Phía sau trang sách

Đung đưa trên những đám mây – “Khi em yêu, người ấy sẽ mãi là một phần của chính em.”

“Đôi khi em có thể viện nhờ đến sách vở, những bộ phim, những bản nhạc… nhưng rốt cuộc em phải tự mình cảm nhận thế giới, bằng đôi tay này, bằng trái tim này, và tự mình quyết định những điều em tin là đúng đắn. Những giọt nước mắt ấy, sự tổn thương, hay là máu… đang cố nói cùng em một điều gì có ý nghĩa.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Nếu qui đổi âm điệu văn phong thành những đường nét trong hội họa thì Đung đưa trên những đám mây của tác giả Nguyễn Hoàng Mai là bức tranh với những nét cong tròn mềm mại, tràn đầy nữ tính dịu dàng chiếm vai trò chủ đạo, định hình toàn bộ không khí câu chuyện. Sự nữ tính ấy không chỉ nằm trong giọng văn mà còn nằm trong hình tượng nhân vật: những nhân vật chính yếu trong câu chuyện này đều là những người phụ nữ chịu nhiều tổn thương trong quá khứ đang cố gắng đấu tranh để sống cho hiện tại.

Giọng văn dịu dàng của Hoàng Mai rất phù hợp với câu chuyện xen kẽ liên tục giữa quá khứ và hiện tại, giữa mơ và thực này. Đó là nét đặc trưng nhưng đôi khi chính nét đặc trưng này cũng hạn chế nhịp điệu câu chuyện: phần lớn câu chuyện như những tảng mây lững lờ trôi chậm chạp trên bầu trời với thứ tốc độ mà mắt thường khó nhận thấy. Nhưng phải chăng đó cũng chính là dụng ý của Hoàng Mai bởi tiêu đề tác phẩm là Đung đưa trên những đám mây (Be in the clouds), bởi khi thả hồn trên những đám mây con người thường không bận tâm lắm đến tốc độ của chính mình, của những thứ ngoại vi xung quanh đang xô đẩy mình về bất cứ phương hướng nào. Nhưng cũng giống như việc quan sát những đám mây, nếu mất kiên nhẫn vì sự chậm chạp của nó mà mắt ta lơ đãng nhìn về một hướng khác, đến lúc quay lại nhìn về vị trí cũ, ta ngạc nhiên vì những đám mây ấy đã dịch chuyển sang một vị trí khác. Trong lúc ta lơ đãng, những đám mây dường như cũng lơ đãng ấy trên thực tế vẫn dịch chuyển trong chính sự lơ đãng của nó. Và có lẽ, toàn bộ sự vận chuyển trong câu chuyện của Hoàng Mai, trong nội tâm của những nhân vật cũng đi theo cách thức như vậy: chậm nhưng không dừng lại, lơ đãng nhưng không hoàn toàn vô tri, trong từng giây phút đều cố gắng chạy trốn bản ngã nhưng đồng thời trong từng giây phút vẫn luôn cố gắng níu giữ ý thức phải đối mặt với bản ngã. Sự mâu thuẫn nội tại ấy có lẽ đến từ việc câu chuyện khởi nguồn bằng nỗi đau mất mát rất lớn của nhân vật chính: sự mất mát khiến cô muốn khắc sâu trong tâm trí về thứ-đã-từng-tồn-tại vì dường như cô là bằng chứng duy nhất cho sự tồn tại đã từng ấy, nhưng đồng thời nỗi đau khi phải đối mặt với nó lại khiến cô đôi lúc muốn quên đi.

Với kết cấu ba phần theo thứ tự: Mất – Tìm – Biển, rõ ràng cuộc tìm kiếm trong tác phẩm này khởi nguồn từ sự mất mát và câu chuyện cũng lấy chính sự mất mát để làm động lực tiến triển. Giống như tác phẩm kinh điển Trà Hoa Nữ của Alexander Dumas, ngay từ đầu, Hoàng Mai không che giấu nỗi buồn vì mất đi người thương yêu nhất của nhân vật “tôi”. Ngược lại, sự mất mát luôn hiện diện, lẩn khuất đâu đó trong câu chuyện, có lẽ không một giây phút nào “tôi” hoàn toàn quên đi nỗi đau ấy. Điều đó khiến cho toàn bộ tác phẩm này chìm trong màn sương u uẩn, thậm chí ngay cả những đoạn hồi tưởng hạnh phúc nhất dường như cũng không thể thoát khỏi ánh bạc nhàu của nỗi buồn dưới tác động thời gian. Nghĩa là, câu chuyện này ngập trong cảm xúc hơn là lí trí, chi tiết hơn là tình tiết. Vì thế, khi ta càng nhìn gần, những đường nét trong câu chuyện càng trở nên mơ hồ dù thoạt tiên, có lẽ nó đã cho ta cảm giác không khó để nắm bắt. “Không thể tái hiện bất cứ sự thực nào trong những trang viết, mà tất cả chỉ là những bóng hình, những ảo giác về một điều gì đó đã từng xảy ra. Ký ức dường như là một bảo vật khó chiều, càng cố chạm vào càng như xa lạ. Tất cả quá sống động nhưng tôi không sao có thể viết ra một cách dễ dàng.” Nhân vật “tôi” đã trải lòng như thế về quá trình viết lại tác phẩm này. Điều này phần nào tương tự như tâm sự của Vladimir Nabokov về tình yêu: “I think it is all a matter of love; the more you love a memory the stronger and stranger it becomes.” (tạm dịch: Tôi nghĩ đó là vấn đề của tình yêu; bạn càng yêu một kí ức nào đó, nó càng trở nên mãnh liệt và đồng thời xa lạ hơn.) Tác phẩm Đung đưa trên những đám mây cũng có tinh thần như vậy: khi nó càng đến điểm mãnh liệt nhất về cảm xúc thì cũng đồng thời đó là điểm mơ hồ nhất về sự thực. Câu văn sau đây có thể cho thấy rõ ràng điều đó: “Suốt nhiều ngày sau đó tôi không thể nói được gì, không ăn được gì, cứ ngập ngụa váng vất trong hương thơm của nắng mới, mùi máy sấy hăng hăng lẫn trong làn tóc ướt và nụ cười của chị mơ hồ dịu dàng.” Vế câu: “Suốt nhiều ngày sau đó tôi không thể nói được gì, không ăn được gì…” cho người đọc thấy một cảm xúc rất mãnh liệt, một sự thực hiển nhiên có thể chạm nắm được; thế nhưng vế sau đó “…cứ ngập ngụa váng vất trong hương thơm của nắng mới, mùi máy sấy hăng hăng lẫn trong làn tóc ướt và nụ cười của chị mơ hồ dịu dàng.” – vế này ngay lập tức khiến cho sự thực ở vế trước nhạt đi bớt, mọi sự lại chìm trong vẻ “mơ hồ dịu dàng” như “hương thơm của nắng mới”, như “mùi máy sấy hăng hăng”, như “làn tóc ướt và nụ cười của chị”. 

Dù tác phẩm Đung đưa trên những đám mây khởi nguồn từ sự mất đi người yêu thương và lấy động lực để bắt đầu bằng chính tình yêu ấy nhưng nó không phải là câu chuyện tình yêu theo nghĩa thông thường. “Tôi” từng nói với người cô yêu rằng: “Khi em yêu, người ấy sẽ mãi là một phần của chính em.” Vì thế, ta nên hiểu tình yêu trong tác phẩm này không chỉ là yêu người mình yêu mà còn là yêu bản thân mình, yêu chính hình ảnh của mình khi yêu người ấy. Do đó, sự mất mát ở đây không chỉ là mất đi người mình yêu, mà còn là mất đi một phần của chính mình. Vậy nên, cuộc tìm kiếm của nhân vật chính không ở ngoại vi mà ở nội giới, không ở khách thể mà ở chủ thể. Tất cả qui lại thành một câu hỏi chung nhất mà những người trẻ lạc lõng giữa xã hội nhưng đầy ý thức về chính mình thường hay tự hỏi bản thân rằng: “Rốt cuộc, tôi là ai?” Và “tôi” của Đung đưa trên những đám mây đã cố gắng tìm quên những ngày tuổi trẻ buồn bã của mình, hay có thể nói là tìm câu trả lời bằng rất nhiều tác phẩm văn chương, âm nhạc, điện ảnh được đề cập trong truyện.

“Đôi khi em có thể viện nhờ đến sách vở, những bộ phim, những bản nhạc… nhưng rốt cuộc em phải tự mình cảm nhận thế giới, bằng đôi tay này, bằng trái tim này, và tự mình quyết định những điều em tin là đúng đắn. Những giọt nước mắt ấy, sự tổn thương, hay là máu… đang cố nói cùng em một điều gì có ý nghĩa.”

Mimi – người yêu của “tôi” đã nói với “tôi” như thế. Và chính tác phẩm Đung đưa trên những đám mây dường như cũng đang cố nói cùng người đọc một điều gì có ý nghĩa.

Hết.

Vũ Lập Nhật

Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng