Phía sau trang sách

1Q84 – Chỉ cần có anh, thế giới với em ở đâu cũng là hiện thực

Ngay từ đêm qua, khi những dòng cuối cùng về mối tình của Tengo và Aomame khép lại dưới thế giới chỉ có một mặt trăng, mình đã không sao ngủ yên. Có lẽ đối với độc giả của 1Q84 mà nói, đây là một cái kết hết sức hụt hẫng và nhạt. Vì cái cách ông mở ra năm 1Q84 có hai mặt trăng và Người Tí Hon mới hùng dũng làm sao, để rồi đóng nó lại mới giản tiện làm sao.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Aomame đã leo xuống cái cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc để lạc vào một thế giới mới với sự tồn tại không hiểu của cái thứ gọi là Nhộng không khí, lang thang cô đơn trong đó hết 3 cuốn tiểu thuyết, mỗi cuốn cỡ 500 trang A4 tiếng Việt, để rồi lại leo lên từ dưới lòng đất quay lại tuyến đường cao tốc ấy với Tengo theo sau, nắm tay nhau nhìn mặt trăng chỉ còn một cái rồi quyết định sẽ sống đời ở cái thế giới ấy. Khi gấp cuốn sách lại mình đã hết sức hoang mang, ông đã không giải quyết hết được mối tơ vò ông xây nên ở thời đại 1Q84, tổ chức Sakigake sẽ làm gì để đoạt lại Aomame, Người Tí Hon sẽ làm sao để tiếp tục được lắng nghe giọng nói, cái Nhộng không khí của Ushikawa sẽ cho ra thứ gì đây, cái thứ bé nhỏ trong bụng Aomame thực chất có nhiệm vụ gì, làm sao mà sinh trưởng?… Cái kết Haruki đưa ra cho 1Q84 khiến độc giả bước hụt một nấc thang quá lớn, chới với mất một lúc rồi vẫn chẳng hiểu mình đọc xong rồi sẽ phải làm gì tiếp theo, sẽ phải nghĩ sao về cuốn tiểu thuyết này, có nên chăng đọc lại từ đầu một lượt 3 cuốn? Hoang mang hết nửa ngày, đi qua đi lại, ăn rồi uống rồi ngủ rồi đi làm mà vẫn không hiểu sao ông lại đem kết chuyện như thế. Có cảm tưởng nếu đem câu này nói trước mặt ông, ông sẽ cười mỉm một cái thật nhẹ rồi nắm tay vợ mà nói, “tôi thích kết như thế thì sẽ là như thế đấy, có mua sách về đọc hay không là chuyện của cô”. Mình sẽ há miệng ra mà thở, chắc không tức giận gì đâu mà chỉ là ngạc nhiên thôi. Chuyện này đúng là đến giờ vẫn không hiểu được luôn.

1q84_by_cornymistick-d4wkzwl

Nhưng mà mình đọc xong 1Q84 lúc 3h đêm qua, sau đó đi ngủ một giấc gần 12 tiếng. Trước khi đi ngủ trong đầu vẫn hiện lên hình ảnh của Aomame và Tengo trên tầng cao chót vót của một khách sạn ở Asakasa, ôm nhau ngắm một mặt trăng. Khi tỉnh dậy vẫn nghĩ về họ. Đọc truyện tranh mà hết một trang, giữa lúc lật sang trang mới lại nghĩ về họ. Định đi viết thứ này thứ kia lại vẫn tiếp tục nhìn thấy họ. Muốn xem nốt mấy tập cuối của Người giấu mặt vì chỉ có 2 ngày nữa là hết chương trình nhưng cũng chẳng có tâm trạng xem nữa. Muốn đi design hình thẻ cho nhà 4 cũng chả có đầu óc đâu. Mà hình như chẳng phải chỉ có tinh thần, trái tim mình cũng ngập tràn mùi vị từ thế giới đó. Hình ảnh lúc nào cũng như một bức hình rửa ra từ camera đặt trộm trong phòng khách sạn ở Asakasa ấy. Phòng tắt đèn tối om, bóng lưng hai người đứng cạnh nhau, quấn chăn, ôm nhau, mặt ngước lên trời. Ánh trăng thì sáng vằng vặc. Cái kết rõ ràng là một nhát bước hụt, vậy mà sao hình ảnh đó lại in trong đầu rõ nét đến thế mình cũng chẳng hiểu ra nổi. Chính vì không hiểu ra nổi nên càng phải lấy tay lần mò trong mớ hỗn độn cảm xúc của mình, đến khi sờ được nó ra thành vật hữu hình, mang nó ra sáng mà xem cho thoả thích thì mới chịu được. Cũng may là không dài đến độ mất 3 cuốn tiểu thuyết mới tìm ra, cách đây một tiếng trong lúc rửa chén đã phát hiện ra rồi.

Dưới góc độ một độc giả của 1Q84, cái kết này hơi khó chấp nhận thật, nhưng với một độc giả của Haruki thì cái kết cuộc này là một bất ngờ lớn. Từ cái bất ngờ này người ta nghiệm lại toàn bộ 3 cuốn tiểu thuyết một lượt và nhận ra cái khác của ông trong thiên truyện này so với Kafka bên bờ biển hay Cuộc săn cừu hoang chẳng hạn. Khi đọc cuốn 1 và cuốn 2, mình đã quá quen với văn phong của Haruki rồi và đã nghĩ là, cách duy nhất để độc giả không chán giọng văn của một tác giả quen thuộc là làm cho họ yêu thích nhân vật trong truyện đó, điển hình ở đây là Aomame hay Tengo hay thậm chí Ushikawa hay Fukaeri vậy.

Mình thực lòng rất thích Aomame. “Cô độc một mình cũng không sao. Chỉ cần thật lòng yêu một người, cuộc đời sẽ được cứu rỗi.” Aomame đã mạnh mẽ thốt ra câu nói đó với chính mình, người đã kiên nhẫn sống trong cô đơn, ăn, ngủ, tập thể dục, đi giết những thằng đàn ông hành hạ phụ nữ, làm tình với những người hói đầu đúng theo sở thích của cô, và nhớ về Tengo với tất cả tấm lòng mình. Chỉ cần có anh trong lòng, dù có được ở bên anh hay không cũng không quan trọng. Chỉ cần có sự thật đó, thế giới đối với em ở đâu cũng là hiện thực, dù có đến mấy mặt trăng đi chăng nữa. Chỉ cần có anh, Tengo. Một Aomame mạnh mẽ nắm lấy tay cậu bé Tengo khi còn mười tuổi trong lớp học thoảng gió, hai mươi năm sau vẫn là Aomame đi tìm và dẫn Tengo đi khỏi thế giới 1Q84. Aomame với tình yêu kiên định hơn bất cứ điều gì trên đời, tin vào tình cảm của mình hơn bất cứ sự hoang tưởng nào trên thế giới. Nàng có thể sống mãi đến già đến chết với tình yêu đó trong lòng, trăng xuống nước lên một lòng một dạ không hề đổi thay. Đối với Aomame, Tengo là một nửa tâm hồn, mảnh ghép khăng khít nhất của nàng trong sinh mạng này, một khi nàng còn sống. Không, có lẽ cả khi chết đi rồi, Aomame cũng chỉ có Tengo thôi. Xét trên góc độ nào đi nữa, Aomame cũng là hình tượng phụ nữ lý tưởng của các cô gái thời nay. Giỏi giang, ưu tú, sống thẳng thắn, thành thật, kiên định với đức tin của chính mình và có ai đó để yêu. Không bao giờ bối rối trước câu hỏi tại sao ta tồn tại. Không bao giờ thắc mắc vì sao mình lại yêu. Có lẽ từ thời Naoko của Rừng Nauy đến nay, Haruki mới tạo ra được một nhân vật nữ tuyệt vời ngang ngửa như thế.

tumblr_nasnvrBTAj1qjd1kgo1_1280

Nhưng mình đang viết về Aomame và Tengo, cùng với sự bất ngờ của cái kết 1Q84. Sự đào bới ý thức trong lúc rửa chén đã cho ra kết quả thật hài lòng quá: hình ảnh trọn vẹn của hai người bên nhau ngắm thế giới một mặt trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho phong cách của Haruki khi tuổi đã chín muồi, khi trái tim ông đã đậm mùi thời gian. Tất cả độc giả của Haruki sẽ nhận ra rằng hiếm có truyện nào của ông lại kết thúc bằng một cảnh yêu đương trọn vẹn và đủ đầy như thế. Sự thể này dường như có thể phân tích thành hai tiêu điểm, là mình nghĩ thế: cái tôi tìm được mang hình người và sự vững vàng đặt chân trở lại thế giới cùng với cái tôi tìm được đó. Hầu hết các tác phẩm của Haruki đều nói về hành trình đi tìm một điều gì đó đã mất trong tâm hồn nhân vật, để rồi sau khi đã vật lộn trải qua những biến động nào đấy không tưởng tượng nổi, họ sẽ trở về chốn ban đầu với nút thắt được tháo mở đâu đây, và lại hoang mang không biết tương lai mình sẽ trôi về đâu phía trước. Hiếm khi kết thúc với tình yêu, càng hiếm thấy sự vững vàng kiên định. Ở thiên truyện này, Aomame và Tengo đi tìm cái tôi đã mất của mình, chính là nhau. Thứ mất mát trong lòng họ mang hình hài con người, với đầy đủ tay chân, mắt mũi, cơ quan tính dục và một trái tim đang đập rộn ràng. Thứ giữ họ kiên định với cuộc đời và chính mình là tình yêu. Thế nên khi tìm được nhau rồi, họ có thứ để bảo vệ, có chỗ dựa để tiếp tục bước về phía trước. Aomame và Tengo là hai linh hồn vừa khít cho nhau, chỉ thuộc về nhau, hai mặt của một chiếc lá, hai nửa của một vầng trăng. Tìm được nhau rồi, cùng nhau ngắm trăng, nắm chặt tay nhau, cùng bảo vệ thứ nhỏ bé đang lớn lên trong bụng người con gái. Sự ấm áp giản dị mà tròn trịa vô cùng, chưa từng có ở bất cứ tác phẩm nào của Haruki khiến người ta vừa ngỡ ngàng lại vừa ám ảnh. Kể từ lúc đọc thấy hình ảnh như từ camera chụp trộm ấy, chỉ cần thốt lên hai cái tên “Aomame và Tengo” thôi cũng đủ thấy lòng mình ám áp xiết bao rồi. Liệu có ai, ở đâu, lúc nào tìm được một tình yêu trọn vẹn, hoà hợp, thuộc về nhau khắng khít đến thế không?

Haruki viết về tình yêu đã khác trước rồi. Tình yêu trong lòng nhân vật của ông giờ đây vững vàng như đỉnh núi Fuji, như trăng lên nước xuống từ thời thượng cổ đến giờ, mãi không thay đổi. Yêu một người không nhất thiết phải ở cạnh người đó, không nhất thiết phải nắm được tay nhau. Chỉ cần ta có yêu là sẽ được cứu rỗi. Không biết tình yêu này có phải là tình yêu ông dành cho người vợ của mình không? Dù đã biến đổi qua năm tháng, nhuốm thẫm vị thời gian, nó chỉ càng kiên định hơn mỗi ngày. Cái tôi cũng đã hữu hình rồi. Năm 1Q84 có biến động ra sao cũng không xoay vần được số mạng của Aomame và Tengo nữa. Cả thứ nhỏ bé đang lớn lên kia cũng vậy.

4c62fb129f77d04f7e5bbaed12acf137

Haruki luôn đến với mình thật đúng lúc. Năm 17 tuổi cũng thế, bây giờ cũng vậy. Kết thúc những dòng cuối cùng của cuốn sách với dòng nước ấm áp mang tên Aomame và Tengo trong tim, mình đã chảy nước mắt và hỏi tại sao lại ngay đúng lúc này, ngay thời điểm khó khăn này lại mang đến giấc mơ về một tình yêu hoa mộng như thế. Lỡ mình cả đời cũng chẳng tìm được ai như Aomame tìm thấy Tengo thì sao? Thì cuộc đời mình vĩnh viễn sẽ không được cứu rỗi ư?

Dù thế nào cũng cám ơn ông rất nhiều vì đã luôn đến thật đúng lúc. Thay đổi thế giới quan của mình, thay đổi cả tình yêu trong mình nữa.

Dù đã muộn, vẫn chúc ông sinh nhật hạnh phúc và một tuổi mới mạnh khoẻ, an lành. Mong ông tiếp tục sống thật điềm tĩnh và yên ấm để viết ra những con người tuyệt vời như Aomame, như Tengo.

Murakami-sensei, otanjou-bi omedetou gozaimasu!

Hết.

Lavender Trang


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng