Chuyện người cầm bút

Gong Ji Young – Con gái người độc tài

Published

on

Gong Ji Young là một trong những nhà văn nữ hàng đầu của làn sóng mới tại văn học Hàn Quốc những năm 1980-1990. Ở ngoài đời, Gong là một người cởi mở, thẳng thắn và nhiệt tình sôi nổi khi bàn luận đến những chủ đề lớn như dân chủ, chế độ độc tài và các trạng thái khác nhau về sự quan sát của người phụ nữ.

Gong Ji Yong đã bán được hơn 10 triệu bản sách tại Hàn Quốc. Cô nhận được các giải thưởng như: 2011 Yi Sang Literary Award (tạm dịch: giải văn học Yi Sang 2011), the 21st Century Literary Award (giải thưởng văn học thế kỉ 21), the Korean Novel and Literature Award (giải thưởng cho Tiểu thuyết và Văn chương Hàn Quốc),giải thưởng Special Media Award (giải thưởng truyền thông đặc biệt) từ Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International) dành cho quyển sách Yêu người tử tù.

Bản dịch tiếng Anh của tiểu thuyết Yêu người tử tù được phát hành tại Mỹ với tiêu đề Our Happy Times vào ngày 1.7.2014. Đây là một trong những tác phẩm văn học Hàn Quốc đầu tiên tấn công vào thị trường quốc tế và nhận được sự chú ý. Chỉ sau ngày xuất bản ở thị trường Mĩ một tháng, Phương Nam Books đã mua bản quyền cuốn sách này và xuất bản tại thị trường Việt Nam từ ngày 31.7.2014.

Cuốn tiểu thuyết mới của cô My sister, Bongsoon kể câu chuyện về một người giúp việc thất học, làm việc vất vả thông qua góc nhìn của một cô bé mới năm tuổi nhưng sớm phát triển. Trong một chừng mực nào đó, có phải cuốn sách này là tự truyện của cô không?

Tất cả sách của tôi đều là tự tuyện ở chừng mực nào đó, nhưng hơn cả tự truyện, chủ đề chính là tôi muốn miêu tả Seoul khoảng thời gian ấy, khoảng thời gian công nghiệp hóa từ những năm 1960 đến 1980, cách họ vượt qua như thế nào, những người cũng đã chứng kiến quá trình đó như tôi, cũng học đại học vào những năm 80.

Ba trong số những cuốn sách của cô, bao gồm cả Yêu người tử tù đã được chuyển thể thành phim. Cô thích nhất là bản chuyển thể nào?

The Crucible; hai bản chuyển thể còn lại đi hơi xa nội dung cuốn tiểu thuyết của tôi, nhưng bản chuyển thể của The Crucible (dựa trên câu chuyện có thật về những đứa trẻ ở trường khuyết tật dành cho người khiếm thính bị các giáo viên bạo hành tình dục) lại gần hơn với tiểu thuyết gốc của tôi. Và xét về mặt điện ảnh, bộ phim đó cũng nhận được đánh giá cao. Hơn nữa, hiệu ứng của phim lớn đến nỗi nó đã thật sự gây chấn động đến cả chính phủ. Cuối cùng, còn hình thành một pháp chế gọi là “Đạo luật the Crucible” (The Crucible law); tiêu đề lấy từ tên cuốn sách của tôi, và những đứa trẻ đã lấy lại được thân phận của mình, được xóa tên ra khỏi bản cáo buộc sai lầm, hung thủ thật sự bị bắt. Việc đó đã là một nhân tố lớn trong sự thay đổi của chính phủ.

Cảm thức về công lí của cô bắt nguồn từ những thay đổi trong giới học sinh và giới lao động từ thập niên 1980. Phải chăng những tác phẩm của cô đã tác động phần nào đến chiến thắng trong việc giành quyền lợi cho phụ nữ, công nhân, học sinh ở Hàn Quốc ngày nay?

Tôi muốn trả lời câu hỏi này dựa trên góc nhìn văn chương từ những kinh nghiệm mà tôi có được. Nếu nhìn ngược trở lại thời gian, có thể thấy tôi bắt đầu viết từ cách đây 27 năm, và 10 năm đầu tiên tôi tập trung hoàn toàn vào những vấn đề chính trị bởi thời điểm ấy đất nước chúng tôi đang sống trong chế độ độc tài. Tôi thật sự không cần sử dụng quá nhiều năng lực tưởng tượng, mà chỉ cần một ai đó gửi cho tôi những vấn đề chính trị họ bức xúc. Trong khoảng thời gian đầu của thế kỉ này, sau khi Hàn Quốc trở thành nước dân chủ dưới thời của Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun, chúng tôi thật sự cảm thấy có thể mở rộng trí tưởng tượng của mình ra, và dưới thời dân chủ này, tác phẩm đầu tiên tôi viết là My Sister, Bongsoon. Yêu người tử tù cũng là tác phẩm ra đời trong khoảng thời gian này khi tôi cảm thấy rất, rất lạc quan. Sau khi Lee Myung Bak trở thành tổng thống sáu năm tước, nền dân chủ của chúng tôi lại có vẻ thoái lui và tôi cảm thấy trí tưởng tượng của mình bị hạn chế. Ngày nay, tôi nghĩ ngày càng có nhiều người viết để chống lại những vấn đề chính trị, vì thế tôi dự đoán rằng sắp tới sẽ càng xuất hiện thêm nhiều tác phẩm liên quan đến chính trị. Đó là quan sát của tôi.

