Book trailer

Đừng nói chúng ta không lợi quyền: Bức chân dung về những bản ngã bị đánh mất

Published

on

“Nếu bạn đang đi ngược chiều gió, giữ cho lưng thẳng tắp thôi cũng được xem là một thành tựu.” Triết gia Wittgenstein như phóng tầm nhìn vượt thời đại khi viết ra điều này. Rằng, trong thời kì văn hóa nghèo nàn, “tiềm năng của cá nhân bị lãng phí khi phải vượt qua các lực lượng đối lập và lực cản ma sát.”

Sự tiêu hao năng lượng vô nghĩa này đã miêu tả hoàn hảo số phận của các nhạc sĩ cổ điển trong cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Âm nhạc họ cống hiến bị cấm. Nhạc cụ họ chơi bị phá hủy. Họ bị tra tấn và làm nhục, bị buộc tội phản quốc và phải đến lao động trong các trang trại và nhà máy ở làng quê. Những phẩm chất nghệ sĩ của họ, kĩ thuật điêu luyện của họ, thông qua những qui định tàn nhẫn, trở thành sâu mọt đạo đức gây nguy hại quốc gia.

Điều họ có thể làm chỉ là bảo vệ, duy trì cái bản ngã nghệ sĩ yếu ớt, vất vưởng còn sót lại trong người. Điều đó khiến nhiều người chịu không nổi và kết cục, tự tử. Sống với hai nhân dạng khác nhau là điều không thể với hàng triệu người. Trong đó có nhân vật trong tác phẩm Đừng nói chúng ta không lợi quyền, tiểu thuyết của Madeleine Thien.

Đừng nói chúng ta không lợi quyền lọt vào danh sách rút gọn của Giải Man Booker năm 2017, là cuốn tiểu thuyết thứ ba của cây viết nữ Madeleine Thien. Đó là một tác phẩm đẹp, song sầu thảm. Cuốn sách gây ấn tượng ở nhiều khía cạnh: Nó ghi dấu ấn trong ký ức bằng một dư ảnh; nó khám phá thành công những ý tưởng lớn hơn về chính trị và nghệ thuật; nó mang đậm chất sử thi của một cuốn tiểu thuyết Nga thế kỷ 19, trải qua ba thế hệ và kết hợp giữa bờ của hai lục địa.

Bạn có thể ngay lập tức bắt nhịp văn phong của tác giả từ những dòng mở đầu của quyển sách: “Trong vòng một năm, cha bỏ chúng tôi hai lần. Lần đầu tiên là khi ông kết thúc cuộc hôn nhân, và lần thứ hai, là khi ông tự kết liễu mình.”

Và thế là câu chuyện bắt đầu: Li-ling, tên tiếng Anh là Marie, là một nhà toán học người Canada gốc Hoa, kể lại cho chúng ta sự ra đi đột ngột, bí ẩn của cha cô – ông tự tử bằng cách nhảy từ cửa sổ tầng 9 khi cô mới 10 tuổi. Năm đó là năm 1989, và cái chết của ông gần như trùng khớp với vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn, mặc dù ông đang ở Hong Kong vào thời điểm đó. Hai tháng sau, Marie và mẹ cô nhận được thư từ một phụ nữ ở Trung Quốc yêu cầu họ cung cấp chỗ ở cho con gái bà, Ai-ming, người đang gặp rắc rối với chính phủ vì cuộc biểu tình.

Marie và mẹ cô không phải ngẫu nhiên mà được lựa chọn. Cha của Ai-ming, Chim Sẻ là một nhà soạn nhạc. Ông là thầy của cha Marie – Kai, vào những năm 1960, khi họ cùng học tại Nhạc viện Thượng Hải. Kai chưa bao giờ nói về điều này với con gái mình. Cô biết cha mình đã chơi piano cho Mao Trạch Đông, nhưng nhà cô thậm chí không có một cây đàn piano.

Dần dần, Marie xâu chuỗi lại được lại cuộc đời của cha cô và lịch sử đất nước – thông qua những câu chuyện của Ai-ming, thông qua tìm tòi của riêng cô, và thông qua một loạt sổ ghi chép (hầu hết bị lãng quên) được tìm thấy trong các tài liệu cá nhân của Kai. Tài liệu mật này được gọi là “Những bản ghi”, một cuốn tiểu thuyết chắp vá, được sao chép, sửa đổi và cập nhật mỗi khi nó chuyển cho người sở hữu mới. Cuốn sách bị cấm, chỉ được truyền tay một cách bí mật dành cho “những người kháng chiến, gián điệp và những kẻ mộng mơ”.

Từ Những bản ghi, tác giả khéo léo bung mở những nút thắt, xâu chuỗi những cột mốc để gợi ra câu chuyện lớn hơn.

Trung tâm của quyển sách là Chim Sẻ, Kai và Zhuli, bộ ba người bạn gắn bó với nhau nhờ chia sẻ chung tình yêu với âm nhạc cổ điển. Kai là một đứa trẻ mồ côi tỉnh lẻ và là một nghệ sĩ dương cầm tài năng. Chim Sẻ, giáo viên của anh, là một nhà soạn nhạc nhút nhát. Zhuli, em họ của Chi Sẻ, một thiếu nữ kém anh 10 tuổi, là một nghệ sĩ vĩ cầm và có sức hút quyến rũ. “Khi Zhuli chơi nhạc,” tác giả viết, “như thể cô ấy thổi bay bụi trần và tạo ra thứ âm nhạc thực sự.”

Câu chuyện của Đừng nói chúng ta không lợi quyền được kể trên cái nền âm nhạc. Tác giả sở hữu phong cách hiếm có trong việc miêu tả lí trí là “con tin” của trái tim, ý nói tiếng gọi bên trong nội tâm nhân vật bao giờ cũng to lớn hơn tiếng gọi của thế giới bên ngoài, mà trong bối cảnh của cuốn sách, là tiếng gọi của Đảng và đất nước.

Dần dần, mâu thuẫn đến khi những sinh viên tại Nhạc viện Thượng Hải bắt đầu thực hiện các bài luận, họ thắc mắc “Âm nhạc này có gì hay, khi những thứ bùa mê sáo rỗng này chỉ lôi kéo giai cấp tư sản và cô lập người nghèo?”

Zhuli, Kai và Chim Sẻ mỗi người đưa ra những lựa chọn khác nhau về cách sinh tồn sau những động thái bạo lực nhắm vào vào danh tính “người nghệ sĩ” tại đất nước. Dù vậy, không ai trong số họ thực sự hạnh phúc với sự lựa chọn của mình.

Madeleine Thien ghi nhận một cách thẳng thắn, đau thương về sự suy đồi đạo đức, sự tê liệt của cuộc sống trong bối cảnh Cách mạng Văn hóa. Tại đó, mỗi cá nhân sống giả tạo ngay trong cuộc đối thoại với nhau hằng ngày, họ chỉ trao được cho nhau những lời ca tụng chiếu lệ dành cho Đảng và Chủ tịch Mao. Các mô tả của tác giả về sự tàn bạo của Lực lượng Vệ binh Đỏ rất thẳng thắn, trực quan đến mức khiến người ta khó chịu, chẳng hạn như “Cha mẹ của Zhuli, chủ sở hữu tài sản, bị trói như gà, bị đánh đập và bị đưa vào trại cải tạo.”

Cao trào của quyển sách là cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn. Đó là một đoạn văn điêu luyện, nơi tác giả miêu tả mọi xúc giác của con người, của sự sống thông qua con chữ. “Người bán mì phấn khởi đang cho đồ ăn. Một tấm nệm đang cháy bao trùm lấy một chiếc xe tải quân đội…”, “Chim Sẻ co rúm người dưới sức nặng của một công nhân bị đạn xuyên qua.”

Sau khi đọc xong, người đọc vẫn phải tự hỏi liệu lịch sử có đơn giản là định mệnh lặp lại chính nó hay không. Một phụ huynh phàn nàn với Chim Sẻ: “Những đứa trẻ này nghĩ rằng tất cả là tùy thuộc vào chúng. Họ không hiểu gì về số phận.”

Giống như “Những bản ghi” được cất giấu và viết tiếp, quyển sách Đừng nói chúng ta không lợi quyền có thể chính là viễn cảnh của đất nước trong tương lai: Hàm ý rằng Trung Quốc vẫn còn là một công trình dang dở, chưa hoàn thiện – giống như tác phẩm âm nhạc Bản giao hưởng số 3 của Chim Sẻ, một tuyệt tác âm nhạc thực sự, mà anh ta buộc phải giấu trên gác mái. Rồi anh đánh mất nó, như cách anh đánh mất chính nhân cách người nghệ sĩ trong mình.

Phải đến nhiều năm sau, Chim Sẻ mới có thể sáng tác trở lại. Nhưng anh ấy không thể hoàn thành tác phẩm cụ thể đó. Những ghi chú mà anh tìm kiếm đã bị vùi sâu vào quá khứ.

Hết.

Uyên dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jennifer Senior, đăng tại The New York Times.

*

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng