thuyết được ca ngợi rộng khắp trong giới phê bình Anh ngữ và từng lọt vào danh sách rút gọn của giải Man Booker, cũng như nằm trong đề cử Huy chương Andrew Carnegie cho tác phẩm hư cấu xuất sắc. Mới đây, Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đã thắng hai giải thưởng văn học uy tín nhất Canada: giải Toàn quyền Canada cho tác phẩm hư cấu và giải thưởng Giller. Dẫn lời ban giám khảo giải Toàn quyền Canada, cuốn sách được nhận định là “một tiểu thuyết thanh lịch, đa sắc, hoàn hảo, tựa như một tẩu pháp2 trình bày đời sống các cá nhân, tập thể và các thế hệ bị vướng vào mớ bòng bong lịch sử.”

David Chariandy (DC): Chúc mừng những danh hiệu mới nhất, Madeleine. Tôi biết chị đã có một năm vô cùng bận rộn.

Madeleine Thien (MT): Tôi thấy như mình đang bay qua hầm gió! Nhưng cảm giác vẫn ổn.

DC: Là người ngưỡng mộ tác phẩm của chị từ lâu, tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi về cách mà chị đã chuyển từ tiểu thuyết trước đó, Dogs at the Perimeter nói về nội chiến Cambodia, sang Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền với bối cảnh cách mạng văn hóa Trung Quốc và những cuộc biểu tình tại Thiên An Môn. Cả hai tiểu thuyết đều bàn về những cá nhân bị cuốn vào lịch sử đau thương của tổ quốc, nhưng ở Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền có sự chuyển hướng nổi bật sang âm nhạc. Làm thế nào và tại sao mà âm nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển phương Tây lại trở thành đội hợp phối tràn đầy năng lượng trong cuốn tiểu thuyết này?

MT: Tôi thấy buồn không tưởng sau Dogs at the Perimeter, vì tôi bắt đầu nghĩ rằng bản thân ngôn ngữ mâu thuẫn với chính những điều ta cần ở nó: để nghe, để nói, để hiểu. Ngôn ngữ thật mỏng manh. Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo nhiều thứ. Công bằng, lý trí, dân chủ, tự do, lòng tốt, sự thật – chúng ta sử dụng những từ này phục vụ cho các ý định khác xa nhau. Chúng ta dùng chúng để phục vụ cho cả nhân đạo và bạo lực sâu sắc.

Một trong những nền tảng nghệ thuật và câu hỏi mang tính khái niệm trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, là làm thế nào để ngôn ngữ tự nó hoàn thiện, làm sao để gắn kết một từ và ý nghĩa của nó khi chúng rất dễ bị tách ra? Làm cách nào để chúng ta tìm được ngôn từ để tư duy theo nhiều lối khác nhau? Âm nhạc, toán học, nghệ thuật thị giác, với những hình thái ký hiệu riêng biệt, đều làm thực tế trở nên phức tạp. Lấy ví dụ, Bản giao hưởng số 5 của Dimitri Shostakovich nổi tiếng với những cách diễn giải khác nhau. Cách hiểu đầu tiên (và ơn trời là phổ biến nhất, vì chính cách hiểu này có lẽ đã cứu sống Shostakovich), rằng nó “đại diện cho những lý tưởng cao đẹp nhất của Hiện thực Xã hội chủ nghĩa…[và] lời đáp trả sáng tạo của một nhà soạn nhạc Xô Viết đến những lời phê phán công tâm”. Cách hiểu thứ hai là sự công khai thương tiếc vì bạo lực thảm khốc xảy ra trong suốt các chiến dịch chính trị và thanh trừng của Stalin.

Trong kỷ nguyên Baroque và Lãng mạn, âm nhạc cổ điển phản ánh những đổi thay chính trị và trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, nó nói lên nhiều điều về các nhạc sĩ Trung Quốc sống giữa thời cách mạng. Âm nhạc bộc lộ những ý tưởng phản thời thế, nó giữ cho cuộc sống muôn màu, nó là giọng nói đa tầng nghĩa. Hình thái âm nhạc, xét theo phương diện cấu trúc, đặt ra câu hỏi làm sao để sự thay đổi mang tính cách mạng có thể sản sinh ra giữa vòng tuần hoàn cũ mèm của những việc đã xảy ra? Làm sao để ta mở lòng mình chào đón những bước nhảy đột phá mà không phá hủy tổng quan?

“Âm nhạc bộc lộ những ý tưởng phản thời thế, nó giữ cho cuộc sống muôn màu, nó là giọng nói đa tầng nghĩa.”

DC: Trong đoạn gần mở đầu Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, khi Marie nghe Bản Sonata số 4 cho piano và violin của Bach, cô đã mô tả: “Thuật đối âm giữ nhà soạn nhạc, nhạc công, thậm chí cả thinh không ở cùng với nhau; còn âm nhạc, với những làn sóng xoắn ốc giữa khổ đau và hân hoan, là tất cả những gì tôi còn nhớ”. Tôi bị ấn tượng bởi, dù vô tình hay cố ý, trải nghiệm nghe nhạc của Marie luôn gắn bó chặt chẽ với những hồi tưởng của cô về cuộc đời của cha mình.

MT: Vô tình là từ hoàn toàn chính xác. Những gì cô ấy nghe thấy, tức âm nhạc, thứ nghệ thuật trừu tượng này, chứa đựng những mâu thuẫn – những điều cô ấy biết và không biết, những điều cô ấy đồng thời yêu thương và chối bỏ, cô ấy là ai và không thể chẳng trở thành ai – trôi qua trong đúng một giây phút. Trong khi đó, ngôn ngữ lại tuyến tính. Đôi khi tôi nghĩ thử nghiệm trong nghệ thuật kể chuyện phần nào đó thách thức sự tuyến tính của ngôn ngữ, mãnh liệt hơn là sự tuyến tính của thời gian. Hình tượng, mô-típ, cộng hưởng, vọng âm, và những gì Mikhail Bakhtin gọi là giọng-nước đôi3, tất cả làm bóp méo những giá trị bề mặt phẳng lặng và chồng chéo các ý tưởng khác nhau trong khi vẫn giữ được mọi thứ rõ ràng. Việc này giống như gấp tờ giấy phẳng phiu để tạo ra nhiều chiều hơn.

DC: Trong một dịp phỏng vấn và giao lưu đọc sách gần đây, chị đã gợi ý ngắn gọn rằng kết cấu của Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền dựa trên Bản giao hưởng Goldberg Variations của Glenn Gould. Ý của chị lúc đó là gì?

MT: Goldberg Variations bắt đầu với một giai điệu rất đơn giản, theo sau bởi ba mươi biến tấu và đối âm dựa trên mô-típ cho điệu nhạc cơ bản, cuối cùng kết thúc bằng các điệp khúc. Khi ta trở ngược lại từ đầu, ta đã đi xuyên qua nhiều thế giới. Cứ như thể Bach đang nói với chúng ta, khởi đầu và kết thúc, sinh và tử đưa chúng ta trở lại cùng một nơi, nhưng ở giữa là những biến thể phi thường của niềm vui và nỗi buồn cùng nhiều trạng thái mà ta chẳng thể gọi tên. Âm nhạc là cả sự cụ thể (sóng âm) lẫn phù du (ký ức, cảm xúc), nó đồng thời gợi lên sự cụ thể và phù du trong chúng ta.

Tôi muốn sử dụng mô hình của Bach và những cảm quan chuyển động của ông để viết một cuốn tiểu thuyết đã biết được khởi đầu và kết thúc (được lịch sử ghi lại), nhưng vẫn tự do trong cách hiểu câu chuyện. Mọi việc vẫn lặp lại, nhưng bạn không thể dự đoán trước được điều gì. Lịch sử vẫn quen thuộc: khát vọng hướng tới utopia4, cách mạng, những cơ chế hủy diệt khoác lớp vỏ sáng tạo (để kiến tạo thế giới mới, chúng ta phải hủy diệt cái cũ, hoặc những slogan kiểu: “nếu cái đẹp chống lại cái xấu, hãy chọn cái xấu”, v.v) và ngược lại. 

Tôi nghĩ tới mô tả của Italo Calvino về thành phố vô hình Berenice, thành phố bất công, nơi đồng thời chứa một Berenice khác, thành phố công bằng. Chúng liên tục chuyển hóa lẫn nhau, cái này nằm trong cái kia, vô cùng tận. Hạt mầm cái ác mãi mãi bén rễ bên trong cái thiện; tình yêu công lý đâm chồi mỗi khi bị đốn hạ.

“Hạt mầm cái ác mãi mãi bén rễ bên trong cái thiện; tình yêu công lý đâm chồi mỗi khi bị đốn hạ.”

DC: Khi đề cập đến Cách mạng Văn hóa và sự kiện Thiên An Môn, Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đại diện cho các sự kiện mang tính toàn cầu. Nhưng đồng thời, thành công lớn của cuốn sách cũng nằm ở việc gợi mở đời sống phong phú thường ngày và xúc cảm thân mật duy trì xuyên suốt tiểu thuyết. Chị đã viết cuốn sách phức tạp này như thế nào, bởi thực tế chị có thể được coi là một nhà văn Canada, là “người phương Tây”, hay “người Trung Quốc tha hương”. Giống như nhân vật Marie trong tiểu thuyết của mình, chị dường như sinh sống trong một nền văn hóa và xã hội tách biệt với Trung Quốc đương đại.

MT: Anh nói đúng rồi, David. Thật là phức tạp. Tôi thực sự bị cách li về mặt văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng đồng thời, giữa tôi và nền văn hóa Trung Hoa có sự thân thuộc trẻ thơ (nhiều năm học thư pháp, lớp múa truyền thống, phim truyền hình Hồng Kông những năm 80, gia đình, v.v). Tôi luôn cảm thấy tuy lịch sử có vẻ xa xăm (Cambodia, Indonesia, Chile, Ghana, Iraq, liên tu bất tận), trên thực tế nó phơi bày chính chúng ta. Chúng là những câu chuyện liên quan đến ta mà ta cố quên.

Tôi nghĩ, cho dù tôi viết ra thứ gì đó gần gũi hay xa lạ, tôi luôn tự vấn về những gì tôi cho rằng mình biết. Những giả thuyết về thế giới chiếm phần lớn không gian não bộ của ta. Kiến thức có sẵn có thể che mù chuyện xảy ra trước mắt. Đó là niềm vui và cũng là thách thức lớn khi tôi viết Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền. Tôi không phải nhạc sĩ, tôi không sống thời Cách mạng Văn hóa, và tôi xem những cuộc biểu tình ở Thiên An Môn năm 1989 trên truyền hình. Tôi bắt đầu từ chỗ biết rất ít, nhưng tôi tin rằng sự chu đáo, sáng tạo cùng kỷ luật bằng cách nào đó sẽ mang cả thế giới phức tạp vào trong tầm nhìn của tôi. Có lẽ khát khao nghệ thuật chính là làm cho cái gì đó trở nên sống động. Nghệ thuật có quá nhiều khuôn phép, thậm chí khó chịu, và lại ràng buộc cùng tự do.

Ảnh: Nhà Sách Phương Nam Nguyễn Văn Bình, TP. HCM

DC: Tôi cho rằng chị không quan tâm lắm đến những người có thể đe dọa kiểm duyệt hay những hậu quả nghiêm trọng vì những gì chị viết.

MT: Đúng, rất đúng. Có hàng tá chủ đề nhạy cảm tại Trung Quốc, các nhà văn phải quyết định họ sẽ sáng tạo ra sao trong tình cảnh như vậy. Và kết quả thật mê hoặc, đầy đủ từ giả tưởng đến ngụ ngôn rồi tất cả mọi thứ ở giữa, kể cả siêu-ảo5, thể loại mà Ning Ken gọi là “chaohuan”.

Tôi luôn nghĩ đến việc chúng ta sử dụng sự tự do của mình như thế nào, và dùng nó ít ỏi ra sao. Ở Bắc Mỹ, nhận thức khán giả, văn hóa xuất bản, tiền tài, giải thưởng, chương trình MFA6, hội nhóm và xu hướng, v.v, tất cả đều định hình nền văn học và quyết định của tác giả. Bắc Mỹ thật lạ bởi giới nghệ sĩ dễ dàng cảm thấy họ cần phải áp đặt giới hạn cho chính mình. Thỉnh thoảng điều khó nhận thấy nhất là khi chúng ta lựa chọn gói gọn mình trong khoảng không gian bó hẹp, mà Doris Lessing gọi là nhà tù tự thân.

DC: Trong tiểu thuyết Dogs at the Perimeter, nhân vật Janie tiến hành tổ chức sắp xếp và giải thích các “tháp nghiên cứu chứa những ghi chú, đoạn trích, bản sao phỏng vấn hay những bản thu âm” của việc ban hành tội diệt chủng do Khmer Đỏ ủy quyền và lưu giữ. Công việc của Janie khiến tôi nghĩ rằng phải chăng các nhà văn luôn tìm cách lí giải tận cùng những sự kiện thảm khốc như Holocaust7 hay Transalantic Slavery8 để rồi đối mặt với văn khố khủng khiếp do những kẻ bạo tàn tạo ra.  

Tuy nhiên, trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, Marie dựng nên một “kho lưu trữ” rất khác biệt. Cô ấy thừa hưởng từ cha mình một loạt sổ tay đề Những Bản Ghi, hóa ra là một mớ lộn xộn và gần như là “tiểu thuyết” vô hình. Nó thực sự là kho tàng chứa đựng những huyền thoại, lịch sử, trải nghiệm chép tay ngày càng dài ra sau mỗi lần đổi chủ. Thông qua Những Bản Ghi, Marie đủ sức chắp nối cuộc đời cha cô cùng lịch sử Trung Quốc hiện đại. Chị có thể chia sẻ một chút về bước ngoặt này không, khi mà cuốn tiểu thuyết chuyển từ bạo lực in hằn trên thư khố sang những mảnh đời được sinh ra từ ghi chép vụn vặt?

MT: Đó là điểm mấu chốt, khi những kẻ chiến thắng hay kẻ thủ ác thường lưu giữ những bản ghi như là chứng cứ của tài năng và sức mạnh, thậm chí là quyền định đoạt số phận con người. Bọn chúng mưu toan định hình lại thế giới. Văn thư có thể mở và đóng, tạo cho người giữ nó ảo giác họ kiểm soát được khởi đầu lẫn kết thúc câu chuyện. Và rằng họ chính là thượng đế, nắm giữ dòng chảy thời gian.

Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đưa ra lập luận: tất cả chúng ta đều là tác giả. Tiểu thuyết, thơ ca, hình ảnh, bản sao sự vật, khổ nhạc, bản thu âm, tất tần tật, đóng vai trò bản ghi không chính thức, một bản ghi lộn xộn, rộng mở và hỗn độn tựa dòng sông. Không ai định được mở đầu hay kết thúc. Những Bản Ghi không ngừng mở ra nhiều biến thế, mãi mãi dang dở chẳng tìm thấy tác giả đích thực. Đối với độc giả, họ sẽ chẳng thể hiểu nó là tấm gương soi ngược quá khứ hay là ảnh tượng của một tương lai đang tới gần. Độc giả cũng chẳng biết nó là chuyện bịa hay lịch sử. Tất cả mọi điều họ biết là Những Bản Ghi đã cầm giữ họ, và họ chẳng thể quên được. Nó đã trở thành họ.

DC: Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền được tạo ra bởi phụ nữ cũng như kể về họ. Tuy câu chuyện liên quan đến nỗ lực “tìm” cha của Marie, nó được trần thuật qua giọng kể của cô và kết nối bằng tình bạn với người phụ nữ ở Vancouver tên là Ai-Ming. Hơn nữa, cuốn tiểu thuyết cẩn trọng ghi lại cuộc sống của những thế hệ phụ nữ trước đó, tỉ như người dì và người bà vĩ đại của Ai-Ming (Swirl và Đại Dao Mẫu), đặc biệt là con gái của Đại Dao Mẫu, Zhuli – cô trở thành nghệ sĩ vĩ cầm tài giỏi. Chị đã bao giờ có ý định lên đường khám phá đồng thời lan tỏa những số phận phức tạp của phụ nữ Trung Quốc trong cuộc cách mạng hay chưa?

MT: Tôi nghĩ ban đầu mình không có ý định đó, nhưng đó lại là cách tôi trải nghiệm thế giới. Khi nói về các nhân vật của tôi, họ gần như hoàn toàn là chính họ, cả đàn ông lẫn phụ nữ. Họ bước vào thế giới với khí khái mạnh mẽ, đặc biệt trường hợp của Đại Dao Mẫu, đó là cái tôi cá nhân chống lại cái tôi xã hội. Đó là điều mà ta thường gọi là con người chống đối xã hội. Tôi cho rằng anh đã hiểu đúng. Trong tiểu thuyết này, vì nhiều lý do mà Kai và Chim Sẻ đã chấp nhận hoặc thỏa hiệp hoặc từ bỏ cái tôi của mình, còn Đại Dao Mẫu, Swirl hay Zhuli cự tuyệt điều đó. Họ tinh khôi từ tận bên trong, và ít khi ảo tưởng.

DC: Cuốn tiểu thuyết của chị mang đến cái nhìn thoáng qua về hàng triệu sinh mạng bị tước đoạt bởi nạn đói tàn khốc Đại Nhảy Vọt tạo ra, cũng như những mạng sống đánh mất trong Cách mạng Văn hóa và sự kiện Thiên An Môn. Tuy vậy, phần ám ảnh nhất trong câu chuyện không chỉ là việc chối bỏ bản thân mà còn phải tạo ra cái tôi mới dưới sự kiểm soát của nhà nước. Tôi nghĩ ở điểm này cuốn sách khắc họa những mật nghị căng thẳng, những phiên đấu tố, và không thể thiếu những cá nhân như người cha Jiang Kai của Marie – tái hiện thông qua lời tự thú bị ép buộc cùng thứ nghi thức mệt mỏi “tự phê bình”.

MT: Vâng, con người mới. Một xã hội tân thời cùng một Trung Quốc hiện đại sinh ra từ bạo lực cách mạng. Vậy câu hỏi có thể đặt ra là xã hội cũ biến đi đâu? Câu trả lời là có lẽ nó đã nhập vào vào bên trong con người: thành như ký ức, như hệ giá trị xưa cũ hay lòng kiên trung chẳng bật thành lời. Vậy nên mỗi người phải tự gột sạch chính mình thông qua tự phê bình cùng các phiên đấu tố. Anh đã đưa ra một nhận định đau buồn và chính xác rằng nhà nước kiếm soát cái tôi cá nhân, rằng cái tôi đó bị đem đi phục vụ nhà nước, Đảng và ý thức hệ. Đó là chế độ quân phiệt, chẳng khác gì việc tạo ra binh sĩ hay người tiêu dùng, đó là cách chúng ta khống chế suy nghĩ để lợi dụng thể chất và tinh thần của cá nhân. Cái ý tưởng rằng chính phủ có thể chiếm hữu cái tôi và thể xác của cá nhân có vẻ không thể bị tiêu diệt, nhưng ta phải cố tiêu diệt nó.

“Cái ý tưởng rằng chính phủ có thể chiếm hữu cái tôi và thể xác của cá nhân có vẻ không thể tiêu diệt, nhưng ta phải cố tiêu diệt nó.”

DC: Khi Marie đọc lời tự phê bình của cha, cô ấy diễn tả cái cách mình “lướt xuyên qua nhiều cái tôi mà ông ấy cố hình thành, cái tôi bị ruồng bỏ và được tái tạo, cái tôi muốn tan biến nhưng không thể”. Tôi tự hỏi liệu có mối liên hệ nào ở đây với hình thức cũng như giọng kể trong tiểu thuyết của chị. Mặc dù Marie là người duy nhất lên tiếng trong câu chuyện, nhưng những gì độc giả chúng tôi bắt gặp lại là một lượng đáng kinh ngạc các quan điểm cùng nhân vật nổi trội tại nhiều thời điểm và bối cảnh. Câu chuyện khởi đầu với chỉ một giọng kể về người cha đã mất sau cùng vỡ thành vô vàn lăng kính của cái tôi.

MT: Đẹp thật đấy, David. Tôi cho rằng mỗi nhân vật là một ô cửa hay cổng vào, một loạt cánh cửa dẫn người đọc bước qua. Với tôi, Marie là người bảo tồn những bản ghi. Nói về hồ sơ Thiên An Môn – tập hợp các tài liệu bí mật được tuồn ra khỏi Trung Quốc, ghi lại phản ứng từng ngày từng giờ của chính phủ trước các cuộc biểu tình tại Thiên An Môn – những phần tử vô danh thu thập chúng được gọi là “Người Biên dịch”. Marie là loại người như thế. Cô chưa bao giờ chấp nhận cha mình tự sát. Nhưng chuyện cô kể chẳng phải chuyện cha cô, càng không phải tiểu sử. Thay vào đó cô kể câu chuyện về những người ông ấy quý mến – Chim Sẻ cùng Zhuli – và tôi đồ rằng cô kể như vậy để nhắc bản thân luôn nhớ tới khả năng yêu thương vô bờ bến của người cha. Hệ quả của tình yêu là trên thực tế câu chuyện đã chuyển dịch vì nó mang Ai-Ming (con gái Chim Sẻ, rời Trung Quốc sau cuộc biểu tình năm 1989) bước vào đời cô. Tôi thích cách anh dùng từ lăng kính.

DC: Chiến thắng giải Giller của chị diễn ra ngay trước ngày kết thúc cuộc bầu cử sôi động và đầy lo âu của nước Mỹ. Nhiều người lo ngại đến tương lai nền dân chủ Mỹ. Marie tuyên bố ở gần cuối tiểu thuyết một dòng thế này: “Cuối cùng, tôi tin những trang này cùng Những Bản Ghi đáp lại ước ao kiên định của chúng ta: hiểu về thời đại mà ta đang sống”. Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền giúp ta hiểu hiện thời như thế nào?

MT: Tôi nghĩ cuốn sách giúp ta hiểu hiện thời theo lối khó đi. Thông qua việc dõi theo từng li từng tí các chiến dịch chính trị tại Trung Quốc, mà trước tiên là tạo ra những tình trạng theo đó bất cứ ai cũng có thể bị coi là kẻ thù của nhân dân; kế tiếp thiết lập giọng điệu và ngôn ngữ phù hợp với diễn văn chính trị. Với tôi, khi bài diễn văn trở nên chói tai, khi chỉ có hét lên mới nghe được thì có nghĩa chúng ta đang trong thời điểm nguy hiểm. Đồng nghĩa với việc tất cả chúng ta chỉ được chọn một quan điểm cực đoan và sự va chạm giữa các giá trị cực đoan dẫn tới bạo lực. Cuộc bầu cử ở Mỹ chứng minh hết lần này tới lần khác, người ta sử dụng “chúng tôi” hay “họ” và chúng tôi/họ đổi chỗ tùy thuộc ai được nhắc tới trong diễn văn. Đó là ham muốn thuần túy của con người. Cả hai thái cực cực đoan đều không chấp nhận hồ nghi, tiết chế hay hòa nhập. Cực đoan sẽ dẫn đến yêu cầu thanh lọc. Sự thanh lọc sau cùng ăn sâu vào máu bất kể chủng tộc, đẳng cấp. Tình trạng này làm cho các chiến dịch chính trị ở Trung Quốc càng thêm bạo tàn, do chúng là công cụ thanh lọc.

Đọc trích đăng chương 1 tại đây

DC: Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền là chiến thắng phi thường của nghiệp viết, tôi biết nhiều người sẽ đọc rồi luận bàn nó những năm sắp tới. Tuy vậy, tôi tự hỏi liệu tôi có nên kết thúc cuộc phỏng vấn bằng việc đề cập đến cuốn tiểu thuyết trước đó của chị, Dogs at the Perimeter, tôi mừng khi nghe dự kiến nó sẽ sớm được Norton xuất bản ở Mỹ. Phải chăng lúc viết Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đã giúp chị rõ hơn về các dự định cũng như định khu chính trị trong cuốn tiểu thuyết trước?

MT: Tôi thích câu hỏi này, nhưng thật khó nhìn lại những cuốn sách theo lối trừu tượng rồi đi nói về dự định. Chúng là cách tôi nhận thức và do đó là cách tôi sống. Tôi luôn luôn có nhiều câu hỏi. Khi sống sót sau các sự kiện thảm khốc, bản năng con người tôi là nhìn về phía sau để xem lại khoảnh khắc đỉnh điểm của chuyện đã xảy ra, để thấy con đường tôi đi trông ra làm sao. Tại sao ta chọn cái này mà không phải cái kia? Điều gì làm ta tin tưởng, điều gì làm ta mù quáng? Tư duy cho phép ta xuyên ngược qua từng ô cửa để hồi tưởng lại mỗi dấu chân của mình, và từ sự am hiểu đó ta hình dung ra cuộc sống tiếp diễn thế nào. Để mà sống tốt hơn. Tôi nghĩ Dogs at the Perimeter là cuốn sách định hình con người tôi, bởi câu chuyện thật cam go và là nhiệm vụ bất khả thi. Tôi đặt niềm tin vào cuốn tiểu thuyết ấy, vì nó tựa hòn đá nhỏ xíu chìm trong đại dương.

Hết.

3V dịch.

Bản gốc được thực hiện bởi David Chariandy, đăng tại Literary Hub

Ảnh đầu bài: Lithub.com

Chú thích:

David Chariandy sống tại Vancouver và là giảng viên Anh ngữ tại đại học Simon Fraser. Tiểu thuyết đầu tay của ông mang tên Soucouyant xuất bản quốc tế rộng rãi đồng thời được đề cử 11 giải thưởng và danh hiệu.

  1. Trong bài viết gốc ghi là Do Not Say We Have Nothing nên người dịch giữ nguyên kiểu viết hoa các chữ cái đầu.
  2. Tẩu pháp (fugue) là tiến trình nhạc Phức điệu trong đó một chủ đề được trình bày lúc ban đầu bằng mối tương quan chủ âm/át âm, sau đó được khai triển bằng kỹ thuật Đối âm. Thuật ngữ Tẩu pháp còn ám chỉ một tác phẩm âm nhạc nhiều chương (tương tự như thuật ngữ Sonata) có cấu trúc chặt chẽ, với quá trình sáng tác có tính cách luận lý (logic) (theo wikipedia). Ở đây ý của ban giám khảo có lẽ muốn nói cuốn tiểu thuyết giống như một bản nhạc.
  3. Nguyên bản là double-voicedness.
  4. Từ mô tả xã hội không tưởng, hay vườn địa đàng trần gian được Thomas More sử dụng đầu tiên.
  5. Nguyên bản là ultra-unreal.
  6. Master of Fine Arts – Thạc sĩ Mỹ Thuật.
  7. Nạn diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc xã.
  8. Buôn bán nô lệ từ châu Phi xuyên Đại Tây Dương sang châu Mỹ ở thời kỳ đầu chủ nghĩa thực dân.

Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Chuyện người cầm bút

Nguyễn Hoàng Mai: “Sứ đoàn Iwakura” là duyên lành của tôi với Phương Nam Book

Khi dịch sách, tôi đã học hỏi được nhiều về sự dẫn dắt, sắp xếp bố cục logic của Ian Nish – một chuyên gia, nhà nghiên cứu lịch sử người Anh – người đã dành phần lớn cuộc đời mình để cống hiến cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao của Nhật Bản.

Published

on

By

Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm nghiên cứu về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị dưới góc nhìn của người phương Tây. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Sứ đoàn Iwakura, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Hoàng Mai – đồng dịch giả của quyển sách.  

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm dịch thuật đầu tiên của Nguyễn Hoàng Mai được Phương Nam Book xuất bản.

Những tác phẩm văn học của Nguyễn Hoàng Mai thường có chủ đề tập trung vào nỗi cô đơn, tình yêu, suy tư về cuộc đời của người trẻ; vậy nguyên nhân nào khiến bạn quyết định dịch tác phẩm Sứ đoàn Iwakura do học giả Ian Nish biên soạn – đặc biệt là khi tác phẩm sử học này lại có sự khác biệt khá xa với chủ đề bạn thường sáng tác trong văn học?

Năm 2018, tôi vẫn là nghiên cứu sinh thuộc trường Đại học Soka (Soka University, Tokyo, Nhật Bản) khi đó vừa hoàn thành xong tập truyện mới, đang trong giai đoạn “giải lao”. Thời điểm ấy, tôi đã may mắn được một biên tập viên của Phương Nam Book mời tham gia dịch thử những cuốn sách sẽ ra mắt trong đợt kỷ niệm Minh Trị Duy Tân 150 năm.

Trong những cuốn sách tôi được giới thiệu, có tác phẩm Sứ đoàn Iwakura do học giả Ian Nish biên soạn. Thật trùng hợp, tôi cũng đang nghiên cứu về văn học thời kỳ Minh Trị, có tìm hiểu về Sứ đoàn Iwakura. Về chuyến đi lịch sử này, vốn được xem như dấu mốc quan trọng trong công cuộc Duy Tân Minh Trị, thường được ví như chuyến du hành của Columbus hay “Tây du ký” thời hiện đại để tìm hiểu, quan sát thế giới mới. Những nhà tri thức tiêu biểu thời Minh Trị đã vượt biển ra đi với sứ mệnh vẽ nên Nhật Bản, cùng vận mệnh Châu Á tương lai. Sau khi tìm hiểu, tham khảo ý kiến từ các giáo sư ở trường đang học, tôi càng chắc hơn về những giá trị đặc biệt cuốn sách sẽ mang lại cho độc giả Việt Nam.

Là một người viết trẻ, tôi vẫn đi trên con đường sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn hư cấu riêng. Nhưng thời điểm ấy, với những lý do như vậy, tôi đã cố gắng để không bỏ lỡ “duyên lành” được góp phần chuyển ngữ cuốn sách đặc biệt như thế.

Hoàng Mai dịch Sứ đoàn Iwakura từ tiếng Anh hay tiếng Nhật? Mai có thể chia sẻ một chút về quá trình dịch và hoàn thành cuốn sách để độc giả hiểu hơn được không?

Sứ đoàn Iwakura dịch từ nguyên tác tiếng Anh The Iwakura Mission in America & Europe: A New Assessment của học giả người Anh Ian Nish, với đóng góp của các học giả khác. Tôi cùng Nguyên Tâm chuyển ngữ từ tiếng Anh, đồng thời tham khảo các nguồn tài liệu từ tiếng Nhật. Trong quá trình dịch, đôi lúc tôi gặp khó khăn, thiếu tự tin, bởi những từ ngữ mang tính học thuật, khi đó tôi đã cố gắng đối chiếu giữa cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Nhật, tham khảo thêm lời giải đáp từ những giáo sư trong trường, cũng như tham khảo thêm tài liệu từ những nguồn khác để tìm được cách dịch phù hợp. Tôi và đồng dịch giả đã trao đổi, thống nhất những thuật ngữ, để bảo đảm nội dung cuốn sách được mạch lạc.

Vì dịch covid, việc ra mắt sách chậm đến 3 năm nhưng cũng vừa hay đúng vào dịp Nhật Bản –  Việt Nam kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao và 150 năm chuyến đi của Sứ đoàn Iwakura. Trộm nghĩ, cũng giống như cái duyên, cái kết đẹp cho quá trình cố gắng nỗ lực của nhiều người tâm huyết với lịch sử thời Minh Trị vậy. Qua đây tôi cũng cảm ơn các biên tập viên giàu kinh nghiệm của Phương Nam Book, đặc biệt là anh Huỳnh Duy Lộc, đã góp phần đưa cuốn sách đến tay bạn đọc một cách chỉn chu nhất.

Sau khi dịch Sứ đoàn Iwakura, với những hiểu biết cặn kẽ hơn về thời Minh Trị, Mai có hứng thú sáng tác thể loại văn học dã sử nói chung, cũng như về thời Minh Trị nói riêng không?

Tôi thích lịch sử Nhật Bản cũng như lịch sử Việt Nam, thế giới nói chung. Nghiên cứu về lịch sử là tìm về những bài học, những giá trị phục vụ cho hiện tại, vẽ nên tương lai.

Lịch sử nước Nhật nói chung và lịch sử thời Minh Trị nói riêng còn nhiều điều để lật lại, để khai thác. Lịch sử Việt Nam cũng có những câu chuyện rất hay. Từ nhỏ, tôi đã thích những câu chuyện dã sử có đan xen những yếu tố huyền ảo, không chỉ về tình yêu mà còn mang lại ý nghĩa thời đại sâu sắc. Sau khi dịch cuốn Sứ đoàn Iwakura, tôi vẫn suy nghĩ, tìm hiểu về đề tài ấy.

Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm đầu tiên mà Mai thực hiện công việc chuyển ngữ sau một thời gian dài sáng tác văn học. Từ việc dịch, bạn có suy tư gì về việc viết trong quá trình làm việc với tác phẩm này không? 

Tôi nghĩ, sáng tác văn học là một công việc cô đơn, cần sự đào sâu vào bản ngã, thế giới của chính mình, còn làm một dịch giả thì không thể thỏa mãn bản ngã của người dịch mà cần sự chuẩn xác, tính cẩn trọng cao. Tuy nhiên, viết văn, dịch sách lại gặp nhau ở điểm chung: cần sự uyển chuyển trong câu từ tiếng Việt. Để có được điều này, dịch giả phải không ngừng học hỏi, bổ sung vốn từ vựng, trong quá trình chuyển ngữ phải lựa chọn được những từ ngữ sao cho phù hợp nhất.

Khi dịch sách, tôi đã học hỏi được nhiều về sự dẫn dắt, sắp xếp bố cục logic của Ian Nish – một chuyên gia, nhà nghiên cứu lịch sử người Anh – người đã dành phần lớn cuộc đời mình để cống hiến cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao của Nhật Bản.

Thời gian tới, Mai có dự định tiếp tục dịch sách không? Mai có thể chia sẻ những dự định sắp tới của mình trên con đường viết lách?

Sau khi thử sức với đề tài nghiên cứu lịch sử, thì tiếp theo tôi mong muốn được dịch những cuốn sách thể loại sở trường của mình là: tiểu thuyết, truyện ngắn, mong được giới thiệu những tác phẩm đoạt giải thưởng uy tín của văn học Nhật như giải Akutagawa, Naoki… đến với độc giả.

Tôi cũng đang trong quá trình tự trau dồi vốn ngoại ngữ, tiếp thu nhiều nguồn tác phẩm, tư liệu văn học nước ngoài để có thể viết những cuốn sách hay nhất trong khả năng mình. Hiện tại tôi đang viết một cuốn sách với chủ đề âm nhạc đường phố cùng với một người bạn thuộc thế hệ Gen Z cũng là ca sĩ nhạc sĩ, và một cuốn sách về chữa lành tâm trí. Hy vọng những dự án này sẽ hoàn thành tốt đẹp, có duyên được ra mắt bạn đọc trong thời gian tới.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn sẽ phát triển hơn nữa trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Jon Fosse: “Bản thân văn học biết nhiều thứ hơn lý thuyết văn học”

Published

on

By

Jon Fosse

Jon Fosse, 64 tuổi, đã trở thành chủ nhân mới nhất của giải Nobel Văn chương vì “những vở kịch và các áng văn giúp cất lên tiếng nói cho những điều không thể nói ra”. Cuộc phỏng vấn sau đây được đăng trên The New Yorker vào năm 2022, xoay quanh các cuốn tiểu thuyết, những tác phẩm kịch và công việc dịch thuật của nhà văn người Na Uy.

Giải Nobel Văn học 2023 đã được trao cho nhà văn người Na Uy Jon Fosse.

Dễ thấy yếu tố tôn giáo tràn ngập trong các tác phẩm của ông. Điều đó và văn học đã gặp được nhau như thế nào?

Tôi đã có một bước ngoặt lớn trong cuộc đời mình liên quan đến việc bước vào những điều chưa thể biết trước. Tôi là người vô thần, nhưng tôi không thể giải thích điều gì xảy ra khi mà tôi viết, hoặc là điều gì khiến nó xảy ra, nó đến từ đâu? Tôi không thể biết. Ta luôn có thể giải thích não bộ một cách khoa học, nhưng lại bất khả để hiểu động cơ, tinh thần của nó. Đó là một cái gì đó khác. Bản thân văn học biết nhiều thứ hơn lý thuyết văn học.

Asle trong bộ 7 cuốn Septology của tôi cũng nghĩ điều tương tự thế về Chúa: “Bởi vì Chúa vừa là sự vắng mặt rất xa, vâng, là thế đấy, và, vừa là một sự hiện diện rất gần.”

Ngay cả khi Septology hoàn toàn không phải tự truyện, thì vẫn có những suy nghĩ cũng như đặc điểm giống hệt với tôi, chẳng hạn như là vẻ ngoài với tóc hoa râm. Tôi quyết định biến nó thành tự truyện bằng cách làm cho Asle trông giống như tôi, để trước là phù hợp hơn với thể loại này, và sau đó là viết nó theo cách thức của tôi, như một nhà văn. Nhưng có những suy nghĩ, đặc biệt là ở những phần mang tính tiểu luận, sẽ là rất gần với lối suy nghĩ của tôi. Chẳng hạn, ý tưởng cho rằng Chúa ở gần đến mức mà ta không thể trải nghiệm, nhưng Ngài cũng xa đến mức ta không nghĩ đến. 

Có sự tiếp nối với con người ông trước bước ngoặt kia không? Hay chỉ đơn thuần là sự rạn nứt?

Ồ, vâng, có sự liên tục trong các tác phẩm. Tất cả những điều mà tôi nói đến đều “ở bên ngoài”. Việc viết là một cái gì đó khác. Người viết văn trong tôi, anh ấy luôn luôn kiên định. Tôi không chắc anh ấy có tỉnh táo hay không, nhưng anh ấy vẫn luôn như thế.

Ân sủng có ý nghĩa gì với ông?

Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về khái niệm đó.

Nó quan trọng với tôi.

Và tôi cũng vậy. Đó là một khái niệm quan trọng. Đôi khi viết được, tôi coi đó như là một món quà, như một ân huệ. Tôi không xứng đáng theo cách nào đó để có được nó. Khi ta ngồi đây với nhau - tôi không cảm thấy rằng mình xứng đáng để có điều này. Cả khi những vở kịch tôi viết được đưa lên sân khấu lớn, thì mỗi một lần đều tốn rất nhiều công sức để các diễn viên phải học lời thoại, làm quen phối cảnh cũng như mọi thứ. Tôi khiến cho rất nhiều người bỏ công bỏ sức, và tôi nghĩ mình không xứng đáng với điều đó. Nó còn nhiều hơn những gì tôi xứng đáng có.

Biết viết và viết được hay đó là ân sủng. Và tôi nghĩ có lẽ cuộc sống tự nó đã là một loại ân sủng. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được những người quyết định rời bỏ cuộc đời. Đó là một nơi khủng khiếp theo rất nhiều cách. Cũng có thể coi cái chết như một ân sủng. Ở đây mọi lúc mọi nơi chắc là khủng khiếp lắm.

Các tác phẩm của Jon Fosse. Ảnh The New York Times.

Nó liên quan đến sự đau khổ?

Trong thế giới sa ngã này, theo Kitô giáo, cuộc sống là một loại quà tặng và cũng đồng thời chính là ân sủng. Nhưng rồi mọi chuyện trở nên nghịch lý. Mọi thứ đối với tôi, theo một cách nào đó, đều sẽ kết thúc trong sự nghịch lý. Và đôi khi tôi thấy mình chứa đầy những sự mâu thuẫn đến nỗi khó có thể hiểu được làm cách nào mà tôi-bên-ngoài và tôi-văn-chương có thể ở kề cạnh nhau, và trở thành một.

Ông viết rất hay về tuổi thơ. Tuổi thơ có phải là thời gian không có nghịch lý?

Tôi phải nói vì nó rất quan trọng đối với riêng tôi: lúc 7 tuổi, tôi đã cận kề cái chết trong một tai nạn. Và rồi, từ ở ngoài kia [chỉ về phía xa], tôi có thể thấy mình đang ngồi đây - tôi thấy mình như thế. Và mọi thứ đều yên bình, tôi nhìn những ngôi nhà và thấy khá chắc mình đã thấy chúng vào lần cuối cùng đi khám bác sĩ. Mọi thứ lung linh và rất yên bình, một trạng thái hạnh phúc, giống như đám mây đầy hạt ánh sáng vậy. Trải nghiệm này là quan trọng nhất trong thời thơ ấu. Và nó đã tạo nên tôi với tư cách là một con người, có cả mặt tốt cũng như mặt xấu, và cũng đã tạo ra tôi như một nghệ sĩ.

Đầu tiên tôi đọc tất cả tiểu thuyết của ông, sau đó tôi đọc tất cả các vở kịch của ông. Và điều thú vị với tôi về các vở kịch là chúng thường miêu tả những cảnh ghen tuông một cách dồn nén và rất đau đớn. Điều này lại ít thấy hơn trong các tiểu thuyết. Vì sao lại thế?

Chủ đề hay nhất cho một vở kịch là sự ghen tuông. Đó là “chuyện thường ngày ở huyện” đã có từ thời cổ đại: chỉ đặt 2 người lên trên sân khấu và rồi để người thứ ba bước vào. Sau đó bạn sẽ có được kịch tính ngay lập tức. Thậm chí có thể tạo ra chỉ giữa 2 người, như tôi đã làm trong một số vở kịch của mình.

Đó là một điều khá đau đớn đối với tôi khi đọc.

Vâng, nó hơi giống Tennessee Williams [1] Nhưng đó cũng là lý do vì sao tôi thấy mệt mỏi với việc viết kịch - bởi nó dễ dàng tạo ra cảm giác ghen tuông. Khi tồn tại thứ ấy, tôi thường nghĩ rằng, theo ngôn ngữ thầm lặng của vở kịch, sẽ có cái chết.

Với ông loại tình yêu nào thì đáng tin cậy trong một thế giới sa ngã?

Tôi nghĩ là các vở kịch đều đang nói điều gì đó về tình yêu. Không phải tôi biết câu trả lời đâu. Nhưng tôi cảm giác những gì tôi viết đều đúng ở khía cạnh nào đó. Đó không phải chủ nghĩa hiện thực, và cũng không phải hoàn toàn chỉ là hư cấu.

Và đó là cách mà tôi có thể đưa ra câu trả lời khôn ngoan. Trong sáng tạo của tôi. Chúng khôn ngoan hơn và biết nhiều hơn người viết ra nó đứng dưới tư cách của một con người. Nó lớn hơn thế. Tôi nghĩ đó là món quà của mọi nền văn học vĩ đại. Đối với tôi, tình yêu là thứ gì đó vô cùng độc đáo, nhưng lại đồng thời cũng rất phổ quát. Nhưng để biến sự độc đáo của tình yêu thành văn học đích thực, cần phải tạo ra một cái gì đó xứng đáng hơn.

Mối quan hệ giữa kịch và tiểu thuyết của ông đôi khi là về nhịp điệu - một sự xen lẫn âm thanh rất có chủ ý, ngắt quãng giữa lời nói và suy nghĩ?

Đúng rồi. Theo một cách nào đó, tất cả đều là về nhịp điệu, ngay cả trong một bức tranh. Có nhịp điệu giữa các yếu tố hoặc mối quan hệ giữa chúng. Nhịp điệu thì rất dễ nói, nhưng lại rất khó để biết chính xác nó là cái gì hoặc đang làm gì. Tất cả những khái niệm này - như sự duyên dáng, tình yêu, nhịp điệu - chúng rất dễ dùng nhưng lại khó hiểu theo cách thực tế. Nhưng nó cũng rất hiển nhiên có mặt ở đó. Khi có nhịp điệu, bạn biết điều đó. Khi có tình yêu, bạn cảm nhận được. Và đối với tôi, cả Chúa cũng vậy. Tôi khá chắc Chúa cũng hiện diện. Tuy nhiên, tôi thường không thấy như vậy.

Được biết ông đang dịch cuốn The Plains của Gerald Murnane[2]?

Tôi không biết làm sao mà tôi lại đọc Murnane. Trước đây ông chưa từng được dịch sang tiếng Na Uy. Tôi đã đọc về ông ở đâu đó và cảm thấy ông là một nhà văn thú vị. The Plains là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và được dịch nhiều nhất của Murnane. Nó cũng đã được dịch sang tiếng Thụy Điển và tiếng Đan Mạch. Về văn học, tôi có thể đọc tiếng Đức và tiếng Anh, nhưng tôi thích đọc bằng tiếng Scandinavi hơn. Vì vậy, tôi đã đọc nó bằng tiếng Thụy Điển và tôi thực sự thấy thích. Sau đó tôi đã quyết định tự chuyển ngữ nó.

Biết rằng ông đang dịch Murnane làm tôi nhớ đến cây vĩ cầm Hardanger[3], với hai lớp dây nằm song song nhau. Có vẻ như ông và Murnane có chung một số suy nghĩ?

Đó là một hình tượng đẹp. Thật hiếm khi gặp được một giọng văn có ý nghĩa. Nó giống như là tình bạn mới vậy, và không xảy ra một cách thường xuyên.

Làm thế nào để ông dịch The Plains sang tiếng Nynorsk[4]?

Tôi sống ở Áo, nơi có phong cảnh bằng phẳng rộng lớn được gọi là Đồng bằng Pannonia. Nó trông hơi giống phong cảnh nước Úc.

Tôi cảm thấy Murnane có giọng văn và cách nhìn khá độc đáo. Tôi chưa bao giờ đọc bất cứ thứ gì như cuốn sách này, nhưng nó giống với văn bản của tôi - cảm giác xa cách nhưng cũng gần gũi. Chúng tôi đang viết theo những cách khác nhau, nhưng có thể nói có một cách nhìn tương tự ẩn đằng sau nó.

Có lẽ là tính kỷ luật hoặc sự tập trung?

Khi tôi viết, mọi thứ cần phải chính xác cũng như chuẩn xác. Tôi không chấp nhận ngay cả nếu sai dấu phẩy. Tôi biết điều đó. Nếu tôi thay đổi điều gì đó ở trang 4, thì tôi sẽ phải thay đổi thêm điều gì khác ở nơi nào khác. Tôi không biết mình có thể tạo ra bao nhiêu mối liên hệ như vậy. Khi bước vào một vũ trụ theo một cách nào đó, bạn đã tách ra khỏi thế giới thực. Khi bạn tạo nên vũ trụ của mình, thì nó sẽ không còn là của bạn.

Có một logic nào đó trong điều đó ư?

Với tư cách là một nhà văn, tôi thấy nó rất cần thiết - một việc phải làm chính xác hoặc như thế này hoặc thế kia. Là một độc giả, khi đọc, bạn sẽ thấy nó logic.

Tôi có thể nói rằng viết mà không cần thiết thì chẳng để làm gì cả. Và đó là sức mạnh của nó. Tôi nghĩ là có hàng nghìn quy tắc tôi phải tuân theo khi viết tiểu thuyết. Hầu hết chúng sẽ nói không với điều này hoặc là nói có đối với điều kia. Để tuân thủ những quy tắc này và lắng nghe chúng, đòi hỏi phải có trí nhớ cũng như năng lực tinh thần mà tôi nghĩ mình không có khả năng sở hữu trong tư cách của một con người. Nhưng tôi nghĩ chúng ta còn nhiều khả năng hơn cả những gì mà chúng ta biết. Con người có khả năng làm những điều kỳ lạ.

Trong đó có cả khả năng, hoặc cũng có thể là sự hiểu biết, để sắp xếp các phần thành một tổng thể?

Vâng, đó là tất cả về tổng thể, về cảm giác trọn vẹn. Và chính sự trọn vẹn đó là linh hồn của văn bản. Thông điệp sẽ đến từ sự trọn vẹn của nó, từ ngôn ngữ thầm lặng của nó. Chính cái toàn thể vẫn sẽ im lặng và khăng khăng đòi im lặng. Và để tạo nên sự trọn vẹn này, mọi bộ phận đều phải khớp nối và hướng về nó. Và đây là điều mà một con người theo nghĩa bình thường không bao giờ có thể đạt được một cách có ý thức.

Đó là lý do tại sao tôi không muốn lên kế hoạch gì cả, không muốn biết trước bất cứ điều gì hết. Tôi chỉ tin tưởng vào việc viết thôi. Khi tôi sáng tác, có thể là 1, 5, 10 trang, nhưng theo một cách nào đó, mọi thứ đều đã có sẵn ở đó. Cho đến lúc đó, ít nhiều nó đã được xác định.

Lược dịch từ bài phỏng vấn Merve Emre, đăng trên The New Yorker ngày 13.11.2022


Một số chú thích diễn giải thêm cho bạn đọc:

[1] Tennessee Williams là một nhà viết kịch người Mỹ. Ông được coi là một trong ba nhà viết kịch xuất sắc nhất của kịch nói Mỹ trong thế kỷ XX. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Chuyến tàu mang tên dục vọng.

[2] Nhà văn nổi tiếng người Úc. Năm nay ông đứng thứ 3 trong danh sách đặt cược cho giải Nobel Văn chương, sau Tàn Tuyết và Jon Fosse.

[3] Một loại nhạc cụ đặc trưng của Na Uy, giống violin nhưng có tận 2 lớp dây.

[4] Một trong hai loại ngôn ngữ chính được dùng ở Na Uy, nhưng kém phổ biến hơn loại còn lại. Jon Fosse nổi tiếng về việc sử dụng thứ phương ngữ này.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Phạm Công Luận và những tâm tình về “Hồi ức Phú Nhuận”

Cho dù “Hồi ức Phú Nhuận” không phải là sách biên khảo nhưng cũng cần được sắp xếp tương đối mạch lạc theo từng nhóm nội dung để độc giả dễ theo dõi, để có cái nhìn từ khái quát đến từng lãnh vực, sau đó đọng lại là những tâm tình của người sống ở đó.

Published

on

By

Hồi ức Phú Nhuận tập hợp những bài viết của nhà báo Phạm Công Luận về dòng chảy thời gian đi qua một vùng đất bằng việc sưu tầm và ghi lại những hồi ức tản mạn không chỉ của riêng tác giả – một người sinh ra, lớn lên và gắn bó với Phú Nhuận, mà còn từ lời kể của nhiều cư dân nơi đây qua các thế hệ.

Trong bài phỏng vấn này, Bookish sẽ giúp bạn đọc khám phá quá trình nhà báo Phạm Công Luận đã tái hiện một Phú Nhuận từ cổ chí kim qua từng trang sách trong Hồi ức Phú Nhuận diễn ra như thế nào, cũng như những khó khăn mà anh phải đối mặt. Hãy cùng tìm hiểu bạn nhé.

Trong quá trình thực hiện Hồi ức Phú Nhuận, anh có gặp phải những khó khăn nào khi tìm ý tưởng, nguồn tư liệu, hay nhân vật để phỏng vấn không? Nếu có, anh đã vượt qua những khó khăn đó bằng cách nào?

Viết sách tư liệu luôn có những thách thức từ việc ý tưởng tổ chức cho đến tập hợp tài liệu, cuốn Hồi ức Phú Nhuận cũng vậy. Cần có những ý tưởng cốt lõi từ cách tổ chức các chương mục cho đến thể hiện từng bài. Ở từng đề tài, nếu không tìm ra nhân chứng để phỏng vấn hoặc tài liệu hay thì dễ đi vào bế tắc. Khi gặp trường hợp đó, tôi xếp lại, khai triển một bài viết khác và lúc nào đó sẽ quay lại đề tài cũ khi thấy đã có những thứ cần thiết để viết nó ra.    

Bài viết nào trong Hồi ức Phú Nhuận khiến anh tâm đắc nhất? Anh có thể chia sẻ lí do tại sao không?

Có hai dạng bài tôi cảm thấy tâm đắc trong cuốn này.

Một là những bài tôi tìm được tư liệu hay, viết được những đề tài hầu như không ai viết về, mà lâu nay bản thân tôi luôn thắc mắc: bài viết về gốc gác của chợ Ga, về nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng nổi tiếng khắp Sài thành một thời, về xóm cô đầu ở Phú Nhuận trước 1945, về đất Phán Hùng trong đường Cô Giang v.v...   

Hai là những bài được viết với nhiều cảm xúc, hầu hết nằm trong phần ôn chuyện xưa, về ẩm thực và về những con hẻm.  

Hồi ức Phú Nhuận được chia thành 9 phần (8 phần nội dung chính và 1 phần phụ lục) để bao quát những khía cạnh khác nhau trong đời sống Phú Nhuận. Từ khi bắt đầu viết sách, anh có hình dung trước là sách sẽ có 9 phần với các chủ đề như thế để lên kế hoạch viết không hay anh viết bài trước rồi trong quá trình tập hợp lại bài viết cho cuốn sách, anh mới chia bài viết theo chủ đề? Theo anh, phương pháp nào đem lại nhiều hiệu quả hơn?

Cuốn sách này, cho dù không phải là sách biên khảo nhưng cũng cần được sắp xếp tương đối mạch lạc theo từng nhóm nội dung để độc giả dễ theo dõi, để có cái nhìn từ khái quát đến từng lãnh vực, sau đó đọng lại là những tâm tình của người sống ở đó. Dù ban đầu đã có ý định sắp xếp một cách tương đối, khi viết tôi chọn những đề tài mình có hứng thú hoặc có tư liệu hay để viết trước. Sau một thời gian, tôi rà soát lại từng phần nội dung và tiến hành bù đắp những chỗ còn thiếu bằng những bài khác. Có thể cách của tôi không đúng bài bản nhưng ít ra nó giúp tôi duy trì được cảm hứng để viết một cuốn sách khá “lắm chuyện” như vầy.     

Trong Hồi ức Phú Nhuận, có những bài viết kể về các con đường, quán ăn và tiệm cà phê hiện đã không còn tồn tại. Vậy anh tìm kiếm và ghi lại những thông tin này bằng cách nào? Làm sao để anh cân bằng tính trung thực và chi tiết khi tái hiện những ký ức trong Hồi ức Phú Nhuận?

Tôi sống ở Phú Nhuận từ nhỏ đến nay nên không quá khó khăn để nhận diện những gì từng tồn tại và mất đi trong hơn nửa thế kỷ qua. Bên cạnh đó, còn có những nhân chứng chung quanh tôi, họ có thể kể về những quán xá họ từng lui tới, ăn uống ở đó hay về những gì đã xảy ra từ rất lâu trên một con đường. Trang “Phú Nhuận ngày xưa” trên Facebook do tôi lập ra, là nơi tập hợp những người từng hay đang gắn bó với vùng đất này cũng góp phần cung cấp cho tôi tư liệu về các quán, các nhà hàng trong quận, bên cạnh những câu chuyện ở lãnh vực khác.

Đã là hồi ức thì có “nhớ nhớ, quên quên” không tránh khỏi thiếu sót, tôi hạn chế tối đa điều đó bằng cách đối chiếu với các ý kiến khác nhau trên trang “Phú Nhuận ngày xưa” về một sự kiện, đưa ra trước cộng đồng để hỏi ý kiến và gửi bản thảo cho một số người quen nhờ xem giúp và phát hiện lỗi nếu có. Sau khi ra sách, tôi vẫn tiếp tục theo dõi dư luận để nếu cần thì đính chính hay chỉnh sửa sau.    

Hồi ức Phú Nhuận vừa có hình ảnh tư liệu, vừa có tranh minh họa của họa sĩ Phạm Công Tâm. Đâu là tiêu chí để anh quyết định lựa chọn giữa hình ảnh hay tranh minh họa cho một bài viết?

Việc chọn tranh hay ảnh minh họa cho phù hợp bài vở nằm trong góc nhìn từ nghề báo của tôi. Hầu hết bài trong sách được minh họa bằng ảnh, nhất là bài tài liệu. Bên cạnh đó có một số bài được minh họa bằng tranh màu nước, do không có ảnh đủ thể hiện được nội dung và còn giúp trang sách mềm mại hơn, đẹp hơn.

Sau Hồi ức Phú Nhuận, kế hoạch sáng tác tiếp theo của anh là gì? Anh có dự định viết thêm về Phú Nhuận hoặc những quận khác không?

Cho dù Phú Nhuận vẫn còn nhiều điều hay để khám phá và chia sẻ, tôi chưa có ý định viết tiếp ở dạng một cuốn sách mà sẽ dành thời gian cho những đề tài khác.

Tôi vừa viết xong bản thảo cuốn sách về Chợ Lớn, một khu vực đô thị không nhiều người phía Sài Gòn có điều kiện tiếp cận theo chiều sâu. Cuộc sống ở đó, với đa số là di dân người Hoa có những đặc thù riêng, rất thú vị để tìm hiểu. Qua cuốn này, tôi mong có thể phản ánh được một phần nhỏ đời sống, tâm tình, sinh hoạt của vài thế hệ người sống trong Chợ Lớn trong gần trăm năm qua. Đó là một nơi mà một số nhà văn, ký giả nước ngoài như Gontran de Poncins, Georges Ribon hay Kermendec... đã đến và ở lại một thời gian để viết những bài báo và cuốn sách thật lý thú.    

Cảm ơn tác giả Phạm Công Luận vì đã dành thời gian cho một cuộc chia sẻ sâu với Bookish. Chúc anh luôn thành công với những dự án trong tương lai.

Đọc bài viết

Cafe sáng