Đâu là điểm cải tiến và thất bại tiêu biểu nhất trong xã hội Hàn Quốc kể từ những năm đầu tăng trưởng kinh tế và bước vào thời kì dân chủ?

Tôi nghĩ phần nào đó những quyền lợi của phụ nữ được cải thiện; dù không phải tất cả nhưng phần nào là như thế, đặc biệt hơn khi so sánh với quyền lợi của những công nhận. Tôi nghĩ đã có nhiều cải tiến cho quyền lợi của tầng lớp lao động.

Sách của cô có phát hành ở Triều Tiên không? Dưới hình thức chính thống hay phi chính thống?

Vâng, tôi biết rằng họ có tiếp cận với những quyển sách của tôi. Tôi đã từng ở đó vào năm 2005. Họ dường như rất thích quyển My Sister, Bongsoon nhưng phần lớn không phải là những người dân bình thường nói về quyển sách của tôi, những Đảng viên mới là người thích sách của tôi, và điều đó làm tôi cảm thấy có một chút không thoải mái. Những cuốn sách của tôi không được xuất bản ở đây, nhưng có lẽ họ lấy được chúng từ thư viện. Bởi vì Bắc Hàn và Nam Hàn vẫn sử dụng chung một ngôn ngữ, về mặt kĩ thuật mà nói họ cũng không cần xuất bản lại chúng ở đây. Tôi không nghĩ rằng sẽ có lúc nào đó họ xuất bản những cuốn sách của các nhà văn Nam Hàn một cách chính thống tại Bắc Hàn.

Cô có thể nói một chút về giải thưởng Special Media Award (tạm dịch: giải thưởng truyền thông đặc biệt) từ Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International) dành cho quyển sách Yêu người tử tù với ý nghĩa rằng nó đã góp phần trong việc tăng sự phản đối dành cho án tử hình?

Đây là giải thưởng có ý nghĩa nhất mà tôi từng nhất. Tổ chức Ân xá Quốc tế tại Hàn Quốc có nguồn tài trợ rất ít, vì thế giải thưởng họ cho tôi chỉ là một món quà nhỏ nhưng cũng khiến tôi hạnh phúc kinh khủng.

Cô đã làm việc với Sora Kim-Russell như thế nào cho bản dịch tiếng Anh của cuốn tiểu thuyết này?

Chúng tôi không giữ liên lạc nhiều, nhưng thỉnh thoảng có trao đổi email, đặc biệt là về một số thuật ngữ nhất định hoặc văn nói ở Hàn Quốc, bởi vì Sora lớn lên ở Mĩ.

Sora từng viết rằng cô ấy đã gặp khó khăn với sự im lặng, sự khiếm khuyết, sự mỉa mai, những lí do và sự tuyệt vọng khi dịch giọng kể của Yoo Jeong. Những vấn đề đặc trưng nào mà một dịch giả phải đối mặt khi dịch từ tiếng Hàn sang tiếng Anh?

Tôi nghĩ những vấn đề chủ yếu xuất phát từ cách chúng tôi thể hiện cảm xúc. Ví dụ như khi tôi miêu tả sự tức giận của Yoo Jeong một cách gián tiếp thông qua điệu bộ cô nằm phịch xuống, có lẽ những người sử dụng tiếng Anh khó lòng nào hiểu được đây là một biểu hiện của sự giận dữ; bởi vì họ có thể nghĩ rằng đó là một điệu bộ hoặc một tư thế khiến họ cảm thấy thoải mái. Vì thế, tôi nghĩ phần lớn những khó khăn cô ấy gặp phải cũng thuộc những tình huống như thế.

Vào tuổi nào cô bắt đầu nhận ra mình muốn trở thành một nhà văn?

Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nhà văn, thậm chí là trong tưởng tượng, nhưng khi ở độ tuổi mới lớn tôi đã từng lúc nào cũng đem theo bên mình các hợp tuyển sách. Lần đầu tiên tôi nghĩ về việc viết là sau khi tôi được ra khỏi tù. Tôi đã bị bắt giam vào năm tôi 26 tuổi, và khi đó đang là mùa đông, nhiệt độ xuống dưới mức âm, tôi đã nghĩ rằng mình sắp chết, rồi tôi nghĩ rằng nếu tôi được ra khỏi đây, hoặc khi tôi ra khỏi đây, tôi sẽ làm công việc mà tôi thích làm, và tôi ngạc nhiên với chính mình: đó là việc trở thành tiểu thuyết gia thực thụ.

Tại sao cô bị bắt giam?

Tôi bị bắt trong một cuộc biểu tình sinh viên và ở tù khoảng một tháng. Đó chỉ là một bản án ngắn hạn, nhưng những vách tường ở trong tù không có sách, không có thứ gì để đọc. Việc duy nhất tôi có thể làm là suy nghĩ. Tôi thật sự trân trọng khoảng thời gian đó – tôi biết ơn cảnh sát và chính quyền. Tôi luôn nói rằng tôi được sinh ra là nhờ Park Chung Hee, nhà độc tài 18 năm ở Hàn Quốc, bởi vì trước khi ông nắm quyền, cha tôi được gửi qua Mĩ học tập để phụng sự chính quyền, và sau đó khi cha tôi đã ở Mỹ được 5 năm, Park Chung Hee lên nắm chính quyền trong một cuộc đảo chính, vì thế, cha tôi phải trở về và tôi được sinh ra. Vậy nên tôi cũng phải cảm ơn Park Chung Hee vì tôi đã được sinh ra trên cuộc đời này. Rồi tôi cũng hay nói đùa về Chun Doo Hwan, một nhà độc tài quân sự khác vào khoảng thời gian tôi bị bắt giam, đó là nhờ ông mà tôi mới trở thành tiểu thuyết gia.

Ngôi nhà vui vẻ

Cô nghĩ gì khi được mọi người nói đến như một nhà văn ‘nữ quyền’?

Trước tiên, tôi không cảm thấy thoải mái với cái nhãn ‘nữ quyền’, tôi không thích việc đó, bởi vì nếu tôi là một người đàn ông, tôi cũng sẽ quan tâm đến những vấn đề này. Tôi thật sự nghĩ rằng có những sự khác biệt giữa công việc của một người phụ nữ và một người đàn ông, nhưng đó không phải là ý nói người này ở một vị thế cao hơn người kia. Mà có lẽ rằng phụ nữ đang ở trong một lợi thế bởi vì trong thế giới đương đại, chúng ta không còn phải bận tâm đến những thiên sử thi nữa, chúng ta có thể tạo ra những câu chuyện từ sự quan sát của ta về cuộc sống thường nhật, và tôi nghĩ rằng phụ nữ có khả năng quan sát, mô tả những điều bình dị kĩ lưỡng hơn đàn ông.

Cô có phán đoán được số lượng độc giả nữ so với độc giả nam đọc sách của cô ở Hàn Quốc và những nơi khác không?

Ở Hàn Quốc, người ta nói rằng 80% độc giả sách của tôi là phụ nữ và 20% là đàn ông, nhưng đây cũng là tỉ lệ bình thường của những người đọc thể loại tiểu thuyết nói chung, vì thế tỉ lệ này cũng không phải là riêng biệt cho những tiểu thuyết của tôi. Nhưng nếu như so với những nhà văn nữ khác, tôi nghĩ có lẽ mình có nhiều độc giả nam hơn.

Hiện tại, Hàn Quốc đang dưới thời của nữ tổng thống đầu tiên: Park Geun Hye, bà là con gái của Park Chung Hee theo đúng nghĩa đen. Cô nghĩ như thế nào về việc bà đã phá tiền lệ với tư cách là nữ chính trị gia tiên gia; và cô nghĩ gì về những chính sách của bà?

Như tôi đã nói ở trên, tôi không thích cái nhãn ‘nữ quyền’, và tôi cũng tin rằng không phải vì một người nào đó được sinh ra với giới tính sinh học là phụ nữ cũng sẽ khiến cho người ấy nữ tính, hoặc quan tâm hơn đến quyền lợi phụ nữ. Dù tổng thống là nam hay nữ, tôi không nghĩ điều này sẽ tạo nên sự khác biệt liên quan đến các vấn đề quyền lợi cho phụ nữ. Park Geun Hye là con gái của một nhà độc tài, ngoài ra cô ấy chẳng có trách nhiệm gì hơn cho việc đó, nhưng trên tất cả, những gì mà chúng ta có được trong hiện tại ở Hàn Quốc là kết quả lòng tham của chính chúng ta, nó sinh ra từ khao khát được giàu có về vật chất những thập niên 60. Tóm lại, tôi muốn nói rằng Park Geun Hye thật sự bộ được hết tất cả mặt xấu của đàn ông và phụ nữ.

Có triều đại chính trị nào ở Hàn Quốc, với những gia đình khác cũng nắm quyền theo kiểu như thế?

Không chỉ trong chính trị mà cả trong giới tài chính cũng như thế, những tập đoàn kinh tế trụ cột ở Hàn Quốc như Samsung và một số tập đoàn khác đều được điều hành bởi các thành viên trong gia đình.

Hết.

Kodaki

Bản gốc được thực hiện bởi Mark Reynolds, đăng tại Bookanista.

*

Tác phẩm của Gong Ji Young

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng