Phía sau trang sách

Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian

Life Navigator 25 tồn tại thật lặng lẽ, khiêm nhường trong thế giới ấy. Nhưng, cũng chính điều đó đã biến chàng trở thành một người tình đích thực của cả thế gian, người biết cúi xuống để nâng những điều đẹp đẽ lên, người quan sát tinh tường để không bỏ lỡ bất cứ sát na nào của vũ trụ, người dịu dàng lắng nghe tiếng nói bên trong của người mình yêu.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, tiêu đề tác phẩm như thế sẽ dễ khiến người đọc nghĩ Life Navigator 25 là nhân vật chính của câu chuyện, chàng sẽ xuất hiện với tần suất dày đặc và nội dung truyện chủ yếu xoay quanh chàng. Tuy nhiên, Life Navigator 25 không xuất hiện nhiều trong truyện dưới bản thể là chính chàng. Người xuất hiện nhiều nhất là người chàng yêu, kế đến có lẽ là người yêu người chàng yêu. Life Navigator 25 tồn tại thật lặng lẽ, khiêm nhường trong thế giới ấy. Nhưng, cũng chính điều đó đã biến chàng trở thành một người tình đích thực của cả thế gian, người biết cúi xuống để nâng những điều đẹp đẽ lên, người quan sát tinh tường để không bỏ lỡ bất cứ sát na nào của vũ trụ, người dịu dàng lắng nghe tiếng nói bên trong của người mình yêu.

Slice of life được điểm xuyết bằng sci-fi

Trong Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian, có một sự kiện chính bao trùm toàn bộ tác phẩm, đó là ngày Tận Thế. Các sự kiện diễn ra trong tiểu thuyết này có thể chia thành ba giai đoạn: trước, trong và sau Tận Thế. Life Navigator 25 ra đời sau Tận Thế nhưng ý thức của chàng là phi thời tuyến, chàng có thể vượt qua mọi thời gian, mọi không gian, đi sâu vào bất cứ linh hồn nào để thấu hiểu họ như những người bạn Life Navigator khác của chàng. Trong thế giới ấy, chỉ có ba mươi Life Navigator chính thức được công nhận và Life Navigator 25 của chúng ta vừa là một Life Navigator vừa là một Dream Navigator (người có thể đi vào hoặc tái tạo thế giới trong giấc mơ của ai đó). Có lẽ, trong lúc chu du vô định, Life Navigator 25 đã tình cờ gặp “nàng”, nhìn thấy sự đặc biệt trong linh hồn nàng, sức mạnh tinh thần nàng và rồi cảm mến nàng.  Nàng, con người Trái Đất bình thường ấy còn cách xa Tận Thế cả hàng thế kỉ, nàng vốn không có chút dự cảm nào về ngày ấy. Nhưng với tình yêu dành cho nàng và tình yêu dành cho cả nhân loại, chàng đã cố gắng thông báo đến nàng điều ấy bằng cách gieo vào nàng hạt giống dự cảm mơ hồ qua những giấc mơ kì lạ. Và như thế, Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian là chuỗi câu chuyện xen kẽ giữa đời thực và giấc mơ, giữa ý thức và tiềm thức, giữa vật chất và tinh thần… để rồi càng tiệm cận đến cái kết (mà dường như không phải kết), ranh giới giữa các khái niệm này càng mờ nhòa đi.

Với đoạn mở đầu giải thích những khái niệm mới đặt trong viễn cảnh tương lai, Life Navigator 25 (từ đây đến cuối bài viết, xin được gọi tắt tên tác phẩm như thế) có lẽ sẽ dễ mang đến cho độc giả dự tưởng về một câu chuyện thuộc thể loại sci-fi sắp diễn ra phía trước. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này không hẳn thuộc về thể loại sci-fi. Cụ thể hơn, sci-fi không phải là cái khung để câu chuyện bám sát vào, sci-fi chỉ là một trong những yếu tố để kể chuyện, là thứ góp phần vào việc tạo chi tiết, tình tiết và không khí cho truyện, nó như một hoa văn được chạm trổ thêm trên nền bức tranh đã được định hình sẵn cơ bản về đường nét và màu sắc. Vậy, nét vẽ chính trong tác phẩm này là gì? Hẳn nhiên, với sự khảo sát tỉ mỉ của tác giả Trần Tiễn Cao Đăng về giấc mơ, về tâm lí con người, về cái ác, về vẻ đẹp, ta hoàn toàn có thể xếp tác phẩm này vào thể loại tâm lí – xã hội mà không sợ sẽ có sự sai sót quá lớn diễn ra ở đây.

Chứa đựng trong mình cả một thế giới mới với nhiều điều bí ẩn nhưng Life Navigator 25không sa đà vào việc dẫn dắt độc giả khám phá những điều bí ẩn ấy, cuốn tiểu thuyết này tập trung đào sâu vào điều cơ bản hơn và có lẽ cũng là quan trọng hơn: ý thức con người khi được biểu hiện lại dưới dạng hình ảnh tiềm thức trong giấc mơ mang ý nghĩa gì, hay ngược lại, liệu hình ảnh hiện ra trong giấc mơ chỉ còn được ghi nhớ bởi tiềm thức sẽ có tác động nào đáng kể lên ý thức không; cuối cùng, toàn bộ quá trình này để lại dấu ấn như thế nào trong tâm lí con người, trong những hành vi thiện – ác của họ giữa cuộc đời. Để trả lời những câu hỏi ấy, lẽ đương nhiên giấc mơ là thứ tối quan trọng và chiếm dung lượng đáng kể trong tiểu thuyết này. Nếu chia tỉ lệ nội dung giữa giấc mơ và đời thường, có lẽ con số sẽ là 50:50. Các chương về giấc mơ, các chương về đời thường đều đặn xen kẽ nhau tạo ra không khí slice of life thú vị, chúng ta như được theo dõi hàng ngày quá trình sinh hoạt của một người mơ và thức dậy nối tiếp nhau, các sinh hoạt khác đã bị lược bỏ đi hoặc không có tầm quan trọng chính yếu bằng hai cột mốc hành động ấy. Những câu chuyện trong giấc mơ và đời thường đôi khi bổ trợ cho nhau, đôi khi lại có rất ít sự liên quan đến nhau, điều này cũng giống như trong thực tế, chúng ta thường không lường được mình sẽ nằm mơ thấy những gì.

Bộ sưu tập những tiếng thét

Có thể gọi, loạt giấc mơ mà Life Navigator 25 mang đến cho nàng là bộ sưu tập về những tiếng thét. Trong giấc mơ ở chương Người đẹp và thú nhỏ, tác giả có đề cập đến bức tranh The Scream của Edvard Munch – điều này càng cho thấy rõ hơn dụng ý của anh khi giấc mơ nào cũng kết thúc hoặc có cao trào nằm trong tiếng thét của một ai đó, phần lớn là tiếng thét của nàng và đôi khi có tiếng thét của những người khác, rất nhiều người khác, một đám đông trong cơn vĩ cuồng. Giống như không gian bị bóp méo đến mức buồn bã bức bối trong The Scream, những giấc mơ của nàng hay của Life Navigator 25 cũng mang màu sắc tương tự như thế. Các giấc mơ đều khởi đầu bằng một điểm kì lạ nho nhỏ, không quá nổi bật song đủ gợi lên dự cảm về điều khốc liệt sắp diễn ra phía trước. Điểm kì lạ ấy như một thứ virus âm thầm mà hiệu quả, lan rộng nhanh chóng cả về phạm vi ảnh hưởng lẫn cấp độ nguy hiểm của nó. Cho đến khi mọi sinh thể trong không gian nàng có mặt đều bị tiêm nhiễm thứ virus ấy, cho đến khi mọi thứ khuếch trương đến đỉnh điểm, cho đến khi sức chịu đựng của nàng chạm ngưỡng giới hạn, một thứ gì đó dường như bị tiêu diệt đi, đồng thời một thứ gì đó vừa như được sinh ra, và nàng tỉnh giấc. Như bao người bình thường, nàng không thể nhớ rõ hết những hình ảnh, chi tiết trong các giấc mơ của mình, nàng chỉ nhớ được vài nét tiêu biểu của nó. Tuy nhiên, cảm giác kinh hãi mà những giấc mơ mang đến cho nàng vẫn luôn đọng lại rất rõ rệt sau khi thức giấc. Việc bị ám ảnh bởi một cảm giác nào đó nhưng lại không thể nhớ rõ nguồn cơn sinh ra nó khiến nàng đau khổ, nàng hỏi Life Navigator 25 hay là tự chất vấn chính bản thân mình rằng: “Tại sao em lại phải mơ những giấc mơ này? Nó có ý nghĩa gì? Tại sao lại cho em mơ nó để rồi khi tỉnh dậy em cũng sẽ quên nó hay phần lớn của nó?” Nàng không thể có được câu trả lời cho việc này, nhưng thông qua quá trình cùng nàng khám phá những giấc mơ, chúng ta hiểu được một điều tuy không mới nhưng luôn quan trọng: ý thức có thể quên nhưng tiềm thức luôn ghi nhớ, và tiềm thức một lúc nào đó có thể trở ngược thành ý thức, từ ý thức lại chuyển hóa thành hành động.

Xét trên khía cạnh đó, dù nghe có vẻ nghịch lí nhưng đôi khi, những thứ bản thân ngỡ như đã quên lại còn quan trọng hơn cả những thứ bản thân vẫn nhớ. Đơn giản là vì chúng ta có thể kiểm soát được ý thức nhưng không thể kiểm soát được tiềm thức. Một người bình thường không làm điều gì ác, bỗng dưng một ngày y khiến mọi người ngỡ ngàng vì hành động ác bất chợt của mình, mầm mống của cái ác được gieo vào đầu y từ những hình ảnh bạo lực trong tiềm thức sau bao ngày bị nén chặt dưới lòng đất, cuối cùng đã trỗi dậy. Một trong những cách gần như duy nhất để chúng ta ngõ hầu kiểm soát được tiềm thức của mình là cố gắng rải vào nó càng nhiều hình ảnh tốt đẹp, hoặc càng nhiều hình ảnh đau buồn về cái đẹp bị hủy diệt, càng nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy. Việc này có thể thông qua các trải nghiệm nghe nhìn khi thưởng thức tác phẩm nghệ thuật hoặc thông qua kinh nghiệm đời sống. Và Life Navigator 25 – một người không có cơ thể, không bị giam giữ tù túng trong một khối vật chất, và vì thế vô định hình, hầu như không người phàm nào có thể nhìn thấy nhưng lại muốn giúp nàng tăng cường ý chí, sức mạnh tinh thần đã chọn cách tạo ra những sức mơ mang màu sắc hủy diệt và cho nàng không chỉ chứng kiến chúng mà còn thực sự sống trong chúng, có thể thay đổi chúng nếu ước muốn của nàng đủ mạnh.

Thông qua hành động liên tục mơ rồi liên tục thức dậy, liên tục nhớ và liên tục quên của nàng, chúng ta có thể nhận thấy ở đây vai trò hay ý nghĩa tương tự của việc đọc, rằng việc đọc một quyển sách đôi khi chẳng khác gì việc mơ một giấc mơ. Giống như những giấc mơ, đa phần chúng ta rồi cũng sẽ quên những cuốn sách mình đã đọc nếu như không bao giờ đọc lại nó lần thứ hai. Theo một thống kê, khoảng 80% những gì chúng ta đọc sẽ không trở lại trong tầm mắt ta lần nào nữa, đó là lí do ta thường hay quên những gì mình đã đọc. Vậy nên, đã bao giờ bạn từng có câu hỏi này chưa: nếu trước sau gì tôi cũng sẽ quên cuốn sách tôi sắp sửa đọc thế thì sau một thời gian, việc tôi đọc nó có khác gì với không đọc nó đâu? Nếu như bạn đã từng có câu hỏi như vậy, nghĩa là bạn đã rơi vào tâm trạng giống nàng khi nàng tự hỏi tại sao cứ phải mơ những giấc mơ mà bản thân sẽ quên; và như thế, rất có thể bạn sẽ đồng cảm với nàng. Câu hỏi ấy và hành trình tìm câu trả lời của nàng nhắc chúng ta nhớ rằng việc đọc cũng là để kiểm soát tiềm thức theo một cách có ý thức, sao cho bản thân tránh được việc gây ra sự tổn hại đến những sinh thể khác.

Sự giống nhau của những sinh thể

Trong tác phẩm Nếu một đêm đông có người lữ khách, Italo Calvino từng đề cập đến việc nếu làm phép thống kê cho thấy những cụm từ nào được sử dụng nhiều nhất trong một văn bản thì ta sẽ nắm được phần lớn tinh thần của tác phẩm đó mà không nhất thiết phải đọc hết văn bản, hoặc có thể xem đó như một cách giúp ta hiểu hơn về văn bản. Điều này cũng tương tự như khi ta vào thăm trang WordPress hay website riêng của một người nào đó mà chưa đọc bất cứ bài viết nào nhưng nhìn vào những tag họ sử dụng nhiều nhất, ta có thể biết được các chủ đề họ quan tâm, phần nào đó là tính cách của họ, thậm chí nếu bằng trực giác tốt hơn, ta có thể biết họ có hợp với ta hay không. Vậy thì, trong Life Navigator 25 nhóm từ nào được lặp đi lặp lại thường xuyên nhất? Tôi không dùng bất cứ công cụ nào để thử tính toán nhưng bằng cảm giác chủ quan khi đọc, tôi nhận thấy những từ được lặp lại nhiều nhất trong tác phẩm này là: giấc mơ, tiếng hét, bản thể, sinh thể… Trong đó, tôi muốn nhấn mạnh đến chữ sinh thể. Ở rất nhiều trường hợp, thay vì dùng chữ con người, Cao Đăng dùng chữ sinh thể. Ở nhiều trường hợp khác, thay vì dùng chữ động vật, Cao Đăng cũng dùng chữ sinh thể. Và trong nhiều trường hợp rải rác khắp tác phẩm, thay vì dùng kết hợp hai chữ con người và động vật, hay người và thú, Cao Đăng vẫn lựa chọn dùng chữ sinh thể để chỉ chung cả hai. Chữ sinh thể xuất hiện với mật độ đáng chú ý như thế cho thấy nỗ lực của tác giả trong việc cố gắng tạo sự bình đẳng giữa người và vật (không chỉ động vật mà cả thực vật). Chẳng phải rằng dù là người hay vật, khi đang sống cũng đều là những sinh thể giống nhau hay sao? Chẳng có gì khác biệt ở đây cả. Chỉ cần không có cái chết cách biệt, mọi thứ đều giống nhau ở chỗ đang sống, đang tồn tại. Bản thân Life Navigator 25 đã có rất nhiều đoạn đề cao tình yêu bình đẳng giữa người và thú, lên án cách đối xử tàn bạo của con người với động vật, thế nhưng ngay từ một chi tiết nhỏ là cách gọi tên, cách dùng từ như thế lại càng cho người đọc thấy rõ hơn tình yêu, sự trân trọng của tác giả dành cho loài vật.

Mở rộng khả thể cho một bản thể

Trong Life Navigator 25, Cao Đăng sử dụng rất nhiều những câu văn dài. Nếu làm một phép ước lượng, tôi áng chừng câu văn dài chiếm khoảng 80% đến 90%; trong khi đó, những câu ngắn chỉ nằm ở mức 10% hay 20%. Điều này có thể khiến cho một số người đọc không quen sẽ cảm thấy mệt mỏi vì trong một đoạn văn dài thường không có sự thay đổi nhịp điệu linh hoạt. Tuy nhiên, nếu nói anh viết theo dòng ý thức đến mức không cho độc giả nghỉ ngơi thì không đúng. Chỉ là, anh ít dùng dấu chấm để kết thúc câu nhưng trong một câu dài thì lại sử dụng nhiều dấu phẩy để ngắt từng thành tố trong câu, hoặc dùng những từ như “hay”, “hoặc” để đưa ra nhiều giả định khác nhau cho cùng một vấn đề. Dưới đây là một câu ví dụ cho việc này:

“Và, như một con vật, cũng như tất cả mọi con người đều đồng thời hay trước hết hay về cơ bản hay về thực chất là con vật, hắn cảm thấy được trong máu hắn điều mà óc hắn không đủ năng lực hiểu.”

Câu này có thể chọn lựa một nhóm mệnh đề duy nhất cho câu ngắn hơn như sau:

“Và, như một con vật, cũng như tất cả mọi con người đều đồng thời là con vật, hắn cảm thấy được trong máu hắn điều mà óc hắn không đủ năng lực hiểu.”

Khoảng thời gian đầu khi đọc Life Navigator 25, tôi cảm thấy rất thích thú với nhóm câu như thế này, chúng tạo ra một âm điệu lạ trong đầu tôi. Tuy nhiên, khi đọc đến khoảng giữa quyển sách, khi việc kết nối các nhóm mệnh đề lại với nhau bắt đầu khiến tôi thấy mệt mỏi, đôi lúc tôi thường tự hỏi sao anh không chọn hẳn một nhóm mệnh đề thôi để bỏ bớt những “hay”, “hoặc” cho câu văn gọn đi, dễ đọc hơn, dễ nắm bắt hơn. Nhưng tiếp tục đọc, càng đọc tôi càng hiểu được vì sao anh sử dụng nhiều những “hay”, “hoặc”. Có vẻ như, thông qua việc sử dụng nhiều nhóm câu như thế này, anh muốn chỉ ra sự bất toàn của vạn vật trong cuộc sống. Không bao giờ, một vật nào đó nằm nghiêng hẳn về một tính chất nào đó, tất cả đều nằm ở giữa lưng chừng hoặc thế này, hoặc thế kia. Bên cạnh đó, nhóm câu này cũng cho thấy sự quan sát tỉ mỉ, không bỏ lỡ bất cứ khoảnh khắc nào, sắc thái nào, chuyển biến dù nhỏ nhặt nhất nào của Life Navigator 25 khi anh sống. Nó biểu hiện cho việc anh nhìn ra được nhiều khả thể khác nhau trong cùng một bản thể, và anh đã thu nhận tất cả vào tâm thức của mình mà không triệt tiêu bất cứ khả thể nào cho dù chúng có nhỏ bé đến đâu chỉ để khẳng định duy nhất khả thể chiếm thế thượng phong. Và như thế, cuộc sống mở rộng không ngừng với nhiều cái-có-thể-là khác nhau. Và như thế, anh thực sự là người tình của cả thế gian.

Bên cạnh việc sử dụng nhóm câu “hay”, “hoặc”, Cao Đăng cũng thường sử dụng nhóm câu bị ngắt quãng nhiều lần bởi dấu ngoặc đơn như một cách để mở tính chất của sự vật được đề cập, hoặc mang ý giải thích thêm. Dưới đây là một câu ví dụ:

“Rồi thì hắn nhận ra (vẫn trong cùng một khoảng thời gian cực ngắn đó) rằng nếu hắn hành động thật nhanh, chạy theo con chó, đuổi kịp nó, túm lấy nó, ôm chặt nó vào lòng (không để nó vùng thoát ra được) rồi cắm đầu chạy theo hướng thích hợp (mà bản năng mách bảo hắn) thì hắn vẫn có cơ may thoát khỏi cái chết dưới dạng cái thân cây khổng lồ đang đổ xuống hắn…”

Vậy nên, tôi tạm kết luận rằng để quen với văn phong của Trần Tiễn Cao Đăng, người đọc phải chấp nhận tình trạng ngắc ngứ liên tục và các đối tượng được đề cập trong câu không ngừng phình nở ra nhiều khả thể khác của nó.

Những phác thảo vẽ chồng lên nhau

Không chỉ là với văn phong, bản thân tác phẩm Life Navigator 25 cũng là hiện thân cho sự mở rộng khả thể đối với một bản thể. Điều này trước tiên biểu hiện qua việc những nhân vật trọng yếu trong tiểu thuyết này đều không có tên cụ thể: Life Navigator 25 chỉ là số hiệu của chàng Life Navigator chúng ta được biết, nàng thì có một cái tên nằm trong hai câu thơ Đường mà ta sẽ không bao giờ biết rõ từ nào trong đó thuộc về tên nàng, người nàng yêu hay người yêu nàng hay người Life Navigator 25 chọn để thỉnh thoảng nhập vào cũng chỉ được ta biết tên viết tắt là T. Chính sự mơ hồ ấy phần nào đó cũng giúp cho khả năng mở rộng bản thể của những đối tượng này được nhân lên nhiều lần.

Nếu như Life Navigator 25 chủ yếu chỉ xuất hiện trong giấc mơ và T. chủ yếu chỉ xuất hiện trong đời thực thì nàng lại xuất hiện xuyên suốt cả trong giấc mơ lẫn hiện thực. Vì vậy, có thể nói nàng là người xuất hiện nhiều nhất trong câu chuyện này. Tuy nhiên, điều đó không làm cho nàng trở thành nhân vật dễ hiểu, dễ nắm bắt mà có phần ngược lại: nàng càng xuất hiện nhiều, người đọc càng có thể thấy nhiều khả thể khác nhau của nàng thì nàng lại càng trở nên khó hiểu, khó nắm bắt hơn. Những gì chúng ta đã biết ở nàng liên tục được bổ sung, loại trừ, hòa nhập, tách biệt với những gì chúng ta sắp biết hoặc chưa biết ở nàng. Thế nhưng, có hẳn là Life Navigator 25 và T. dễ hiểu hơn, dễ nắm bắt hơn? Có hẳn là Life Navigator 25 chủ yếu xuất hiện trong giấc mơ và T. chủ yếu xuất hiện trong đời thực?

Thông qua việc đưa ra nhiều khả thể khác nhau, Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian dường như trở thành một bức phác thảo với nhiều chi tiết chằng chịt lẫn vào nhau, song không một chi tiết nào được tô đậm hơn chi tiết nào. Tất cả đều mờ nhạt, mơ hồ. Tựa như một họa sĩ vừa phác thảo xong một đối tượng đã nhìn thấy khả thể khác trong đối tượng ấy, bèn lấy khả thể vừa thấy được vẽ chồng lên phác thảo đầu tiên; trong quá trình này, người đó lại tiếp tục thấy những khả thể khác và cứ thế vẽ chồng lên mãi, lên mãi. Một nét vẽ chỉ được phết nhẹ một lần và không bao giờ quay trở lại để đồ đậm thêm. Cuối cùng, chúng ta có được bức tranh không hoàn chỉnh về những khả thể khác nhau. Hoặc có thể nói, ta có được bức phác thảo hoàn chỉnh và mãi mãi chỉ dừng lại ở phác thảo. Nhưng liệu cuộc sống có bao giờ trở nên thực sự hoàn chỉnh hay là phiên bản chính thức của một chủ thể nào đó chăng? Chính vì nó không hoàn chỉnh và liên tục mở rộng khả thể trong từng giây, một phần triệu triệu của giây mà chúng ta vừa tự do, vừa cô đơn như thế. Vừa thấy mình bất hạnh song cũng thật hạnh phúc.

Hết.

Kodaki

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng