Phía sau trang sách

Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian

Life Navigator 25 tồn tại thật lặng lẽ, khiêm nhường trong thế giới ấy. Nhưng, cũng chính điều đó đã biến chàng trở thành một người tình đích thực của cả thế gian, người biết cúi xuống để nâng những điều đẹp đẽ lên, người quan sát tinh tường để không bỏ lỡ bất cứ sát na nào của vũ trụ, người dịu dàng lắng nghe tiếng nói bên trong của người mình yêu.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, tiêu đề tác phẩm như thế sẽ dễ khiến người đọc nghĩ Life Navigator 25 là nhân vật chính của câu chuyện, chàng sẽ xuất hiện với tần suất dày đặc và nội dung truyện chủ yếu xoay quanh chàng. Tuy nhiên, Life Navigator 25 không xuất hiện nhiều trong truyện dưới bản thể là chính chàng. Người xuất hiện nhiều nhất là người chàng yêu, kế đến có lẽ là người yêu người chàng yêu. Life Navigator 25 tồn tại thật lặng lẽ, khiêm nhường trong thế giới ấy. Nhưng, cũng chính điều đó đã biến chàng trở thành một người tình đích thực của cả thế gian, người biết cúi xuống để nâng những điều đẹp đẽ lên, người quan sát tinh tường để không bỏ lỡ bất cứ sát na nào của vũ trụ, người dịu dàng lắng nghe tiếng nói bên trong của người mình yêu.

Slice of life được điểm xuyết bằng sci-fi

Trong Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, có một sự kiện chính bao trùm toàn bộ tác phẩm, đó là ngày Tận Thế. Các sự kiện diễn ra trong tiểu thuyết này có thể chia thành ba giai đoạn: trước, trong và sau Tận Thế. Life Navigator 25 ra đời sau Tận Thế nhưng ý thức của chàng là phi thời tuyến, chàng có thể vượt qua mọi thời gian, mọi không gian, đi sâu vào bất cứ linh hồn nào để thấu hiểu họ như những người bạn Life Navigator khác của chàng. Trong thế giới ấy, chỉ có ba mươi Life Navigator chính thức được công nhận và Life Navigator 25 của chúng ta vừa là một Life Navigator vừa là một Dream Navigator (người có thể đi vào hoặc tái tạo thế giới trong giấc mơ của ai đó). Có lẽ, trong lúc chu du vô định, Life Navigator 25 đã tình cờ gặp “nàng”, nhìn thấy sự đặc biệt trong linh hồn nàng, sức mạnh tinh thần nàng và rồi cảm mến nàng.  Nàng, con người Trái Đất bình thường ấy còn cách xa Tận Thế cả hàng thế kỉ, nàng vốn không có chút dự cảm nào về ngày ấy. Nhưng với tình yêu dành cho nàng và tình yêu dành cho cả nhân loại, chàng đã cố gắng thông báo đến nàng điều ấy bằng cách gieo vào nàng hạt giống dự cảm mơ hồ qua những giấc mơ kì lạ. Và như thế, Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian là chuỗi câu chuyện xen kẽ giữa đời thực và giấc mơ, giữa ý thức và tiềm thức, giữa vật chất và tinh thần… để rồi càng tiệm cận đến cái kết (mà dường như không phải kết), ranh giới giữa các khái niệm này càng mờ nhòa đi.

Với đoạn mở đầu giải thích những khái niệm mới đặt trong viễn cảnh tương lai, Life Navigator 25 (từ đây đến cuối bài viết, xin được gọi tắt tên tác phẩm như thế) có lẽ sẽ dễ mang đến cho độc giả dự tưởng về một câu chuyện thuộc thể loại sci-fi sắp diễn ra phía trước. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này không hẳn thuộc về thể loại sci-fi. Cụ thể hơn, sci-fi không phải là cái khung để câu chuyện bám sát vào, sci-fi chỉ là một trong những yếu tố để kể chuyện, là thứ góp phần vào việc tạo chi tiết, tình tiết và không khí cho truyện, nó như một hoa văn được chạm trổ thêm trên nền bức tranh đã được định hình sẵn cơ bản về đường nét và màu sắc. Vậy, nét vẽ chính trong tác phẩm này là gì? Hẳn nhiên, với sự khảo sát tỉ mỉ của tác giả Trần Tiễn Cao Đăng về giấc mơ, về tâm lí con người, về cái ác, về vẻ đẹp, ta hoàn toàn có thể xếp tác phẩm này vào thể loại tâm lí – xã hội mà không sợ sẽ có sự sai sót quá lớn diễn ra ở đây.

Chứa đựng trong mình cả một thế giới mới với nhiều điều bí ẩn nhưng Life Navigator 25không sa đà vào việc dẫn dắt độc giả khám phá những điều bí ẩn ấy, cuốn tiểu thuyết này tập trung đào sâu vào điều cơ bản hơn và có lẽ cũng là quan trọng hơn: ý thức con người khi được biểu hiện lại dưới dạng hình ảnh tiềm thức trong giấc mơ mang ý nghĩa gì, hay ngược lại, liệu hình ảnh hiện ra trong giấc mơ chỉ còn được ghi nhớ bởi tiềm thức sẽ có tác động nào đáng kể lên ý thức không; cuối cùng, toàn bộ quá trình này để lại dấu ấn như thế nào trong tâm lí con người, trong những hành vi thiện – ác của họ giữa cuộc đời. Để trả lời những câu hỏi ấy, lẽ đương nhiên giấc mơ là thứ tối quan trọng và chiếm dung lượng đáng kể trong tiểu thuyết này. Nếu chia tỉ lệ nội dung giữa giấc mơ và đời thường, có lẽ con số sẽ là 50:50. Các chương về giấc mơ, các chương về đời thường đều đặn xen kẽ nhau tạo ra không khí slice of life thú vị, chúng ta như được theo dõi hàng ngày quá trình sinh hoạt của một người mơ và thức dậy nối tiếp nhau, các sinh hoạt khác đã bị lược bỏ đi hoặc không có tầm quan trọng chính yếu bằng hai cột mốc hành động ấy. Những câu chuyện trong giấc mơ và đời thường đôi khi bổ trợ cho nhau, đôi khi lại có rất ít sự liên quan đến nhau, điều này cũng giống như trong thực tế, chúng ta thường không lường được mình sẽ nằm mơ thấy những gì.

Bộ sưu tập những tiếng thét

Có thể gọi, loạt giấc mơ mà Life Navigator 25 mang đến cho nàng là bộ sưu tập về những tiếng thét. Trong giấc mơ ở chương Người đẹp và thú nhỏ, tác giả có đề cập đến bức tranh The Scream của Edvard Munch – điều này càng cho thấy rõ hơn dụng ý của anh khi giấc mơ nào cũng kết thúc hoặc có cao trào nằm trong tiếng thét của một ai đó, phần lớn là tiếng thét của nàng và đôi khi có tiếng thét của những người khác, rất nhiều người khác, một đám đông trong cơn vĩ cuồng. Giống như không gian bị bóp méo đến mức buồn bã bức bối trong The Scream, những giấc mơ của nàng hay của Life Navigator 25 cũng mang màu sắc tương tự như thế. Các giấc mơ đều khởi đầu bằng một điểm kì lạ nho nhỏ, không quá nổi bật song đủ gợi lên dự cảm về điều khốc liệt sắp diễn ra phía trước. Điểm kì lạ ấy như một thứ virus âm thầm mà hiệu quả, lan rộng nhanh chóng cả về phạm vi ảnh hưởng lẫn cấp độ nguy hiểm của nó. Cho đến khi mọi sinh thể trong không gian nàng có mặt đều bị tiêm nhiễm thứ virus ấy, cho đến khi mọi thứ khuếch trương đến đỉnh điểm, cho đến khi sức chịu đựng của nàng chạm ngưỡng giới hạn, một thứ gì đó dường như bị tiêu diệt đi, đồng thời một thứ gì đó vừa như được sinh ra, và nàng tỉnh giấc. Như bao người bình thường, nàng không thể nhớ rõ hết những hình ảnh, chi tiết trong các giấc mơ của mình, nàng chỉ nhớ được vài nét tiêu biểu của nó. Tuy nhiên, cảm giác kinh hãi mà những giấc mơ mang đến cho nàng vẫn luôn đọng lại rất rõ rệt sau khi thức giấc. Việc bị ám ảnh bởi một cảm giác nào đó nhưng lại không thể nhớ rõ nguồn cơn sinh ra nó khiến nàng đau khổ, nàng hỏi Life Navigator 25 hay là tự chất vấn chính bản thân mình rằng: “Tại sao em lại phải mơ những giấc mơ này? Nó có ý nghĩa gì? Tại sao lại cho em mơ nó để rồi khi tỉnh dậy em cũng sẽ quên nó hay phần lớn của nó?” Nàng không thể có được câu trả lời cho việc này, nhưng thông qua quá trình cùng nàng khám phá những giấc mơ, chúng ta hiểu được một điều tuy không mới nhưng luôn quan trọng: ý thức có thể quên nhưng tiềm thức luôn ghi nhớ, và tiềm thức một lúc nào đó có thể trở ngược thành ý thức, từ ý thức lại chuyển hóa thành hành động.

Xét trên khía cạnh đó, dù nghe có vẻ nghịch lí nhưng đôi khi, những thứ bản thân ngỡ như đã quên lại còn quan trọng hơn cả những thứ bản thân vẫn nhớ. Đơn giản là vì chúng ta có thể kiểm soát được ý thức nhưng không thể kiểm soát được tiềm thức. Một người bình thường không làm điều gì ác, bỗng dưng một ngày y khiến mọi người ngỡ ngàng vì hành động ác bất chợt của mình, mầm mống của cái ác được gieo vào đầu y từ những hình ảnh bạo lực trong tiềm thức sau bao ngày bị nén chặt dưới lòng đất, cuối cùng đã trỗi dậy. Một trong những cách gần như duy nhất để chúng ta ngõ hầu kiểm soát được tiềm thức của mình là cố gắng rải vào nó càng nhiều hình ảnh tốt đẹp, hoặc càng nhiều hình ảnh đau buồn về cái đẹp bị hủy diệt, càng nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy. Việc này có thể thông qua các trải nghiệm nghe nhìn khi thưởng thức tác phẩm nghệ thuật hoặc thông qua kinh nghiệm đời sống. Và Life Navigator 25 – một người không có cơ thể, không bị giam giữ tù túng trong một khối vật chất, và vì thế vô định hình, hầu như không người phàm nào có thể nhìn thấy nhưng lại muốn giúp nàng tăng cường ý chí, sức mạnh tinh thần đã chọn cách tạo ra những sức mơ mang màu sắc hủy diệt và cho nàng không chỉ chứng kiến chúng mà còn thực sự sống trong chúng, có thể thay đổi chúng nếu ước muốn của nàng đủ mạnh.

Thông qua hành động liên tục mơ rồi liên tục thức dậy, liên tục nhớ và liên tục quên của nàng, chúng ta có thể nhận thấy ở đây vai trò hay ý nghĩa tương tự của việc đọc, rằng việc đọc một quyển sách đôi khi chẳng khác gì việc mơ một giấc mơ. Giống như những giấc mơ, đa phần chúng ta rồi cũng sẽ quên những cuốn sách mình đã đọc nếu như không bao giờ đọc lại nó lần thứ hai. Theo một thống kê, khoảng 80% những gì chúng ta đọc sẽ không trở lại trong tầm mắt ta lần nào nữa, đó là lí do ta thường hay quên những gì mình đã đọc. Vậy nên, đã bao giờ bạn từng có câu hỏi này chưa: nếu trước sau gì tôi cũng sẽ quên cuốn sách tôi sắp sửa đọc thế thì sau một thời gian, việc tôi đọc nó có khác gì với không đọc nó đâu? Nếu như bạn đã từng có câu hỏi như vậy, nghĩa là bạn đã rơi vào tâm trạng giống nàng khi nàng tự hỏi tại sao cứ phải mơ những giấc mơ mà bản thân sẽ quên; và như thế, rất có thể bạn sẽ đồng cảm với nàng. Câu hỏi ấy và hành trình tìm câu trả lời của nàng nhắc chúng ta nhớ rằng việc đọc cũng là để kiểm soát tiềm thức theo một cách có ý thức, sao cho bản thân tránh được việc gây ra sự tổn hại đến những sinh thể khác.

Sự giống nhau của những sinh thể

Trong tác phẩm Nếu một đêm đông có người lữ khách, Italo Calvino từng đề cập đến việc nếu làm phép thống kê cho thấy những cụm từ nào được sử dụng nhiều nhất trong một văn bản thì ta sẽ nắm được phần lớn tinh thần của tác phẩm đó mà không nhất thiết phải đọc hết văn bản, hoặc có thể xem đó như một cách giúp ta hiểu hơn về văn bản. Điều này cũng tương tự như khi ta vào thăm trang WordPress hay website riêng của một người nào đó mà chưa đọc bất cứ bài viết nào nhưng nhìn vào những tag họ sử dụng nhiều nhất, ta có thể biết được các chủ đề họ quan tâm, phần nào đó là tính cách của họ, thậm chí nếu bằng trực giác tốt hơn, ta có thể biết họ có hợp với ta hay không. Vậy thì, trong Life Navigator 25 nhóm từ nào được lặp đi lặp lại thường xuyên nhất? Tôi không dùng bất cứ công cụ nào để thử tính toán nhưng bằng cảm giác chủ quan khi đọc, tôi nhận thấy những từ được lặp lại nhiều nhất trong tác phẩm này là: giấc mơ, tiếng hét, bản thể, sinh thể… Trong đó, tôi muốn nhấn mạnh đến chữ sinh thể. Ở rất nhiều trường hợp, thay vì dùng chữ con người, Cao Đăng dùng chữ sinh thể. Ở nhiều trường hợp khác, thay vì dùng chữ động vật, Cao Đăng cũng dùng chữ sinh thể. Và trong nhiều trường hợp rải rác khắp tác phẩm, thay vì dùng kết hợp hai chữ con người và động vật, hay người và thú, Cao Đăng vẫn lựa chọn dùng chữ sinh thể để chỉ chung cả hai. Chữ sinh thể xuất hiện với mật độ đáng chú ý như thế cho thấy nỗ lực của tác giả trong việc cố gắng tạo sự bình đẳng giữa người và vật (không chỉ động vật mà cả thực vật). Chẳng phải rằng dù là người hay vật, khi đang sống cũng đều là những sinh thể giống nhau hay sao? Chẳng có gì khác biệt ở đây cả. Chỉ cần không có cái chết cách biệt, mọi thứ đều giống nhau ở chỗ đang sống, đang tồn tại. Bản thân Life Navigator 25 đã có rất nhiều đoạn đề cao tình yêu bình đẳng giữa người và thú, lên án cách đối xử tàn bạo của con người với động vật, thế nhưng ngay từ một chi tiết nhỏ là cách gọi tên, cách dùng từ như thế lại càng cho người đọc thấy rõ hơn tình yêu, sự trân trọng của tác giả dành cho loài vật.

Mở rộng khả thể cho một bản thể

Trong Life Navigator 25, Cao Đăng sử dụng rất nhiều những câu văn dài. Nếu làm một phép ước lượng, tôi áng chừng câu văn dài chiếm khoảng 80% đến 90%; trong khi đó, những câu ngắn chỉ nằm ở mức 10% hay 20%. Điều này có thể khiến cho một số người đọc không quen sẽ cảm thấy mệt mỏi vì trong một đoạn văn dài thường không có sự thay đổi nhịp điệu linh hoạt. Tuy nhiên, nếu nói anh viết theo dòng ý thức đến mức không cho độc giả nghỉ ngơi thì không đúng. Chỉ là, anh ít dùng dấu chấm để kết thúc câu nhưng trong một câu dài thì lại sử dụng nhiều dấu phẩy để ngắt từng thành tố trong câu, hoặc dùng những từ như “hay”, “hoặc” để đưa ra nhiều giả định khác nhau cho cùng một vấn đề. Dưới đây là một câu ví dụ cho việc này:

“Và, như một con vật, cũng như tất cả mọi con người đều đồng thời hay trước hết hay về cơ bản hay về thực chất là con vật, hắn cảm thấy được trong máu hắn điều mà óc hắn không đủ năng lực hiểu.”

Câu này có thể chọn lựa một nhóm mệnh đề duy nhất cho câu ngắn hơn như sau:

“Và, như một con vật, cũng như tất cả mọi con người đều đồng thời là con vật, hắn cảm thấy được trong máu hắn điều mà óc hắn không đủ năng lực hiểu.”

Khoảng thời gian đầu khi đọc Life Navigator 25, tôi cảm thấy rất thích thú với nhóm câu như thế này, chúng tạo ra một âm điệu lạ trong đầu tôi. Tuy nhiên, khi đọc đến khoảng giữa quyển sách, khi việc kết nối các nhóm mệnh đề lại với nhau bắt đầu khiến tôi thấy mệt mỏi, đôi lúc tôi thường tự hỏi sao anh không chọn hẳn một nhóm mệnh đề thôi để bỏ bớt những “hay”, “hoặc” cho câu văn gọn đi, dễ đọc hơn, dễ nắm bắt hơn. Nhưng tiếp tục đọc, càng đọc tôi càng hiểu được vì sao anh sử dụng nhiều những “hay”, “hoặc”. Có vẻ như, thông qua việc sử dụng nhiều nhóm câu như thế này, anh muốn chỉ ra sự bất toàn của vạn vật trong cuộc sống. Không bao giờ, một vật nào đó nằm nghiêng hẳn về một tính chất nào đó, tất cả đều nằm ở giữa lưng chừng hoặc thế này, hoặc thế kia. Bên cạnh đó, nhóm câu này cũng cho thấy sự quan sát tỉ mỉ, không bỏ lỡ bất cứ khoảnh khắc nào, sắc thái nào, chuyển biến dù nhỏ nhặt nhất nào của Life Navigator 25 khi anh sống. Nó biểu hiện cho việc anh nhìn ra được nhiều khả thể khác nhau trong cùng một bản thể, và anh đã thu nhận tất cả vào tâm thức của mình mà không triệt tiêu bất cứ khả thể nào cho dù chúng có nhỏ bé đến đâu chỉ để khẳng định duy nhất khả thể chiếm thế thượng phong. Và như thế, cuộc sống mở rộng không ngừng với nhiều cái-có-thể-là khác nhau. Và như thế, anh thực sự là người tình của cả thế gian.

Bên cạnh việc sử dụng nhóm câu “hay”, “hoặc”, Cao Đăng cũng thường sử dụng nhóm câu bị ngắt quãng nhiều lần bởi dấu ngoặc đơn như một cách để mở tính chất của sự vật được đề cập, hoặc mang ý giải thích thêm. Dưới đây là một câu ví dụ:

“Rồi thì hắn nhận ra (vẫn trong cùng một khoảng thời gian cực ngắn đó) rằng nếu hắn hành động thật nhanh, chạy theo con chó, đuổi kịp nó, túm lấy nó, ôm chặt nó vào lòng (không để nó vùng thoát ra được) rồi cắm đầu chạy theo hướng thích hợp (mà bản năng mách bảo hắn) thì hắn vẫn có cơ may thoát khỏi cái chết dưới dạng cái thân cây khổng lồ đang đổ xuống hắn…”

Vậy nên, tôi tạm kết luận rằng để quen với văn phong của Trần Tiễn Cao Đăng, người đọc phải chấp nhận tình trạng ngắc ngứ liên tục và các đối tượng được đề cập trong câu không ngừng phình nở ra nhiều khả thể khác của nó.

Những phác thảo vẽ chồng lên nhau

Không chỉ là với văn phong, bản thân tác phẩm Life Navigator 25 cũng là hiện thân cho sự mở rộng khả thể đối với một bản thể. Điều này trước tiên biểu hiện qua việc những nhân vật trọng yếu trong tiểu thuyết này đều không có tên cụ thể: Life Navigator 25 chỉ là số hiệu của chàng Life Navigator chúng ta được biết, nàng thì có một cái tên nằm trong hai câu thơ Đường mà ta sẽ không bao giờ biết rõ từ nào trong đó thuộc về tên nàng, người nàng yêu hay người yêu nàng hay người Life Navigator 25 chọn để thỉnh thoảng nhập vào cũng chỉ được ta biết tên viết tắt là T. Chính sự mơ hồ ấy phần nào đó cũng giúp cho khả năng mở rộng bản thể của những đối tượng này được nhân lên nhiều lần.

Nếu như Life Navigator 25 chủ yếu chỉ xuất hiện trong giấc mơ và T. chủ yếu chỉ xuất hiện trong đời thực thì nàng lại xuất hiện xuyên suốt cả trong giấc mơ lẫn hiện thực. Vì vậy, có thể nói nàng là người xuất hiện nhiều nhất trong câu chuyện này. Tuy nhiên, điều đó không làm cho nàng trở thành nhân vật dễ hiểu, dễ nắm bắt mà có phần ngược lại: nàng càng xuất hiện nhiều, người đọc càng có thể thấy nhiều khả thể khác nhau của nàng thì nàng lại càng trở nên khó hiểu, khó nắm bắt hơn. Những gì chúng ta đã biết ở nàng liên tục được bổ sung, loại trừ, hòa nhập, tách biệt với những gì chúng ta sắp biết hoặc chưa biết ở nàng. Thế nhưng, có hẳn là Life Navigator 25 và T. dễ hiểu hơn, dễ nắm bắt hơn? Có hẳn là Life Navigator 25 chủ yếu xuất hiện trong giấc mơ và T. chủ yếu xuất hiện trong đời thực?

Thông qua việc đưa ra nhiều khả thể khác nhau, Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian dường như trở thành một bức phác thảo với nhiều chi tiết chằng chịt lẫn vào nhau, song không một chi tiết nào được tô đậm hơn chi tiết nào. Tất cả đều mờ nhạt, mơ hồ. Tựa như một họa sĩ vừa phác thảo xong một đối tượng đã nhìn thấy khả thể khác trong đối tượng ấy, bèn lấy khả thể vừa thấy được vẽ chồng lên phác thảo đầu tiên; trong quá trình này, người đó lại tiếp tục thấy những khả thể khác và cứ thế vẽ chồng lên mãi, lên mãi. Một nét vẽ chỉ được phết nhẹ một lần và không bao giờ quay trở lại để đồ đậm thêm. Cuối cùng, chúng ta có được bức tranh không hoàn chỉnh về những khả thể khác nhau. Hoặc có thể nói, ta có được bức phác thảo hoàn chỉnh và mãi mãi chỉ dừng lại ở phác thảo. Nhưng liệu cuộc sống có bao giờ trở nên thực sự hoàn chỉnh hay là phiên bản chính thức của một chủ thể nào đó chăng? Chính vì nó không hoàn chỉnh và liên tục mở rộng khả thể trong từng giây, một phần triệu triệu của giây mà chúng ta vừa tự do, vừa cô đơn như thế. Vừa thấy mình bất hạnh song cũng thật hạnh phúc.

Hết.

Kodaki

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng