Phía sau trang sách

Biên sử nước: Tới thời thoát thai

Published

on

Chẳng cách nào đóng lại được cơn hồng thủy đã mở – Biên sử nước

Không thể dừng lại được. Tiếng nước trầm trầm miên man. Lạnh lùng và bí ẩn – Thoạt kỳ thủy

Văn chương đương đại Việt Nam những năm gần đây có thể nói không nhiều đột phá. Từ những thế hệ tinh hoa cũ như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Huy Thiệp, Châu Diên, Dương Hướng; thế hệ cải tiến và tiếp nối sau này ngoài Nguyễn Bình Phương, Phan Triều Hải, Tạ Duy Anh và một số nhà văn gốc Việt bên kia bán cầu thì có thể nói là khá ảm đạm. Nguyễn Ngọc Tư từ lâu góp mặt vào văn đàn với tư cách một tiếng nói miền Tây, người phổ quát cái mùi phèn phèn chua chua của sông nước, phù sa thành ra bán chạy; người trở thành bảo chứng cho hàng ngàn bản in được ra mắt mà ngoài Nguyễn Nhật Ánh, chắc không ai khác ngoài chị làm được. Thế nhưng thế giới văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, ngoài cái mặn mòi chua xót cho phận đàn bà, ngoài cái không khí miền Tây phóng khoáng mà cù bất cù bơ, thì còn gì khác? Đôi khi ta thấy, chị lặp lại bản thân mình trong cái vùng đất cũng nhỏ bé chỉ như một chấm trên bản đồ. Với Biên sử nước, ít nhiều chị đã thay đổi. Vẫn bối cảnh ấy, vẫn câu chuyện ấy – nhưng cách tiếp cận đã khác hơn, đã sâu sát hơn và dấn thân hơn.

Những địa ngục song song

Cái tên Biên sử nước dễ gợi nên thứ gì đó dài đằng đẵng mà hào nhoáng tự trong chính bản thân nó, dù nghịch lý ở chỗ tiểu thuyết này chỉ dài đúng 125 trang về mặt ngoại vi. Điều này dễ hiểu, dễ cảm mà cũng không bất ngờ, vì hầu hết tiểu thuyết, truyện ngắn cũng như tản văn trước đó của chị – tất cả đều khinh thị độ dài. Dường như chị đương trở thành nhân vật của chính mình, biến hóa thành kẻ ăn chữ, ăn hết những gì thừa thãi, không cần thiết. Với độ dài và cái tên ấy, nó liền gợi nhớ một tác phẩm khác của Nguyễn Bình Phương – Thoạt kỳ thủy – khi cũng tương tự những mặt ngoại vi đó. Nếu Nguyễn Ngọc Tư làm nên không khí miền Tây hòa trộn bằng văn xuôi, câu văn tuy dài nhưng không thừa thãi mà ướp kĩ bằng nỗi xót xa đồng cảm cho phận đàn bà; thì Nguyễn Bình Phương biến hóa khôn lường với lối song tấu khi hình thức là văn xuôi nhưng nhịp điệu thực chất là thơ. Thoạt kỳ thủy là một tiểu thuyết, cũng là bài trường thơ với những câu ngắn, gọn, sắc, gấp gáp, thôi thúc mà đầy gợi hình. Hai người, hai cá tính, hai cách thể hiện; thế nhưng không gian của Nguyễn Bình Phương và Nguyễn Ngọc Tư dường như đã gặp và giao hòa nhau, chuếch choáng giữa một thế giới nội tâm và những hiển hình bên ngoài. Dù sâu dù nông, ít ra cả hai là một bàn tiệc đầy ắp vặn xoắn tinh thần, một phút nhìn lại, một phút ngó ngang.

Về mặt không gian, cả Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Bình Phương đều an toàn trong khoảng không thường thấy của mình. Nếu Nguyễn Bình Phương trải suốt các tiểu thuyết từ Những đứa trẻ chết già, Kể xong rồi đi cho đến Thoạt kỳ thủy là vùng Thái Nguyên với làng quê Bắc Bộ nhợt nhạt mà sôi âm ỉ lùng bùng; thì Nguyễn Ngọc Tư vẫn cù lao, sông rạch, bùn đất, sông con tẻ ra nhiều nhánh. Thế nhưng về mặt ngoại vi, đó dường như chỉ là bao tải chứa đựng nhân vật, cung cấp điểm nhìn cho độc giả dễ bề cảm nhận. Nhìn sâu một chút, đó còn là những điều khác. Linh Sơn, núi Hột hoàn toàn có thật ở đất Thái Nguyên; còn Cù lao Lẻ, còn vùng Yên Xuyên chỉ là hư cấu. Thế nhưng thật hay không, cả hai tác giả đều dựng nên đằng sau một phông nền hoàn chỉnh khác nhau cho sự cảm nhận.

Nếu Nguyễn Bình Phương viết về lãnh địa của nghề đập đá, mổ heo, giết lợn – nơi người bình thường và đám người điên sống cùng với nhau, thì Nguyễn Ngọc Tư mơ hồ và nhạt phai hơn về một nơi không có gió. Juan Rulfo đã khởi đầu Pedro Páramo bằng nơi không có gió, nơi nóng ngột ngạt và đi xuống mãi, thì cũng tương tự, Nguyễn Ngọc Tư và vùng đất của mình cùng chung đặc điểm như thế. Ở cái cù lao trống hoác, khó mà nhận biết có thứ như gió tồn tại. Không có tấm tôn sứt đinh để giật giũ từng chặp, không có quần áo phơi trên sào cho gió thao túng, không ngọn cỏ nào ngã rạp […] Không gió mà nghe lạnh, trời kín bưng. Có thể độc giả chỉ mơ hồ tưởng tượng về vùng cù lao vô danh – nơi mọi chi tiết nếu có trùng hợp chỉ là vô tình; thì cũng rất có thể, nó là một không gian thực, nhiều hơn hai chiều, mà một chiều trong đó là chiều các nhân vật này đã đi xuống mãi, xuống mãi để rồi bặt tích.

Những nhân vật trong cả hai tiểu thuyết đều mang trong mình những ám ảnh nhất định đối với cuộc sống. Nếu Nguyễn Ngọc Tư cho rất nhiều Phúc bồng bế con theo tìm đường hành hương về với Đức Ngài, thì với Nguyễn Bình Phương là cái ngột ngạt, tù túng, kìm nén, sục sôi của những nỗi niềm không được bày tỏ. Hành trình ôm con chạy đi chữa bệnh, quãng đường chạy trốn khỏi những ác tâm… tất cả tụ về nơi cù lao lẻ. Tính sông nước, bùn đất của Biên sử nước phá tan cái không khí ngột ngạt tương đồng của Nguyễn Bình Phương, mà có thể nói, không gian của Biên sử nước là một địa ngục miền Tây – nơi đó có sông, có nước, có mùi; khác xa với những địa ngục của Rulfo hay Nguyễn Bình Phương chỉ lửa, chỉ trăng và cái nóng ngột ngạt.

Những thân phận kìm nén

Những người đàn bà của cả hai tiểu thuyết đều kìm nén trong mình một nỗi tự do mong muốn giải thoát. Trong Thoạt kỳ thủy, những tình cảnh này thông qua bạo lực, dục tính, điên cuồng; còn với Biên sử nước điều đó nhẹ nhàng hơn, bình dị hơn mà cũng Tây phương hơn, như hình ảnh Đức mẹ sầu bi ôm thi hài Chúa. Ở đây, Nguyễn Ngọc Tư tạo ra một thế đối ngẫu đối với người đọc về mặt động cơ của cuộc chạy trốn. Rốt cuộc rồi thì, mục đích của việc chạy trốn là vì đứa con hay chính người mẹ? Chị Tùy theo Viễn để quên khóa nước, chị Cẩm và sự thờ ơ ghét bỏ của người sống chung, cô Phúc nhà ở trại mộc vì sự nhẫn tâm, chị Phúc phóng viên vì cuộc điều tra để rồi trở thành một người đàn bà đến với Đức Ngài. Đứng bên bến đò nhìn qua cái cù lao đang thoi thóp, giày lem bụi, ẵm con búp bê không biết của ai. Tôi người Yên Xuyên, tên Phúc.

Lần giở những lần tụ hội về cùng Đức Ngài của những cô Phúc, điều trở thành động cơ sau này của các chị gái đều là cấm đoán hay nỗi buông xuôi phó mặt cho đời. Trong nguồn cơn của cơn khởi thủy, chị Tùy sau khi chạy trốn đã nhận ra rằng Thứ hạnh phúc khiến người ta điên tiết. Chẳng người đàn bà nào thích ai đó hạnh phúc hơn mình. Không những đàn bà, mà cả đàn ông và cả loài người. Những người đàn bà của miền sông nước chạy đến để xin móng tay, buồng phổi, đôi mắt, cỏ cây, đất cát thuộc về Đức Ngài nhằm muốn thoát xác, trở thành những con bướm xinh tung tăng cả đời như chính chị Thu; nhưng họ cũng không thể ngờ, chính Đức Ngài và bản thể ấy cũng là dối lừa, là mất tự do, là ngọn lửa thù bởi Báo dành cho Cô Long. Đến cuối rồi thì, chẳng ai hạnh phúc, chẳng ai được gì; bởi toàn dối lừa, bởi toàn trêu ngươi và cơn hồng thủy một khi đã mở thì chẳng dừng lại được.

Trong Thoạt kỳ thủy, Nguyễn Bình Phương xây dựng nên nhân vật Tính với phong cách vô cùng kỳ lạ. Có những nhận định bảo Tính mắc chứng tâm thần nặng. Thế nhưng hãy nhìn xa hơn và thật bao quát, liệu Tính có đang bị điên trong cơn thảm sát đầy những ám ảnh? Theo tôi, thật ra Tính tỉnh hơn rất nhiều người, và anh chủ tâm chọn lựa cuộc sống trong vùng từ trường ấy. Chẳng kẻ tâm thần nào thơ mộng đến độ nhận thức được trăng, được máu, được rắn như chính y cả. Cả một xã hội bao quanh cậu Tính được Nguyễn Bình Phương tạo ra đều sống ức chế, không vì cái này, cũng vì cái khác. Trong đấy ít ra lũ điên, Tính và Hưng là tự do nhất, là thỏa mãn nhất. Cũng như Nguyễn Ngọc Tư vậy. Rốt cuộc đến cuối, những người đàn bà không căn cước lại sống đúng nhất và sung sướng nhất. Không kể chị Khùng, cô Phúc mắt bò không còn gắn chặt cửa hàng tiện lợi, chị Phúc thợ mộc không còn căm ghét chịu sự nhẫn tâm, cô Phúc phóng viên không còn thấy cha nhanh nhảu xả tang đến với vợ khác, cô Phúc mà cái bóng chỉ đẻ ra bóng, chỉ có ăn tim người mới đẻ ra người ai biết đẻ bóng hay người? Đó dường như là sự giải thoát.

Những hình tượng chính

Về phong cách viết – như đã nói trên, Nguyễn Bình Phương viết ngắn, gọn, mạch nhanh. Tưởng chừng lời văn trở thành lời thơ, vì nó vừa đủ, không dư, không thiếu, có vận động ngầm, ẩn dụ, hình tượng. Giữa những u mê tưởng chừng không kết thúc ấy, ít nhiều nỗi đau chiến tranh lần lượt hiện lên. Chi tiết Hưng mang gà gô về thờ cúng mẹ hay thằng điên chia đường phèn cho Tính, tất cả cho thấy rốt cuộc dở dở ương ương không đến mức tệ. Hình ảnh ở đây đạt được mức độ ám ảnh, thế nhưng dễ hình dung, liên kết và tưởng tượng – máu tây máu ta, máu anh máu chú, máu người máu vật cuối cùng rồi thì cũng là máu thôi – máu chiến tranh, máu ngục tù, máu đè nén, máu chia xa. Cũng cái máu vô hình ấy, Nguyễn Ngọc Tư thu lại như cơn mưa tới, tống vào đường ống, xả tràn không thôi từ chính xô nước đầy ngập xà phòng, mà chỉ ai vặn mới có thể tắt, trước khi con tàu vờn tới chỉ chờ thả khói. Chị Tùy cũng như anh Tính, không ai muốn quay đầu lại. Chị biết, anh biết những gì xảy ra nhưng rồi bất lực cuốn phăng mọi thứ. Một thế giới mới, một ngọn lửa tham, một vùng biển nước – xóa trắng, thành hình và tái sinh.

Hình tượng con cú bị thương quắp đi con rắn mơ hồ là dòng sông quê trong Thoạt kỳ thủy như kéo biển nước từ dòng sông máu phủ lên tất cả. Con cú bị thương ở ngay ngực ấy được nước nuôi dưỡng, cũng như con tim Đức Ngài đã bị cắm phặp xuống dưới đáy bùn sình. Nước bao quát, phủ khắp trang văn của Nguyễn Ngọc Tư, nước đến cuối xuất hiện để rồi vỡ oà dưới những móng vuốt của loài cú đêm trong Nguyễn Bình Phương đều là khởi thủy làm lại từ đầu. Cả hai tác giả đã mượn chính cơn hồng thủy tuôn trào kéo tới xóa đi cái ngột ngạt tự do, xóa đi kìm hãm tột cùng ẩn sâu để đến một thế giới mới, thanh tẩy, xóa trắng và làm lại. Chẳng cách nào đóng lại được cơn hồng thủy đã mở. Không thể dừng lại được. Tiếng nước trầm trầm miên man. Lạnh lùng và bí ẩn. Mắt chó vàng như trăng.

*

Khép lại cả hai cuốn sách, Nguyễn Bình Phương và Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến được một góc nhìn khác cho văn chương đương đại Việt Nam của những ngày này. Nguyễn Bình Phương vẫn thế, đứng đó chứng tỏ vị thế của mình với lối viết đẹp, phong cách mới lạ mà đầy thách thức. Không gian của Nguyễn Bình Phương luôn là ranh giới giữa mơ và thực để rồi vỡ toang trong cơn ám ảnh của những kìm nén đến thời ào ra. Và với Biên sử nước, Nguyễn Ngọc Tư cũng dấn thân vào đó, viết như mơ, như trôi; về con nước cuốn phăng làm lại từ đầu.

Hai cuộc giải phóng, hai cuộc thoát thai; với Biên sử nước và Thoạt kỳ thủy, một Nguyễn Bình Phương luôn được công nhận, và một Nguyễn Ngọc Tư trên con đường mới, tìm ra hướng đi cho văn chương mình. Thoạt kỳ thủy đậm đặc, Biên sử nước pha loãng; nhưng đều quan trọng và ghi dấu mình. Rất xứng đáng.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát


Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng