Chuyện người cầm bút

Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo: Một cuộc phỏng vấn với Madeleine Thien

“Ngôn ngữ thật mỏng manh. Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo nhiều thứ. Công bằng, lý trí, dân chủ, tự do, lòng tốt, sự thật – chúng ta sử dụng những từ này phục vụ cho các ý định khác xa nhau. Chúng ta dùng chúng để phục vụ cho cả nhân đạo và bạo lực sâu sắc.”

Published

on

Madeleine Thien là tác giả nổi tiếng quốc tế với bốn tác phẩm hư cấu, bao gồm tập truyện ngắn Simple Recipes (tạm dịch Những công thức giản đơn), các tiểu thuyết Certainly (tạm dịch Chắc chắn) và Dogs at the Perimeter (tạm dịch Những chú chó trên vành đai). Cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của cô, Do Not Say We Have Nothing (Phương Nam Book đã dịch và phát hành tại Việt Nam với tựa đề Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền1), là câu chuyện hấp dẫn về các thế hệ bị cuốn vào di sản thời kỳ Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông và sự kiện Thiên An Môn. Cuốn tiểu thuyết được ca ngợi rộng khắp trong giới phê bình Anh ngữ và từng lọt vào danh sách rút gọn của giải Man Booker, cũng như nằm trong đề cử Huy chương Andrew Carnegie cho tác phẩm hư cấu xuất sắc. Mới đây, Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đã thắng hai giải thưởng văn học uy tín nhất Canada: giải Toàn quyền Canada cho tác phẩm hư cấu và giải thưởng Giller. Dẫn lời ban giám khảo giải Toàn quyền Canada, cuốn sách được nhận định là “một tiểu thuyết thanh lịch, đa sắc, hoàn hảo, tựa như một tẩu pháp2 trình bày đời sống các cá nhân, tập thể và các thế hệ bị vướng vào mớ bòng bong lịch sử.”

David Chariandy (DC): Chúc mừng những danh hiệu mới nhất, Madeleine. Tôi biết chị đã có một năm vô cùng bận rộn.

Madeleine Thien (MT): Tôi thấy như mình đang bay qua hầm gió! Nhưng cảm giác vẫn ổn.

DC: Là người ngưỡng mộ tác phẩm của chị từ lâu, tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi về cách mà chị đã chuyển từ tiểu thuyết trước đó, Dogs at the Perimeter nói về nội chiến Cambodia, sang Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền với bối cảnh cách mạng văn hóa Trung Quốc và những cuộc biểu tình tại Thiên An Môn. Cả hai tiểu thuyết đều bàn về những cá nhân bị cuốn vào lịch sử đau thương của tổ quốc, nhưng ở Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền có sự chuyển hướng nổi bật sang âm nhạc. Làm thế nào và tại sao mà âm nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển phương Tây lại trở thành đội hợp phối tràn đầy năng lượng trong cuốn tiểu thuyết này?

MT: Tôi thấy buồn không tưởng sau Dogs at the Perimeter, vì tôi bắt đầu nghĩ rằng bản thân ngôn ngữ mâu thuẫn với chính những điều ta cần ở nó: để nghe, để nói, để hiểu. Ngôn ngữ thật mỏng manh. Ngôn từ có quyền năng xóa bỏ và bóp méo nhiều thứ. Công bằng, lý trí, dân chủ, tự do, lòng tốt, sự thật – chúng ta sử dụng những từ này phục vụ cho các ý định khác xa nhau. Chúng ta dùng chúng để phục vụ cho cả nhân đạo và bạo lực sâu sắc.

Một trong những nền tảng nghệ thuật và câu hỏi mang tính khái niệm trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, là làm thế nào để ngôn ngữ tự nó hoàn thiện, làm sao để gắn kết một từ và ý nghĩa của nó khi chúng rất dễ bị tách ra? Làm cách nào để chúng ta tìm được ngôn từ để tư duy theo nhiều lối khác nhau? Âm nhạc, toán học, nghệ thuật thị giác, với những hình thái ký hiệu riêng biệt, đều làm thực tế trở nên phức tạp. Lấy ví dụ, Bản giao hưởng số 5 của Dimitri Shostakovich nổi tiếng với những cách diễn giải khác nhau. Cách hiểu đầu tiên (và ơn trời là phổ biến nhất, vì chính cách hiểu này có lẽ đã cứu sống Shostakovich), rằng nó “đại diện cho những lý tưởng cao đẹp nhất của Hiện thực Xã hội chủ nghĩa…[và] lời đáp trả sáng tạo của một nhà soạn nhạc Xô Viết đến những lời phê phán công tâm”. Cách hiểu thứ hai là sự công khai thương tiếc vì bạo lực thảm khốc xảy ra trong suốt các chiến dịch chính trị và thanh trừng của Stalin.

Trong kỷ nguyên Baroque và Lãng mạn, âm nhạc cổ điển phản ánh những đổi thay chính trị và trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, nó nói lên nhiều điều về các nhạc sĩ Trung Quốc sống giữa thời cách mạng. Âm nhạc bộc lộ những ý tưởng phản thời thế, nó giữ cho cuộc sống muôn màu, nó là giọng nói đa tầng nghĩa. Hình thái âm nhạc, xét theo phương diện cấu trúc, đặt ra câu hỏi làm sao để sự thay đổi mang tính cách mạng có thể sản sinh ra giữa vòng tuần hoàn cũ mèm của những việc đã xảy ra? Làm sao để ta mở lòng mình chào đón những bước nhảy đột phá mà không phá hủy tổng quan?

“Âm nhạc bộc lộ những ý tưởng phản thời thế, nó giữ cho cuộc sống muôn màu, nó là giọng nói đa tầng nghĩa.”

DC: Trong đoạn gần mở đầu Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, khi Marie nghe Bản Sonata số 4 cho piano và violin của Bach, cô đã mô tả: “Thuật đối âm giữ nhà soạn nhạc, nhạc công, thậm chí cả thinh không ở cùng với nhau; còn âm nhạc, với những làn sóng xoắn ốc giữa khổ đau và hân hoan, là tất cả những gì tôi còn nhớ”. Tôi bị ấn tượng bởi, dù vô tình hay cố ý, trải nghiệm nghe nhạc của Marie luôn gắn bó chặt chẽ với những hồi tưởng của cô về cuộc đời của cha mình.

MT: Vô tình là từ hoàn toàn chính xác. Những gì cô ấy nghe thấy, tức âm nhạc, thứ nghệ thuật trừu tượng này, chứa đựng những mâu thuẫn – những điều cô ấy biết và không biết, những điều cô ấy đồng thời yêu thương và chối bỏ, cô ấy là ai và không thể chẳng trở thành ai – trôi qua trong đúng một giây phút. Trong khi đó, ngôn ngữ lại tuyến tính. Đôi khi tôi nghĩ thử nghiệm trong nghệ thuật kể chuyện phần nào đó thách thức sự tuyến tính của ngôn ngữ, mãnh liệt hơn là sự tuyến tính của thời gian. Hình tượng, mô-típ, cộng hưởng, vọng âm, và những gì Mikhail Bakhtin gọi là giọng-nước đôi3, tất cả làm bóp méo những giá trị bề mặt phẳng lặng và chồng chéo các ý tưởng khác nhau trong khi vẫn giữ được mọi thứ rõ ràng. Việc này giống như gấp tờ giấy phẳng phiu để tạo ra nhiều chiều hơn.

DC: Trong một dịp phỏng vấn và giao lưu đọc sách gần đây, chị đã gợi ý ngắn gọn rằng kết cấu của Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền dựa trên Bản giao hưởng Goldberg Variations của Glenn Gould. Ý của chị lúc đó là gì?

MT: Goldberg Variations bắt đầu với một giai điệu rất đơn giản, theo sau bởi ba mươi biến tấu và đối âm dựa trên mô-típ cho điệu nhạc cơ bản, cuối cùng kết thúc bằng các điệp khúc. Khi ta trở ngược lại từ đầu, ta đã đi xuyên qua nhiều thế giới. Cứ như thể Bach đang nói với chúng ta, khởi đầu và kết thúc, sinh và tử đưa chúng ta trở lại cùng một nơi, nhưng ở giữa là những biến thể phi thường của niềm vui và nỗi buồn cùng nhiều trạng thái mà ta chẳng thể gọi tên. Âm nhạc là cả sự cụ thể (sóng âm) lẫn phù du (ký ức, cảm xúc), nó đồng thời gợi lên sự cụ thể và phù du trong chúng ta.

Tôi muốn sử dụng mô hình của Bach và những cảm quan chuyển động của ông để viết một cuốn tiểu thuyết đã biết được khởi đầu và kết thúc (được lịch sử ghi lại), nhưng vẫn tự do trong cách hiểu câu chuyện. Mọi việc vẫn lặp lại, nhưng bạn không thể dự đoán trước được điều gì. Lịch sử vẫn quen thuộc: khát vọng hướng tới utopia4, cách mạng, những cơ chế hủy diệt khoác lớp vỏ sáng tạo (để kiến tạo thế giới mới, chúng ta phải hủy diệt cái cũ, hoặc những slogan kiểu: “nếu cái đẹp chống lại cái xấu, hãy chọn cái xấu”, v.v) và ngược lại. 

Tôi nghĩ tới mô tả của Italo Calvino về thành phố vô hình Berenice, thành phố bất công, nơi đồng thời chứa một Berenice khác, thành phố công bằng. Chúng liên tục chuyển hóa lẫn nhau, cái này nằm trong cái kia, vô cùng tận. Hạt mầm cái ác mãi mãi bén rễ bên trong cái thiện; tình yêu công lý đâm chồi mỗi khi bị đốn hạ.

“Hạt mầm cái ác mãi mãi bén rễ bên trong cái thiện; tình yêu công lý đâm chồi mỗi khi bị đốn hạ.”

DC: Khi đề cập đến Cách mạng Văn hóa và sự kiện Thiên An Môn, Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đại diện cho các sự kiện mang tính toàn cầu. Nhưng đồng thời, thành công lớn của cuốn sách cũng nằm ở việc gợi mở đời sống phong phú thường ngày và xúc cảm thân mật duy trì xuyên suốt tiểu thuyết. Chị đã viết cuốn sách phức tạp này như thế nào, bởi thực tế chị có thể được coi là một nhà văn Canada, là “người phương Tây”, hay “người Trung Quốc tha hương”. Giống như nhân vật Marie trong tiểu thuyết của mình, chị dường như sinh sống trong một nền văn hóa và xã hội tách biệt với Trung Quốc đương đại.

MT: Anh nói đúng rồi, David. Thật là phức tạp. Tôi thực sự bị cách li về mặt văn hóa và ngôn ngữ. Nhưng đồng thời, giữa tôi và nền văn hóa Trung Hoa có sự thân thuộc trẻ thơ (nhiều năm học thư pháp, lớp múa truyền thống, phim truyền hình Hồng Kông những năm 80, gia đình, v.v). Tôi luôn cảm thấy tuy lịch sử có vẻ xa xăm (Cambodia, Indonesia, Chile, Ghana, Iraq, liên tu bất tận), trên thực tế nó phơi bày chính chúng ta. Chúng là những câu chuyện liên quan đến ta mà ta cố quên.

Tôi nghĩ, cho dù tôi viết ra thứ gì đó gần gũi hay xa lạ, tôi luôn tự vấn về những gì tôi cho rằng mình biết. Những giả thuyết về thế giới chiếm phần lớn không gian não bộ của ta. Kiến thức có sẵn có thể che mù chuyện xảy ra trước mắt. Đó là niềm vui và cũng là thách thức lớn khi tôi viết Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền. Tôi không phải nhạc sĩ, tôi không sống thời Cách mạng Văn hóa, và tôi xem những cuộc biểu tình ở Thiên An Môn năm 1989 trên truyền hình. Tôi bắt đầu từ chỗ biết rất ít, nhưng tôi tin rằng sự chu đáo, sáng tạo cùng kỷ luật bằng cách nào đó sẽ mang cả thế giới phức tạp vào trong tầm nhìn của tôi. Có lẽ khát khao nghệ thuật chính là làm cho cái gì đó trở nên sống động. Nghệ thuật có quá nhiều khuôn phép, thậm chí khó chịu, và lại ràng buộc cùng tự do.

Ảnh: Nhà Sách Phương Nam Nguyễn Văn Bình, TP. HCM

DC: Tôi cho rằng chị không quan tâm lắm đến những người có thể đe dọa kiểm duyệt hay những hậu quả nghiêm trọng vì những gì chị viết.

MT: Đúng, rất đúng. Có hàng tá chủ đề nhạy cảm tại Trung Quốc, các nhà văn phải quyết định họ sẽ sáng tạo ra sao trong tình cảnh như vậy. Và kết quả thật mê hoặc, đầy đủ từ giả tưởng đến ngụ ngôn rồi tất cả mọi thứ ở giữa, kể cả siêu-ảo5, thể loại mà Ning Ken gọi là “chaohuan”.

Tôi luôn nghĩ đến việc chúng ta sử dụng sự tự do của mình như thế nào, và dùng nó ít ỏi ra sao. Ở Bắc Mỹ, nhận thức khán giả, văn hóa xuất bản, tiền tài, giải thưởng, chương trình MFA6, hội nhóm và xu hướng, v.v, tất cả đều định hình nền văn học và quyết định của tác giả. Bắc Mỹ thật lạ bởi giới nghệ sĩ dễ dàng cảm thấy họ cần phải áp đặt giới hạn cho chính mình. Thỉnh thoảng điều khó nhận thấy nhất là khi chúng ta lựa chọn gói gọn mình trong khoảng không gian bó hẹp, mà Doris Lessing gọi là nhà tù tự thân.

DC: Trong tiểu thuyết Dogs at the Perimeter, nhân vật Janie tiến hành tổ chức sắp xếp và giải thích các “tháp nghiên cứu chứa những ghi chú, đoạn trích, bản sao phỏng vấn hay những bản thu âm” của việc ban hành tội diệt chủng do Khmer Đỏ ủy quyền và lưu giữ. Công việc của Janie khiến tôi nghĩ rằng phải chăng các nhà văn luôn tìm cách lí giải tận cùng những sự kiện thảm khốc như Holocaust7 hay Transalantic Slavery8 để rồi đối mặt với văn khố khủng khiếp do những kẻ bạo tàn tạo ra.  

Tuy nhiên, trong Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền, Marie dựng nên một “kho lưu trữ” rất khác biệt. Cô ấy thừa hưởng từ cha mình một loạt sổ tay đề Những Bản Ghi, hóa ra là một mớ lộn xộn và gần như là “tiểu thuyết” vô hình. Nó thực sự là kho tàng chứa đựng những huyền thoại, lịch sử, trải nghiệm chép tay ngày càng dài ra sau mỗi lần đổi chủ. Thông qua Những Bản Ghi, Marie đủ sức chắp nối cuộc đời cha cô cùng lịch sử Trung Quốc hiện đại. Chị có thể chia sẻ một chút về bước ngoặt này không, khi mà cuốn tiểu thuyết chuyển từ bạo lực in hằn trên thư khố sang những mảnh đời được sinh ra từ ghi chép vụn vặt?

MT: Đó là điểm mấu chốt, khi những kẻ chiến thắng hay kẻ thủ ác thường lưu giữ những bản ghi như là chứng cứ của tài năng và sức mạnh, thậm chí là quyền định đoạt số phận con người. Bọn chúng mưu toan định hình lại thế giới. Văn thư có thể mở và đóng, tạo cho người giữ nó ảo giác họ kiểm soát được khởi đầu lẫn kết thúc câu chuyện. Và rằng họ chính là thượng đế, nắm giữ dòng chảy thời gian.

Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đưa ra lập luận: tất cả chúng ta đều là tác giả. Tiểu thuyết, thơ ca, hình ảnh, bản sao sự vật, khổ nhạc, bản thu âm, tất tần tật, đóng vai trò bản ghi không chính thức, một bản ghi lộn xộn, rộng mở và hỗn độn tựa dòng sông. Không ai định được mở đầu hay kết thúc. Những Bản Ghi không ngừng mở ra nhiều biến thế, mãi mãi dang dở chẳng tìm thấy tác giả đích thực. Đối với độc giả, họ sẽ chẳng thể hiểu nó là tấm gương soi ngược quá khứ hay là ảnh tượng của một tương lai đang tới gần. Độc giả cũng chẳng biết nó là chuyện bịa hay lịch sử. Tất cả mọi điều họ biết là Những Bản Ghi đã cầm giữ họ, và họ chẳng thể quên được. Nó đã trở thành họ.

DC: Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền được tạo ra bởi phụ nữ cũng như kể về họ. Tuy câu chuyện liên quan đến nỗ lực “tìm” cha của Marie, nó được trần thuật qua giọng kể của cô và kết nối bằng tình bạn với người phụ nữ ở Vancouver tên là Ai-Ming. Hơn nữa, cuốn tiểu thuyết cẩn trọng ghi lại cuộc sống của những thế hệ phụ nữ trước đó, tỉ như người dì và người bà vĩ đại của Ai-Ming (Swirl và Đại Dao Mẫu), đặc biệt là con gái của Đại Dao Mẫu, Zhuli – cô trở thành nghệ sĩ vĩ cầm tài giỏi. Chị đã bao giờ có ý định lên đường khám phá đồng thời lan tỏa những số phận phức tạp của phụ nữ Trung Quốc trong cuộc cách mạng hay chưa?

MT: Tôi nghĩ ban đầu mình không có ý định đó, nhưng đó lại là cách tôi trải nghiệm thế giới. Khi nói về các nhân vật của tôi, họ gần như hoàn toàn là chính họ, cả đàn ông lẫn phụ nữ. Họ bước vào thế giới với khí khái mạnh mẽ, đặc biệt trường hợp của Đại Dao Mẫu, đó là cái tôi cá nhân chống lại cái tôi xã hội. Đó là điều mà ta thường gọi là con người chống đối xã hội. Tôi cho rằng anh đã hiểu đúng. Trong tiểu thuyết này, vì nhiều lý do mà Kai và Chim Sẻ đã chấp nhận hoặc thỏa hiệp hoặc từ bỏ cái tôi của mình, còn Đại Dao Mẫu, Swirl hay Zhuli cự tuyệt điều đó. Họ tinh khôi từ tận bên trong, và ít khi ảo tưởng.

DC: Cuốn tiểu thuyết của chị mang đến cái nhìn thoáng qua về hàng triệu sinh mạng bị tước đoạt bởi nạn đói tàn khốc Đại Nhảy Vọt tạo ra, cũng như những mạng sống đánh mất trong Cách mạng Văn hóa và sự kiện Thiên An Môn. Tuy vậy, phần ám ảnh nhất trong câu chuyện không chỉ là việc chối bỏ bản thân mà còn phải tạo ra cái tôi mới dưới sự kiểm soát của nhà nước. Tôi nghĩ ở điểm này cuốn sách khắc họa những mật nghị căng thẳng, những phiên đấu tố, và không thể thiếu những cá nhân như người cha Jiang Kai của Marie – tái hiện thông qua lời tự thú bị ép buộc cùng thứ nghi thức mệt mỏi “tự phê bình”.

MT: Vâng, con người mới. Một xã hội tân thời cùng một Trung Quốc hiện đại sinh ra từ bạo lực cách mạng. Vậy câu hỏi có thể đặt ra là xã hội cũ biến đi đâu? Câu trả lời là có lẽ nó đã nhập vào vào bên trong con người: thành như ký ức, như hệ giá trị xưa cũ hay lòng kiên trung chẳng bật thành lời. Vậy nên mỗi người phải tự gột sạch chính mình thông qua tự phê bình cùng các phiên đấu tố. Anh đã đưa ra một nhận định đau buồn và chính xác rằng nhà nước kiếm soát cái tôi cá nhân, rằng cái tôi đó bị đem đi phục vụ nhà nước, Đảng và ý thức hệ. Đó là chế độ quân phiệt, chẳng khác gì việc tạo ra binh sĩ hay người tiêu dùng, đó là cách chúng ta khống chế suy nghĩ để lợi dụng thể chất và tinh thần của cá nhân. Cái ý tưởng rằng chính phủ có thể chiếm hữu cái tôi và thể xác của cá nhân có vẻ không thể bị tiêu diệt, nhưng ta phải cố tiêu diệt nó.

“Cái ý tưởng rằng chính phủ có thể chiếm hữu cái tôi và thể xác của cá nhân có vẻ không thể tiêu diệt, nhưng ta phải cố tiêu diệt nó.”

DC: Khi Marie đọc lời tự phê bình của cha, cô ấy diễn tả cái cách mình “lướt xuyên qua nhiều cái tôi mà ông ấy cố hình thành, cái tôi bị ruồng bỏ và được tái tạo, cái tôi muốn tan biến nhưng không thể”. Tôi tự hỏi liệu có mối liên hệ nào ở đây với hình thức cũng như giọng kể trong tiểu thuyết của chị. Mặc dù Marie là người duy nhất lên tiếng trong câu chuyện, nhưng những gì độc giả chúng tôi bắt gặp lại là một lượng đáng kinh ngạc các quan điểm cùng nhân vật nổi trội tại nhiều thời điểm và bối cảnh. Câu chuyện khởi đầu với chỉ một giọng kể về người cha đã mất sau cùng vỡ thành vô vàn lăng kính của cái tôi.

MT: Đẹp thật đấy, David. Tôi cho rằng mỗi nhân vật là một ô cửa hay cổng vào, một loạt cánh cửa dẫn người đọc bước qua. Với tôi, Marie là người bảo tồn những bản ghi. Nói về hồ sơ Thiên An Môn – tập hợp các tài liệu bí mật được tuồn ra khỏi Trung Quốc, ghi lại phản ứng từng ngày từng giờ của chính phủ trước các cuộc biểu tình tại Thiên An Môn – những phần tử vô danh thu thập chúng được gọi là “Người Biên dịch”. Marie là loại người như thế. Cô chưa bao giờ chấp nhận cha mình tự sát. Nhưng chuyện cô kể chẳng phải chuyện cha cô, càng không phải tiểu sử. Thay vào đó cô kể câu chuyện về những người ông ấy quý mến – Chim Sẻ cùng Zhuli – và tôi đồ rằng cô kể như vậy để nhắc bản thân luôn nhớ tới khả năng yêu thương vô bờ bến của người cha. Hệ quả của tình yêu là trên thực tế câu chuyện đã chuyển dịch vì nó mang Ai-Ming (con gái Chim Sẻ, rời Trung Quốc sau cuộc biểu tình năm 1989) bước vào đời cô. Tôi thích cách anh dùng từ lăng kính.

DC: Chiến thắng giải Giller của chị diễn ra ngay trước ngày kết thúc cuộc bầu cử sôi động và đầy lo âu của nước Mỹ. Nhiều người lo ngại đến tương lai nền dân chủ Mỹ. Marie tuyên bố ở gần cuối tiểu thuyết một dòng thế này: “Cuối cùng, tôi tin những trang này cùng Những Bản Ghi đáp lại ước ao kiên định của chúng ta: hiểu về thời đại mà ta đang sống”. Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền giúp ta hiểu hiện thời như thế nào?

MT: Tôi nghĩ cuốn sách giúp ta hiểu hiện thời theo lối khó đi. Thông qua việc dõi theo từng li từng tí các chiến dịch chính trị tại Trung Quốc, mà trước tiên là tạo ra những tình trạng theo đó bất cứ ai cũng có thể bị coi là kẻ thù của nhân dân; kế tiếp thiết lập giọng điệu và ngôn ngữ phù hợp với diễn văn chính trị. Với tôi, khi bài diễn văn trở nên chói tai, khi chỉ có hét lên mới nghe được thì có nghĩa chúng ta đang trong thời điểm nguy hiểm. Đồng nghĩa với việc tất cả chúng ta chỉ được chọn một quan điểm cực đoan và sự va chạm giữa các giá trị cực đoan dẫn tới bạo lực. Cuộc bầu cử ở Mỹ chứng minh hết lần này tới lần khác, người ta sử dụng “chúng tôi” hay “họ” và chúng tôi/họ đổi chỗ tùy thuộc ai được nhắc tới trong diễn văn. Đó là ham muốn thuần túy của con người. Cả hai thái cực cực đoan đều không chấp nhận hồ nghi, tiết chế hay hòa nhập. Cực đoan sẽ dẫn đến yêu cầu thanh lọc. Sự thanh lọc sau cùng ăn sâu vào máu bất kể chủng tộc, đẳng cấp. Tình trạng này làm cho các chiến dịch chính trị ở Trung Quốc càng thêm bạo tàn, do chúng là công cụ thanh lọc.

Đọc trích đăng chương 1 tại đây

DC: Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền là chiến thắng phi thường của nghiệp viết, tôi biết nhiều người sẽ đọc rồi luận bàn nó những năm sắp tới. Tuy vậy, tôi tự hỏi liệu tôi có nên kết thúc cuộc phỏng vấn bằng việc đề cập đến cuốn tiểu thuyết trước đó của chị, Dogs at the Perimeter, tôi mừng khi nghe dự kiến nó sẽ sớm được Norton xuất bản ở Mỹ. Phải chăng lúc viết Đừng Nói Chúng Ta Không Lợi Quyền đã giúp chị rõ hơn về các dự định cũng như định khu chính trị trong cuốn tiểu thuyết trước?

MT: Tôi thích câu hỏi này, nhưng thật khó nhìn lại những cuốn sách theo lối trừu tượng rồi đi nói về dự định. Chúng là cách tôi nhận thức và do đó là cách tôi sống. Tôi luôn luôn có nhiều câu hỏi. Khi sống sót sau các sự kiện thảm khốc, bản năng con người tôi là nhìn về phía sau để xem lại khoảnh khắc đỉnh điểm của chuyện đã xảy ra, để thấy con đường tôi đi trông ra làm sao. Tại sao ta chọn cái này mà không phải cái kia? Điều gì làm ta tin tưởng, điều gì làm ta mù quáng? Tư duy cho phép ta xuyên ngược qua từng ô cửa để hồi tưởng lại mỗi dấu chân của mình, và từ sự am hiểu đó ta hình dung ra cuộc sống tiếp diễn thế nào. Để mà sống tốt hơn. Tôi nghĩ Dogs at the Perimeter là cuốn sách định hình con người tôi, bởi câu chuyện thật cam go và là nhiệm vụ bất khả thi. Tôi đặt niềm tin vào cuốn tiểu thuyết ấy, vì nó tựa hòn đá nhỏ xíu chìm trong đại dương.

Hết.

3V dịch.

Bản gốc được thực hiện bởi David Chariandy, đăng tại Literary Hub

Ảnh đầu bài: Lithub.com

Chú thích:

David Chariandy sống tại Vancouver và là giảng viên Anh ngữ tại đại học Simon Fraser. Tiểu thuyết đầu tay của ông mang tên Soucouyant xuất bản quốc tế rộng rãi đồng thời được đề cử 11 giải thưởng và danh hiệu.

  1. Trong bài viết gốc ghi là Do Not Say We Have Nothing nên người dịch giữ nguyên kiểu viết hoa các chữ cái đầu.
  2. Tẩu pháp (fugue) là tiến trình nhạc Phức điệu trong đó một chủ đề được trình bày lúc ban đầu bằng mối tương quan chủ âm/át âm, sau đó được khai triển bằng kỹ thuật Đối âm. Thuật ngữ Tẩu pháp còn ám chỉ một tác phẩm âm nhạc nhiều chương (tương tự như thuật ngữ Sonata) có cấu trúc chặt chẽ, với quá trình sáng tác có tính cách luận lý (logic) (theo wikipedia). Ở đây ý của ban giám khảo có lẽ muốn nói cuốn tiểu thuyết giống như một bản nhạc.
  3. Nguyên bản là double-voicedness.
  4. Từ mô tả xã hội không tưởng, hay vườn địa đàng trần gian được Thomas More sử dụng đầu tiên.
  5. Nguyên bản là ultra-unreal.
  6. Master of Fine Arts – Thạc sĩ Mỹ Thuật.
  7. Nạn diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc xã.
  8. Buôn bán nô lệ từ châu Phi xuyên Đại Tây Dương sang châu Mỹ ở thời kỳ đầu chủ nghĩa thực dân.

Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Chuyện người cầm bút

Tác giả gốc Việt Viet Thanh Nguyen nhận thêm giải thưởng văn học

Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review vừa công bố sẽ trao giải năm 2025 cho nhà văn gốc Việt Viet Thanh Nguyen.

Published

on

Trên website chính thức, Kenyon Review công bố Giải thưởng Thành tựu Văn học năm 2025 sẽ trao cho tác giả Viet Thanh Nguyen. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 7/11 tại New York.

Giải thưởng này "tôn vinh những văn nghiệp xuất sắc, ghi nhận những cá nhân có tầm ảnh hưởng và quan trọng đã định hình nền văn học Mỹ".

Nhà văn Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Việt Thanh) sinh năm 1971 tại Buôn Ma Thuột. Ông đến Mỹ cùng gia đình vào năm 1975 và sinh sống tại Pennsylvania, sau đó chuyển đến California. Hiện ông đang là giáo sư tại Đại học Nam California, đồng thời là học giả, nhà văn, diễn giả... Ông cũng sáng lập và đồng điều hành The Diasporic Vietnamese Artists Network (Mạng lưới nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại). Ngoài ra, ông là thành viên Hội đồng giải thưởng Pulitzer và là giám khảo của các giải thưởng văn học quan trọng khác tại Mỹ.

Tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (2015) của ông thắng giải Pulitzer năm 2016 hạng mục tác phẩm hư cấu, đã được HBO chuyển thể thành loạt phim truyền hình ngắn tập… Một số tác phẩm khác của ông là Người tị nạn (2017), The Committed (2021, phần tiếp theo của The Sympathizer). Ông là chủ biên cuốn Kẻ ly hương - tuyển tập gồm tác phẩm của 17 tác giả từ nhiều nước như Mexico, Bosnia, Iran, Afghanistan, Ukraine, Hungary, Chile, Ethiopia, Việt Nam, kể lại câu chuyện nhập cư của mình.

Ông từng nhận học bổng từ Quỹ Guggenheim và MacArthur. Một số sáng tác gần đây nhất của ông là A Man of Two Faces: A Memoir, A History, A Memorial; To Save and to Destroy: Writing as an Other...

Thành lập năm 2002, Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review hướng đến vinh danh những cây bút có sự nghiệp xuất sắc, đã định hình văn học Mỹ bằng tầm nhìn, trí tưởng tượng và phong cách nghệ thuật độc đáo trong sáng tác. Giải được trao hàng năm tại đêm gala gây quỹ tại New York City, với mục đích hỗ trợ học bổng và quỹ nội bộ của Kenyon Review.

Một số tác giả nổi bật từng đoạt giải: năm 2005 Umberto Eco (Lịch sử cái đẹp, Tên của đóa hồng, Số không), năm 2007 Margaret Atwood (Chuyện người tùy nữ), năm 2012 Elie Wiesel (Đêm).

Theo ZNews

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Published

on

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn", ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng. 

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn" chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ. 

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu "bóc bánh trả tiền" kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài. 

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai? 

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì. 

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự... nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.” 

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon... đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco ... tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi. 

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Cafe sáng