Phía sau trang sách

Giữa hai chúng ta: Tuổi trẻ hoang dại

Về mặt cảm xúc, “Giữa hai chúng ta” thật sự thành công trong vai trò này, và hơn ai hết, chính Sally Rooney xứng đáng là cây bút mới cho những tuổi trẻ vô cùng xanh xao.

Published

on

Kể từ sau WonderCall Me By Your Name, Normal People với tựa tiếng Việt Giữa hai chúng ta là cuốn sách tiếp nối gây được nhiều tiếng vang trong giới đọc sách ngay trước khi được chuyển ngữ và giới thiệu hồi đầu năm nay tại Việt Nam. Không dừng ở đó, với việc bộ phim chuyển thể được phát sóng trên kênh BBC ở Anh và Hulu ở Mỹ hồi cuối mùa xuân 2020 càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của nó. Chưa bàn về nội dung, việc được đề cử giải Man Booker 2018 hay được xướng danh “Tiểu thuyết hay nhất” giải Costa đã như bảo chứng cho tầm quan trọng của cuốn sách này. Với Giữa hai chúng ta, Sally Rooney đã viết nên một bản hòa tấu về tình yêu và tuổi trẻ vô cùng đặc sắc: trải dài từ khoảng trầm đau thương đến nơi cao lảnh lót của niềm tin, tình yêu và sự tha thứ. Nói không ngoa, Giữa hai chúng ta thật sự là cuốn sách mà những người trẻ cần đọc để vững tin hơn, để trân quý hơn tình yêu mà mỗi người họ vẫn hằng nắm giữ.

Nội dung cuốn sách xoay quanh hai nhân vật chính – Marianne và Connell, hai học sinh phổ thông đứng trước lằn ranh của trưởng thành và bản tính trẻ con. Nếu Marianne xuất thân trong gia đình giàu có nhưng đầy nỗi buồn, cô co mình và sống ở một thế giới khác; thì Connell – cậu trai Ireland điển hình tuy gia cảnh không quá nổi bật nhưng sắc vóc và tính cách như thể sinh ra dành cho trường học. Họ gặp gỡ và gắn kết ban đầu không hơn gì ngoài những tò mò dục tính. Thời gian làm con người ta lớn lên và nhận thức thay đổi, đây cũng là lúc họ tách nhau ra bởi những lựa chọn bên lề, nhưng cuối cùng rồi thì, thứ khiến họ trở về như một bản nguyên lại là tình yêu – thứ cảm xúc trải qua chông gai và đầy khó khăn để thật sự nhận ra nó thuộc về họ. Giữa hai chúng ta là một tiểu thuyết tiêu biểu dành cho tuổi trẻ, không chỉ về tình yêu, khờ dại; mà đan xen ở đó còn là màu xám của những nỗi lo đầu đời, của trầm cảm, tuyệt vọng và mất mát khi bỗng nhận ra cuộc sống không hẵng vận hành như một bộ phim. Và cuốn tiểu thuyết từ đó bắt đầu.

*

Điểm đáng khen đầu tiên có thể kể đến là Sally Rooney đã có một khởi đầu vô cùng phù hợp. Cây bút sinh năm 1991 kể câu chuyện về những người trẻ thuộc thế hệ cô một cách đầy đồng cảm và thấu hiểu. Họ đủ lớn để quyết định con đường mình, nhưng cũng đủ bé để khao khát trải nghiệm đi đến những vùng mới lạ hơn. Nếu Marianne là cô bé có sự cứng rắn đến từ nỗi đau; thì Connell là chàng trai đầy nhút nhát và mặc cảm về tình trạng mình. Nếu Rob hay Eric, Jamie thuộc phe chuyên bắt nạt phe yếu ở trường; thì Rachel hay Lisa là những mean girl chính hiệu. Bằng cách mở ra bầu không khí và sự phân vai đầy điển hình, Sally Rooney mở ra Giữa hai chúng ta bằng sự quen thuộc đầu tiên, và hơn ai hết chính những người trẻ như đang sống lại đời sống thật sự của mình, còn những người lớn có thêm cơ hội để rồi nhìn lại những năm tháng ấy.

Từ sự tiếp cận quen thuộc trên, Sally khai thác những yếu tố vẫn thường xảy đến với những người lớn chưa hoàn thiện này – sự tò mò về tính dục, những tình cảm ngốc nghếch, sự chia bè kéo lũ, sự giành tranh tình cảm hay hằng hà sa số những thứ khác. Chính trong những hoạt cảnh này, những nhân vật của cô hiện lên đầy sức sống và sự vận động. Nếu hai nhân vật chính đắm chìm trong sự khám phá bản thân với người còn lại, thì những mean girl hay cool boy chính hiệu lại đang làm chủ ở trường đại học. Và cũng từ trong những khoảnh khắc ấy, tính cách của họ dần dần hé lộ.

Sally tiếp đó khai phá những khoảnh vực sâu giữa mỗi nhân vật. Cô xây dựng Marianne và Connell gần như đối lập. Trong khi Marianne giàu có với danh tiếng gia tộc, thì Connell lại có gia đình gần như bê tha – nhiều người ngồi khám và Lorraine sinh cậu khi mới 17. Ở đó, cô cũng đi sâu vào cấu trúc gia đình của người phương Tây điển hình, khi ẩn đằng sau sự giàu có và sung túc là những bí mật muốn giấu – người mẹ lơ đãng và anh trai thường hay bắt nạt. Chính những sự kiện ấy gắn kết họ lại với nhau, và giữa họ xuất hiện từ lâu chính thứ tình cảm không thể tách rời.

Cũng chính vào những lần họ ở bên nhau này, Sally Rooney dần dần khắc họa nên cả bầu trời của những ước mơ, của những toan tính bình thường. Mỗi lần Connell hay Marianne đáp xuống khoảng giường của người còn lại, ta đều nghe thấy trong mỗi đoạn văn là thứ tình cảm non yếu đang mới cất lời. Marianne thông qua Connell như đang đi tìm một sự bảo bọc, về phía Connell – cậu chàng như lớn lên theo chính cách rất khác này. Họ bên nhau và hút cạn chút tuổi thanh xuân của mình, có cả phút giây hạnh phúc và lúc hờn ghen “Nếu cô khác với Connell thì sự khác biệt không xảy ra trong chính cô, trong sâu thẳm nhân cách cô mà xảy ra ở giữa họ, giữa sự tương tác”.

Cũng chính từ trong những khoảnh khắc ấy, tuổi trẻ hiện lên thật hoang dại nhưng đôi khi cũng đầy bi kịch. Ở đó, trong môi trường đại học đầy tính cởi mở, ta thấy họ được là chính mình và thật sự là mình. Những buổi tiệc thâu đêm, những lần làm tình, những tấm ảnh khiêu gợi… Tất cả gợi lên không hơn gì khác cái bồng bột và ham sống của tuổi trẻ. Họ ủng hộ nhau, phản bác và tranh biện lẫn nhau về chính trị, văn chương và đời sống con người; họ nhìn sâu vào bản chất nghèo nàn, sĩ diện và hơn hết là nỗi tị hiềm giữa họ với nhau. Họ làm nên một nguồn năng lượng tích cực, một đám mây tích điện những nguồn ham sống vẫn đang còn đập. Nhưng luẩn quẩn đâu đó, trong họ cũng là sự mất phương hướng, của lạc lối và cảm thấy đầy cô độc trên cuộc đời này. Nếu cái chết của Rob gây nên căn bệnh trầm cảm cho Connell khi những sắp đặt cuộc sống của anh đang dần đi vào ngõ cụt, khi chúng chạy tán loạn và không còn theo những gì anh nghĩ; thì nỗi ám ảnh bởi một gia đình thiếu trọn vẹn nơi Marianne lại bám riết và bám rễ vào sâu trong cô, biến cô trở nên thụ động và không gì hơn là một hình nhân để cho anh cô dễ dàng điều khiển.

*

Qua chính những chi tiết này, Sally Rooney làm nên Giữa hai chúng ta đậm đặc nhựa sống tuổi trẻ. Cô cấy vào đây chính những bước ngoặt mà người trẻ nào cũng hẳn đã từng trải qua: giữa những lựa chọn không biết bờ bến, giữa những tình cảm không thể phân biệt và hơn hết là những hiểu lầm, cơ hội vụt mất khi họ không biết níu giữ lẫn nhau. Nhưng cũng từ đây, điểm yếu của Giữa hai chúng ta dần dần hiện ra.

Chính những điển hình trong cách chọn nhân vật, cốt chuyện và nút thắt làm cho Giữa hai chúng ta trở thành một cuốn từ điển về tuổi mới lớn không hơn không kém. Nói thế không có nghĩa những chủ đề của Sally Rooney đã cũ hoặc không thể khai thác. Nói đúng hơn, cô thiếu nhiều hơn những sự tinh tế (hay cái thấu trải – nếu có thể nói thế) để viết nhiều hơn những khoảnh khắc này. Chúng thật đáng giá và đầy quý trọng nhưng Sally đôi lúc lại để cho chúng trôi tuột qua tay. Tôi từng nhớ những lúc khi ngồi nghiền ngẫm Người đọc của Bernhard Schlink, tuy cuốn sách đó và Giữa hai chúng ta không có quá nhiều điểm chung, nhưng một điểm chung lớn nhất nơi nhà văn người Đức làm được so với Sally là sự đi sâu tìm hiểu nhân vật. Tình cảm giữa một người lớn và cậu thiếu niên dĩ nhiên có nhiều khai thác và tính văn chương hơn so với người trẻ lứa tuổi đại học; nhưng nếu quy về cùng một mặt tình yêu, Sally dường như vẫn còn an toàn nhón chân bước trên lớp băng của sự thể nghiệm. Cô thiếu sự mạo hiểm cũng như đào sâu hơn nữa vào nhân vật mình. Họ có căn cước, nhân dạng và tính cách; nhưng dường như nó chưa đủ lớn trở nên đặc trưng cho một tác phẩm.

Ở một điểm khác, những diễn biến tâm lý nhân vật cũng nên được cân nhắc thêm. Vẫn không hiểu sao khi đã trải qua suốt khoảng thời gian từ trung lên đến đại học cùng nhau mà Marianne và Connell vẫn bao nhiêu lần trôi vụt qua nhau. Những cuộc đối thoại trên giường vẫn đầy thổn thức và còn đó cái tinh ranh của những khao khát tình yêu chưa được khỏa lấp; nhưng khi đối mặt với nhau họ trở nên xa lạ. Với những người nhạy cảm như Marianne hay lý trí như Connell, thiết nghĩ họ là người hiểu rõ nhất tâm cảnh riêng mình – nhưng với Giữa hai chúng ta, cả hai người họ dường như là những vũ trụ song song, ánh xạ lẫn nhau nhưng lại không thể đi đến cùng nhau.

Sự yếu đuối của Marianne cũng là một điều rất đáng nhìn lại. Ngay từ đầu vẫn không hiểu sao cô có thể chịu đựng dài lâu như thế, từ người anh hèn nhát đến Jamie bạo lực, từ Lukas vụ lợi đến Connell năm lần bảy lượt trêu ngươi. Cô có đầu óc, của cải và sự nhạy cảm; nhưng thật không hiểu vì sao vẫn luôn đứng đó như một cái bóng vô ảnh vô thanh, không một tiếng nói không lời đấu tranh. Nội tâm của nhân vật thật sự là một món ăn vô cùng quý hiếm mà chỉ đầu bếp lành nghề mới có thể động vào không gây biến động, riêng với Sally, đây chính là nơi cô cần khai thác và tập trung nhiều hơn nữa so với những gì đang được bày biện.

*

Khép lại Giữa hai chúng ta, đây thật sự là cuốn sách mang đến nhiều trải nghiệm. Bỏ qua những điểm bất hợp lý và những xử lý vẫn còn non tay, đây thật sự là một hành trang vô cùng cần thiết cho những người trẻ. Thêm một lần nữa, nó cho họ thấy tình yêu có thể tuyệt diệu đến mức độ nào; và tuổi trẻ, tuy nguy hiểm như gai hoa hồng, nhưng nếu trải nghiệm đúng người hợp lý và đúng thời điểm, nó còn tỏa ngát và đẹp đẽ còn hơn thế nữa. Với những người lớn, nó là ống dẫn đưa họ về lại một thời đã qua, một thời chưa xa nhưng vẫn đầy ắp kỷ niệm. Về mặt cảm xúc, Giữa hai chúng ta thật sự thành công trong vai trò này, và hơn ai hết, chính Sally Rooney xứng đáng là cây bút mới cho những tuổi trẻ vô cùng xanh xao.

Hết.

Ảnh đầu bài: I love books


Đọc tất cả bài viết của bí.


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng