Trích đăng

Chương 2 “Lưỡng Giới” – Jeffrey Eugenides

“Đó là do tình yêu hay bản năng sinh sản? Tình cờ hay định mệnh? Tội ác hay sản phẩm của tự nhiên?”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Lưỡng giới

Tác giả: Jeffrey Eugenides

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: tháng 7.2019

Đọc Chương 1.

MAI MỐI

Khi câu chuyện này được lan truyền ra cả thế giới, biết đâu tôi sẽ trở thành kẻ lưỡng tính nổi tiếng nhất trong lịch sử.

Trước tôi đã có nhiều người khác. Alexina Barbin học trường nội trú nữ ở Pháp trước khi trở thành Abel. Cô để lại cuốn tự truyện mà triết gia Michel Foucault phát hiện ra trong tài liệu lưu trữ của Ban Vệ sinh Công cộng Pháp. (Các tập hồi ký, kết thúc trước khi cô tự sát ít lâu, không khiến người đọc thấy thỏa mãn, và chính sau khi đọc xong chúng nhiều năm trước mà tôi nảy ra ý tưởng viết hồi ký.)1 Gottlieb Göttlich, sinh năm 1798, sống với tên Marie Rosine cho tới năm ba mươi ba tuổi. Một ngày do bị đau bụng Marie tới khám bác sĩ. Bác sĩ kiểm tra xem cô có bị thoát vị không thì phát hiện cô bị tinh hoàn ẩn2. Kể từ đó, Marie mặc quần áo đàn ông, lấy tên là Gottlieb, rồi kiếm bộn tiền bằng việc đi vòng quanh châu Âu cho các bác sĩ săm soi mình.

Cứ theo mấy ông bác sĩ thì tôi còn hay ho hơn Gottlieb nhiều. Xét dưới khía cạnh hoóc môn của bào thai ảnh hưởng lên hóa học thần kinh và mô học, não tôi là não đàn ông. Nhưng tôi được nuôi nấng theo kiểu con gái. Nếu bạn định làm thí nghiệm kiểm tra mức độ ảnh hưởng của tự nhiên so với môi trường nuôi dưỡng, đời tôi là một thử nghiệm hoàn hảo. Trong khoảng thời gian tôi ở Phòng khám gần ba thập kỷ trước, bác sĩ Luce cho tôi làm không biết bao nhiêu xét nghiệm. Tôi được cho làm Xét nghiệm Khả năng Ghi nhớ Hình ảnh Benton và Xét nghiệm Thị giác-Vận động Cấu trúc Hình thức Bender. Chỉ số IQ về mặt ngôn ngữ của tôi được đo, cùng vô số thứ khác nữa. Luce thậm chí còn phân tích kiểu viết văn của tôi để xem tôi viết thẳng mạch theo kiểu đàn ông, hay vòng vèo theo kiểu đàn bà.

Tất cả những gì tôi biết là thế này: mặc cho bộ não bị tràn ứ hoóc môn nam, vẫn có một sự lòng vòng nữ tính bẩm sinh trong câu chuyện mà tôi buộc phải kể. Trong bất cứ lịch sử nào về di truyền. Tôi là mệnh đề cuối trong một câu ghép có mệnh đề phụ đứng trước, mà cái câu đó bắt đầu từ lâu lắm rồi, trong một ngôn ngữ khác, nên bạn phải đọc từ đầu thì mới hiểu được đoạn cuối, chính là sự ra đời của tôi.

Thành thử giờ đây, khi đã được sinh ra, tôi sẽ tua ngược phim, để cái chăn màu hồng bay mất, cái cũi vút lại qua sàn nhà trong khi dây rốn được nối lại, và tôi gào lên trong khi bị hút ngược lại vào giữa hai chân bà bô. Bà lại béo ú. Rồi quay trở lại nữa khi cái thìa ngừng đong đưa và cặp nhiệt độ vào lại hộp nhung. Vệ tinh Sputnik đuổi theo luồng sáng sau đuôi về lại bệ bắn và bệnh bại liệt rình rập vùng đất này. Vụt qua hình ảnh ông bô tôi hồi hai mươi tuổi chơi kèn clarinet, thổi một bản nhạc của nghệ sĩ Artie Shaw3 vào điện thoại, rồi ông ở nhà thờ, lúc tám tuổi, choáng váng vì giá tiền nến thánh; tiếp theo là ông nội tôi giật tờ hóa đơn đầu tiên thanh toán bằng tiền đôla Mỹ ra khỏi máy tính tiền hồi năm 1931. Rồi ra khỏi nước Mỹ hoàn toàn; chúng ta ở giữa đại dương, nhạc phim nghe ngồ ngộ khi chơi ngược lại. Một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước xuất hiện, và trên boong tàu xuồng cứu hộ đang rung lắc rất kỳ quặc; nhưng rồi tàu về lại bến, đuôi tàu trước, và chúng ta lại lên đất liền, nơi bộ phim bắt đầu chiếu, từ đầu…

Cuối mùa hè năm 1922, bà Desdemona Stephanides của tôi không dự báo chuyện sinh nở mà chết chóc, cụ thể là cái chết của chính mình. Bà đang ở trong trại nuôi tằm, tít trên sườn núi Olympus ở Tiểu Á, thì tim bà, không hề cảnh báo trước, lỡ một nhịp. Cảm giác rất rõ rệt: bà thấy tim mình ngừng đập rồi co siết lại. Rồi khi bà sững cả người ra thì nó bèn hối hả phi, thình thịch trên sườn. Bà khẽ rên lên ngỡ ngàng. Hai mươi nghìn con tằm, nhạy cảm với cảm xúc con người, ngừng kéo kén. Nhíu mắt dưới ánh sáng mờ mờ, bà tôi nhìn xuống thấy vạt áo bay phấp phới; trong khoảnh khắc đó, khi nhận ra cú nổi loạn trong người, từ lúc đấy cho đến cuối đời, Desdemona trở thành người ốm dặt dẹo bị cầm tù trong một cơ thể khỏe mạnh. Tuy nhiên, không chịu tin mình chả bị làm sao, tim đã im ổn trở lại cũng mặc, bà bước ra khỏi trại tằm trông xuống lần cuối cùng cái thế giới mà bà sẽ không rời bỏ trong năm mươi tám năm tiếp theo.

Bên ngoài cảnh đẹp hùng vĩ. Cố đô Bursa của đế chế Ottoman nằm ba trăm mét bên dưới, như một bảng cờ thỏ cáo trải qua thung lũng xanh rờn. Những ô hình thoi đỏ của mái nhà gạch ăn khớp với những hình thoi trắng trên nền nước vôi tường trắng. Đây đó, mộ các sultan nhấp nhô như các quân chip đánh bạc màu rực rỡ. Cái hồi năm 1922, ôtô còn chưa làm tắc phố phường. Thang kéo dân trượt tuyết còn chưa cắt phạm vào rừng thông trên núi. Các thể loại nhà máy luyện kim và dệt không réo ầm cả thành phố, làm không khí mù khói. Trông Bursa – ít nhất từ trên cao ba trăm mét – hệt như xưa, sáu thế kỷ trước, một thành phố thiêng liêng, bãi tha ma của dân Thổ Ottoman và trung tâm giao thương lụa, những con phố yên ắng, thoai thoải ken dày tháp giáo đường với cây bách. Những viên ngói trên Thánh đường Green Mosque4 theo năm tháng càng xanh thẫm hơn, nhưng chỉ có thế thôi. Tuy vậy, đứng từ xa chầu rìa vào, Desdemona Stephanides nhìn xuống bàn cờ và thấy được thứ mà các cờ thủ đã bỏ qua.

Dùng phân tâm học mà đọc vị cái bệnh đánh trống ngực của bà tôi thì nó như thế này: đây là biểu hiện của nỗi đau buồn. Cha mẹ bà đã chết – bị giết trong cuộc chiến gần đây với quân Thổ. Quân đội Hy Lạp, được các nước Đồng minh khuyến khích, xâm chiếm phía Tây Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1919, giành lại vùng lãnh thổ của Hy Lạp từ thời xa xưa ở Tiểu Á. Sau nhiều năm sống tách biệt mãi trên núi cao, người dân Bithynios, làng bà tôi, đã xuất đầu lộ diện trong vùng an toàn của Megale Idea – Tư tưởng Lớn, giấc mơ về một Đại Hy Lạp5. Quân đội Hy Lạp đóng chiếm Bursa vào thời điểm này. Cờ Hy Lạp bay phấp phới trên cung điện trước đây của Ottoman. Quân Thổ và thủ lĩnh, Mustafa Kemal6, rút về Angora ở phía Đông. Lần đầu tiên trong đời, dân Hy Lạp ở Tiểu Á thoát khỏi ách thống trị của quân Thổ. Những người không theo đạo Hồi (“những con chó ngoại đạo”) không còn bị cấm mặc quần áo sáng màu hay cưỡi ngựa hay dùng yên cương7. Không bao giờ còn chuyện như mấy thế kỷ qua, bọn quan lại Ottoman hằng năm vào làng bắt trai tráng khỏe mạnh nhất đi phục dịch trong quân đội Thổ. Giờ đây, khi đàn ông trong làng mang lụa đi bán ở chợ ở Bursa, họ là người Hy Lạp tự do, ở một thành phố Hy Lạp tự do.

Tuy vậy, Desdemona vì thương nhớ mẹ cha nên vẫn bị cầm tù trong quá khứ. Thế là bà đứng trên núi, nhìn xuống thành phố đã được giải phóng, và thấy như bị lừa bởi chả thấy sung sướng như mọi người. Nhiều năm sau, lúc góa bụa, khi đã trải qua một thập kỷ trên giường cố hết sức bình sinh để chết đi, cuối cùng bà cũng chịu thừa nhận rằng hai năm giữa chiến tranh nửa thế kỷ trước là thời gian đẹp đẽ duy nhất trong đời bà; nhưng đến lúc đó thì những ai bà quen biết đã chết sạch cả rồi và bà chỉ còn nói được điều này với cái tivi.

Gần một tiếng đồng hồ qua Desdemona cố làm việc trong trại tằm để bơ đi linh cảm của mình. Bà đi ra cửa sau nhà, qua giàn nho thơm ngọt, rồi băng qua mảnh sân vườn bậc thang đi vào túp lều thấp lợp rơm. Mùi ấu trùng hăng sè trong lều không làm bà khó chịu. Trại tằm là ốc đảo riêng bốc mùi nồng nặc của bà tôi. Khắp chung quanh bà, dưới một khoảnh trời, những chú tằm trắng mềm mại bám chặt vào những bó cành dâu con con. Desdemona ngó chúng dệt kén, đầu lúc lắc như theo điệu nhạc. Bà ngắm chúng mà quên đi cái thế giới đảo điên với bao biến động ngoài kia, với cái thứ âm nhạc mới kinh khủng (vài phút nữa thôi sẽ được xướng lên). Rồi bà nhớ lại lúc mẹ mình, Euphrosyne Stephanides, cũng đúng ở cái trại tằm này nhiều năm trước, tiết lộ bí mật về tằm – “Muốn được lụa tốt thì con phải tinh khiết,” bà thường bảo con gái. “Tằm nó biết cả đấy. Cứ nhìn chất lượng lụa của một người là biết ngay họ đã làm gì” – rồi cứ thế, Euphrosyne tuôn ra ví dụ – “Maria Poulos, cái con bạ thằng nào cũng giạng chân ấy? Con thấy kén tằm của nó chưa? Vết nhơ cho loài người. Lần tới nhìn thử mà xem” – lúc đó Desdemona mới mười một mười hai gì đó và tin sái cổ từng lời mẹ bảo, thành thử giờ đây, khi đã là một thiếu nữ hai mươi mốt tuổi, bà vẫn không tài nào bác bỏ sạch trơn những câu chuyện răn dạy đạo đức của mẹ, cứ săm soi các kén tằm tìm dấu hiệu ô uế của chính mình (những giấc mơ hằng đêm gần đây!). Bà cũng tìm xem ở chúng có gì khác nữa không, bởi mẹ bà cũng bảo rằng tằm phản ứng với những biến cố hung bạo trong lịch sử. Sau mỗi trận tàn sát, ngay cả một làng ở cách xa năm mươi dặm, tơ tằm đều biến thành màu đỏ máu hết – “Mẹ đã thấy chúng rỉ máu tựa như chính đôi chân Chúa Jesus đấy,” lại là lời Euphrosyne. Thế là nhiều năm sau con gái bà vẫn nhớ mà nhíu mắt dưới ánh đèn mờ để xem có kén tằm nào biến thành màu đỏ không. Bà kéo một khay tằm ra mà lắc lắc; bà lại kéo khay khác ra; đúng lúc đó bà thấy tim mình ngừng đập, siết chặt lại, rồi thoi vào bà từ bên trong. Bà làm rơi cái khay, nhìn vạt áo bay phấp phới do lực từ bên trong và hiểu rằng tim mình hoạt động theo chỉ dẫn của riêng nó, rằng bà không có quyền điều khiển nó, hay quả thực cũng không có quyền điều khiển bất cứ thứ gì khác.

Vậy là yia yia của tôi, bị căn bệnh tưởng đầu tiên, đứng dòm xuống Bursa như thể biết đâu tìm được một điểm hữu hình khẳng định cho nỗi sợ vô hình. Thế rồi điểm ấy đến dưới dạng âm thanh, từ trong nhà: em trai bà, Eleutherios (“Lefty8”) Stephanides, bắt đầu cất tiếng hát. Bằng một thứ tiếng Anh không hiểu nổi, phát âm sai be bét:

“Sáng sáng chiều chiều vui hem em ây,” Lefty hát, cứ chiều chiều đúng vào giờ này, đứng trước gương phòng ngủ, ông cài cổ áo bằng xen-lu-lô vào sơmi trắng mới, bóp chút sáp thơm (hương chanh) vào gan bàn tay rồi bôi lên mái tóc kiểu Valentino9 mới cắt. Đoạn hát tiếp: “Giờ này giờ nọ vui hem em ây.” Ông cũng chẳng hiểu lời bài hát, nhưng chỉ cần nhạc điệu là đủ. Nó kể với Lefty về thời đại nhạc jazz phóng túng, những món cốc tai rượu gin, về những em gái bán thuốc lá trong sòng bạc. Nó khiến ông vuốt ngược tóc rất kiểu cách… trong khi, ngoài sân, Desdemona nghe tiếng hát mà phản ứng khác hoàn toàn. Với bà, bài hát chỉ gợi đến những quán rượu tai tiếng em trai bà tạt vào khi xuống thành phố, những quán rượu nhỏ hút thuốc hasit nơi người ta chơi nhạc rebetiko với nhạc Mỹ và nơi bọn gái đĩ hát… khi Lefty mặc bộ vét kẻ sọc mới và gấp khăn mùi soa để túi màu đỏ tiệp với cà vạt đỏ… bà thấy chộn rộn trong người, nhất là ở bụng, cuộn lên bức bối vì đủ các thể loại xúc cảm phức tạp, buồn đau, giận dữ, và gì đó nữa bà không định rõ được nhưng lại làm lòng bà tan nát nhất. “Tiền nhà chưa trả, xe thì chưa tậu, cưng ây,” Lefty ngâm nga bằng giọng tenor ngọt ngào mà sau này tôi được thừa hưởng; còn dưới tiếng nhạc giờ đây Desdemona lại nghe thấy giọng mẹ mình, lời trăn trối của Euphrosyne Stephanides thốt ra ngay trước khi chết vì bị trúng đạn, “Săn sóc Lefty nhé. Hứa với mẹ đi. Tìm vợ cho nó!”… còn Desdemona, giàn giụa nước mắt trả lời, “Con hứa. Con hứa!”… tất cả những giọng này cùng một lúc cất lên trong đầu Desdemona khi bà băng qua sân vào nhà. Bà đi qua cái bếp tin hin nơi bà nấu bữa tối (cho một người) và tiến thẳng vào phòng ngủ dùng chung với thằng em. Ông vẫn đang hát – “Xèng thì chả mấy, nhưng cưng ây” – và cài măng séc, rẽ tóc; nhưng rồi ông ngước lên thấy chị gái mình – “Em ây có” – giờ thì rất khẽ – “vui” – rồi rơi vào im lặng.Trong một khoảnh khắc cái gương soi khuôn mặt hai người. Hai mươi mốt tuổi, rất lâu trước khi đeo hàm răng giả không khít mồm rồi lâm vào ốm đau bệnh tật do tự chuốc, bà tôi khá đẹp. Tóc đen dài tết bím bó lại dưới khăn trùm đầu. Những bím tóc này không mỏng mảnh như bé gái mà rất nặng và nữ tính, có sức mạnh tự nhiên, như đuôi hải ly. Bao năm tháng, bao mùa màng, bao loại thời tiết đã tích lũy vào những bím tóc này; tối tối khi tháo bím ra, tóc xõa xuống ngang hông bà. Lúc này, bím tóc được buộc bằng nơ lụa đen, nom càng ấn tượng hơn, nếu ta được nhìn thấy, mà trên thực tế thì không nhiều người lắm. Thứ dành cho người lạ thưởng lãm là khuôn mặt Desdemona: cặp mắt to âu sầu, nước da trắng hồng rạng rỡ. Tôi cũng nên nhắc tới, với chút đau nhói còn sót lại của đứa con gái từng có bộ ngực phẳng lỳ trước sau như một, cái thân hình đầy đặn khêu gợi của Desdemona. Cơ thể bà khiến bà xấu hổ không dứt. Nó lúc nào cũng phô bày bản thân theo cái lối mà bà không cho phép. Trong nhà thờ khi quỳ gối, trong sân khi đập thảm, dưới cây đào khi hái quả, những nét đàn bà của Desdemona thoát ra khỏi những câu thúc của những bộ quần áo nâu xám giản dị. Bên trên cái cơ thể cứ luôn nhún nhảy tưng tưng kia, khuôn mặt trùm khăn tách biệt hẳn ra, ngó xuống có phần khiếp đảm ý đồ của bọn hông với ngực.

Eleutherios thì lại cao với gầy hơn. Trong những bức ảnh chụp hồi đó trông ông giống mấy nhân vật giới đầu trộm đuôi cướp mà ông ngưỡng mộ, những tên trộm cướp với đánh bạc để một lớp ria mỏng tụ tập đầy những quán rượu ven biển ở Athens và Constaninople. Mũi khoằm, mắt sắc lẹm, toàn thể mặt ông nom tựa chim ưng. Tuy vậy, khi ông mỉm cười, ta thấy nét dịu dàng trong ánh mắt, khiến ta thấy rõ thực tình thì Lefty chả phải tay găngxtơ anh chị gì mà chỉ là cậu ấm mọt sách con nhà phong lưu được nuông chiều.

Cái buổi chiều mùa hè năm 1922 ấy, Desdemona không nhìn vào mặt em trai. Mắt bà lướt xuống cái áo vét, mái tóc bóng loáng, cái quần kẻ, khi bà cố tìm hiểu thằng em trong vài tháng qua trở chứng gì.

Lefty nhỏ hơn Desdemona một tuổi và bà thường tự hỏi làm thế nào mình sống qua mười hai tháng đầu tiên đó mà không có ông. Theo những gì bà còn nhớ được thì lúc nào ông cũng nằm bên kia cái chăn lông dê ngăn hai giường. Đằng sau tấm kelimi, ông biểu diễn múa rối, biến tay mình thành ông Karaghiozis10 lưng gù khôn ngoan luôn đánh lừa bọn Thổ. Trong bóng tối, ông bịa thơ thiếc rồi hát hò, nên một trong những lý do bà ghét cái thứ nhạc Mỹ mới lạ kia là vì ông chỉ hát cho mỗi mình ông nghe. Desdemona luôn yêu em với thứ tình yêu mà chỉ một cô chị gái từ bé đến lớn sống trên núi mới dành cho cậu em: ông là nguồn khuây khỏa duy nhất, bạn thân và người tâm tình, chiến hữu cùng khám phá ra những lối đi tắt và các am thầy tu. Hồi còn nhỏ, mối đồng cảm mà bà dành cho Lefty tuyệt đối đến nỗi đôi lúc bà quên mất họ là hai con người tách biệt. Lúc còn bé, họ lạch bạch đi bên sườn núi như một sinh vật hai đầu bốn chân. Bà quá quen mui bén mùi với cái bóng song sinh dính liền hắt lên ngôi nhà quét vôi trắng vào buổi tối, nên mỗi khi bắt gặp cái bóng lẻ loi của mình, bà cảm giác như nó đã bị cắt ra làm đôi vậy.

Thời bình dường như thay đổi mọi thứ. Lefty triệt để tận dụng những tự do mới mẻ. Riêng tháng rồi ông đã xuống Bursa tổng cộng mười bảy lần. Ông ngủ lại qua đêm đến ba lần ở quán trọ Kén Tằm đối diện Thánh đường Sultan Ouhan. Một sáng nọ ông ra khỏi nhà đi bốt, tất đến đầu gối, mặc quần ống túm, áo doulamas, với áo vét rồi tận tối hôm sau mới mò về nhà thì lại mặc bộ vét kẻ sọc, nơ lụa thắt ở cổ như ca sĩ opera còn đầu đội mũ quả dưa. Còn có những thay đổi khác nữa. Ông bắt đầu tự học tiếng Pháp từ cuốn sổ tay đàm thoại nhỏ màu mận. Ông nhiễm những điệu bộ giả tạo, đút tay vào túi lắc lắc tiền xu chẳng hạn, hay ngả mũ chào. Khi Desdemona giặt quần áo, bà tìm thấy nhiều mẩu giấy chi chít số má trong túi Lefty. Quần áo ông xộc mùi khói thuốc, xạ hương, thỉnh thoảng cả hương thơm nữa.

Lúc này đây trong gương, khuôn mặt sáp vào nhau của họ không thể che đậy được sự thật là họ đang tách dần nhau ra. Rồi bà tôi, nỗi âu sầu vỡ òa ra thành tiếng sấm rền trong tim, nhìn em trai như từng nhìn cái bóng mình mà thấy thiếu vắng một điều gì đó.

“Đi đâu mà diện thế?”

“Chị nghĩ em đi đâu chứ? Xuống Koza Han. Bán kén tằm.”

“Em vừa mới đi hôm qua còn gì.”

“Đang mùa mà.”

Cầm cái lược đồi mồi, Lefty rẽ tóc sang bên phải, thêm sáp thơm để bắt một lọn tóc cứng đầu phải ẹp xuống.

Desdemona lại gần hơn. Bà cầm sáp thơm lên hít hít. Quần áo ông không phải mùi này. “Ở dưới đó em còn làm những chuyện gì nữa?”

“Làm gì đâu.”

“Mấy lần liền em còn ở lại qua đêm.”

“Đường xa mà. Cuốc bộ xuống tới nơi trời tối mất rồi còn gì.”

“Em hút cái gì ở mấy quán rượu đó?”

“Trong ống shisha có gì thì hút cái đó. Chuyện tế nhị ai lại hỏi.”

“Bố mẹ mà biết em hút thuốc với uống rượu thế này…” lời bà truội dần đi.

“Bố mẹ đâu có biết được đâu?” Lefty nói. “Nên em chả việc gì nhá.” Cái giọng bông lơn cợt nhả của ông không đáng tin. Lefty cư xử như thể đã nguôi ngoai sau khi cha mẹ chết, nhưng Desdemona thì đi guốc trong bụng ông. Bà mỉm cười nghiêm nghị với em trai, rồi chả nói chả rằng mà giơ nắm tay ra. Vẫn ngắm mình trong gương, Lefty cũng tự động chìa nắm tay ra. Họ cùng đếm, “Oẳn tù tì ra cái gì ra cái… này!”

“Đá đập kéo. Chị thắng,” Desdemona nói. “Vậy kể chị nghe đi.”

“Chuyện gì?”

“Kể chị nghe dưới Bursa có gì hay ho thế.”

Lefty lại hất tóc tới trước rồi rẽ sang trái. Ông nhoài tới nhoài lui cái đầu trong gương. “Đằng nào đẹp hơn? Trái hay phải?”

“Để chị xem.” Desdemona cẩn thận giơ tay lên rồi vò nát tóc Lefty.

“Này!”

“Em muốn tìm gì ở dưới Bursa hả?”

“Để em yên.”

“Nói chị nghe đi!”

“Chị muốn biết à?” Lefty nói, bắt đầu cáu tiết với bà chị. “Chị nghĩ em muốn gì?” Bị dồn nén bấy lâu ông phun ra. “Em muốn một đứa con gái.”

Desdemona ôm lấy bụng, vỗ lên ngực mình. Bà lùi lại hai bước rồi đứng đó ngó thằng em bằng một ánh mắt khác. Trong đầu bà chưa bao giờ nảy ra cái ý nghĩ rằng Lefty, cặp mắt với đôi lông mày giống hệt bà kia, ngủ trên giường cạnh giường bà kia, lại bị một thứ dục vọng như thế ám ảnh. Mặc dù trưởng thành về mặt thể xác, Desdemona vẫn còn lạ lẫm với cơ thể mình. Đêm đêm trong phòng ngủ, bà từng thấy thằng em đang ngủ nằm ép sát vào nệm thừng như thể giận dữ với nó. Khi còn nhỏ, bà bắt gặp ông trong trại tằm, đang ngây thơ cọ cọ vào cái trụ gỗ. Nhưng những chuyện đó không để lại ấn tượng gì. “Em đang làm gì thế?” bà hỏi Lefty, hồi đó tám hay chín tuổi, đang siết chặt cái trụ, dịch đầu gối lên xuống. Bằng một giọng đều đều cương quyết, ông trả lời, “Em đang cố có cảm giác đó.”

“Cảm giác gì?”

“Chị biết mà” – càu nhàu, thở hắt ra, đầu gối đưa lên đưa xuống – “cái cảm giác đó.”

Nhưng bà không biết. Mãi nhiều năm sau này Desdemona khi đang cắt dưa chuột vô tình tựa vào góc bàn ăn, tựa mạnh hơn một chút, rồi sau đó vô thức đứng cái tư thế đó mỗi ngày, góc bàn ăn rúc giữa hai chân bà. Giờ đây lúc chuẩn bị bữa ăn cho em, thi thoảng bà lại thực thi thói quen cũ với cái bàn, nhưng không hề ý thức được. Chính cơ thể bà làm chuyện đó, với sự gian giảo và âm thầm của các cơ thể khắp thế gian.

Những chuyến đi xuống thành phố của em trai bà thì lại khác hẳn. Rõ ràng ông biết mình đang tìm kiếm cái gì; ông hiểu rất rõ cơ thể mình. Trí óc với cơ thể ông quyện thành một khối, suy nghĩ cùng một chuyện, chăm chăm một nỗi ám ảnh, và lần đầu tiên Desdemona không hiểu được suy nghĩ đó. Tất cả những gì bà biết là nó chẳng liên quan gì tới bà.

Nó khiến bà phát điên. Mà tôi ngờ cả hơi chút ghen tị nữa. Chẳng phải bà là bạn thân nhất của ông sao? Chẳng phải lúc nào họ cũng kể mọi thứ với nhau sao? Chẳng phải đích thân bà làm mọi thứ cho ông, nấu ăn, khâu vá, săn sóc nhà cửa như mẹ họ ngày xưa sao? Chẳng phải chính bà một tay đảm đương việc nuôi tằm để ông, đứa em nhỏ sáng dạ, được đi học đi hành tiếng Hy Lạp cổ chỗ linh mục đó ư? Chẳng phải chính bà bảo, “Sách vở học hành em lo đi, chị lo trại tằm cho. Em chỉ phải làm mỗi một việc là đem kén tằm đi chợ bán thôi.” Rồi khi ông bắt đầu la cà dưới thành phố, bà có càm ràm gì không? Bà có nhắc gì đến mấy mẩu giấy, hay đôi mắt đỏ ngầu, hay cái mùi xạ thơm ngòn ngọt trên quần áo ông không? Desdemona ngờ rằng thằng em mơ mộng đã trở thành con nghiện hasit. Nơi nào có nhạc rebetiko là y như rằng có hasit. Lefty đang chống chọi với cái chết của cha mẹ theo cách duy nhất ông biết, đó là ngụp lặn trong khói thuốc hasit mà nghe cái thứ nhạc sầu đời nhất hạng. Desdemona hiểu tất cả những chuyện này nên không càm ràm gì cả. Nhưng giờ đây khi bà thấy thằng em cố thoát khỏi nỗi buồn bằng cách mà bà không ngờ tới, thì bà không lặng thinh được nữa.

“Em muốn một đứa con gái á?” Desdemona hỏi giọng bàng hoàng. “Gái gì? Gái Thổ hả?”

Lefty chả nói chả rằng. Sau cơn bộc phát, ông bèn chải tóc tiếp.

“Chắc em muốn một đứa tì nữ. Phải không? Em tưởng chị không biết gì về bọn đĩ, mấy con poutane11 đó hả? Chị biết hết. Chị không ngu đến thế đâu. Em khoái một con phốp pháp lắc bụng vào mặt em chứ gì? Bụng béo núc ních có đeo khuyên chứ gì? Em muốn đứa như thế chứ gì? Để chị nói cho mà biết. Em có biết tại sao bọn gái Thổ lại phải đeo mạng che mặt không? Em tưởng vì tôn giáo hả? Không phải. Vì nếu không thì chả ai chịu nổi bản mặt bọn nó đâu!”

Lúc này bà quát tướng lên, “Nhục cái mặt, Eleutherios! Em bị làm sao thế hả? Sao em không kiếm một đứa ở làng mình?”

Đến lúc này thì Lefty, đang phủi bụi áo khoác, chỉ ra cho bà chị sự thật mà bà bỏ sót. “Chắc chị không nhận ra,” ông đáp, “nhưng ở cái làng này làm gì có đứa con gái nào.”

Quả tình có đúng như vậy thật. Bithynios chưa bao giờ là một làng lớn, nhưng hồi 1922 nó còn tin hin hơn bao giờ hết. Từ năm 1913, khi rệp vừng làm nho tàn lụi sạch, dân bắt đầu bỏ làng đi. Họ tiếp tục bỏ đi vào thời các cuộc chiến tranh Ban-căng12. Chị họ của Lefty và Desdemona, Sourmelina, đã đến Mỹ và giờ đây sống ở một nơi tên là Detroit. Dựng trên sườn núi thoai thoải, làng Bithynios không phải là một nơi chênh vênh trên đỉnh núi. Nó là một cụm những ngôi nhà trát vữa vàng mái đỏ tao nhã, hay ít nhất là hài hòa. Nhà to nhất, tổng cộng hai cái, có çikma – cửa sổ kính lớn xây trồi ra ngoài đường. Nhà nghèo nhất, loại này đầy, là loại chỉ có một phòng kiêm cả bếp. Rồi có những hộ như nhà của Desdemona với Lefty, có phòng khách nhét đầy đồ đạc, hai phòng ngủ, một bếp, và một vệ sinh ở sân sau có toilet kiểu châu Âu. Ở làng Bithynios không có cửa hàng, không bưu điện hay nhà băng, chỉ có một nhà thờ và một nhà hàng nhỏ. Muốn mua sắm thì phải xuống dưới Bursa, đầu tiên đi bộ, sau đó xe ngựa.

Hồi năm 1922 làng chỉ có khoảng một trăm người. Phụ nữ được gần non nửa. Trong bốn mươi bảy phụ nữ, hai mươi mốt là bà già. Hai mươi người nữa là bà nội trợ sồn sồn. Ba bà mẹ trẻ, đều có con gái còn quấn tã. Một là chị gái ông. Vậy là còn lại hai cô đến tuổi cập kê. Mà giờ đây Desdemona cuống quýt đề xuất.

“Không có con gái là sao? Cái Lucille Kafkalis đấy thôi? Nó ngoan phết. Hay cái Victoria Pappas đấy?”

“Con Lucille hôi bỏ xừ,” Lefty đáp nghe có lý. “Con đấy có khi cả năm nó tắm được một lần. Vào ngày tên thánh của nó. Còn con Victoria hả?” Ông đưa một ngón tay lên môi trên. “Ria mép con Victoria còn rậm hơn cả em. Em không muốn dùng chung dao cạo với vợ.” Nói đoạn, ông bỏ cây chổi phủi bụi quần áo xuống rồi choàng áo khoác vào. “Đừng thức đợi nhé,” ông nói rồi ra khỏi phòng ngủ. “Đi đi!” Desdemona gọi với theo sau. “Chị cần quái gì. Nhưng nhớ lấy. Khi con vợ Thổ cởi khăn ra, thì đừng có ba chân bốn cẳng mà dẫn xác về làng đấy!”

Nhưng Lefty đã bỏ đi. Tiếng bước chân của ông xa dần. Desdemona thấy thứ chất độc bí hiểm lại dâng lên trong máu. Bà không quan tâm. “Chị không thích ăn cơm một mình!” bà hét lên, với không một ai cả.

Gió từ thung lũng nổi lên, như mọi chiều. Nó thổi qua cửa sổ nhà mở toang. Nó làm cái then trên rương đựng đồ hồi môn và chuỗi hạt lo lắng13 của cha bà nằm trên đó kêu lạch xạch. Desdemona cầm chuỗi hạt lên. Bà bắt đầu lần từng hạt một qua từng ngón tay, hệt như cha bà, ông bà, và ông cố của bà từng làm, thể hiện tài lo âu chính xác bài bản và cặn kẽ đã ăn vào máu gia đình. Trong lúc các hạt va vào nhau, Desdemona mê mải ngẫm ngợi. Chúa bị làm sao ấy nhỉ? Sao Người lại mang cha mẹ đi mất để bà phải lo cho thằng em? Bà phải làm gì với nó đây? “Hút thuốc, uống rượu, giờ còn tệ hơn! Mà nó lấy tiền đâu ra cho hết thảy những trò ngu xuẩn đấy? Từ kén tằm của mình chứ đâu nữa!” Từng hạt lần qua tay là một nỗi căm giận được ghi lại rồi xả ra. Desdemona, với đôi mắt u sầu, khuôn mặt của đứa con gái buộc phải trưởng thành quá vội, lo lắng lần tràng hạt như cánh đàn ông nhà Stephanides trước và sau bà (tức là tôi cũng thế, nếu tính cả tôi vào).

Bà lại bên cửa sổ thò đầu ra ngoài, nghe gió thổi xào xạc qua hàng thông và bạch dương. Bà tiếp tục lần chuỗi hạt lo lắng rồi, từng chút một, nó làm nhiệm vụ của mình. Bà thấy dễ chịu hơn. Bà quyết định sống tiếp đời mình. Tối nay Lefty không về. Ai thèm quan tâm chứ? Ai mà cần nó chứ? Nó không bao giờ về nữa thì đời bà càng suôn sẻ hơn. Nhưng bà nợ mẹ cái trách nhiệm quản lý để thằng em không mắc thứ bệnh nhục nhã nào đó, hay tệ hơn, bỏ nhà trốn đi với một con Thổ. Các hạt tiếp tục rơi, từng hạt một, qua ngón tay Desdemona. Nhưng bà không còn đếm nỗi đau nữa. Mà giờ đây các hạt gợi đến trong đầu bà những hình ảnh trên một tạp chí được giấu kín trong cái bàn cũ của cha họ. Một hạt là kiểu tóc. Hạt tiếp theo là chiếc váy lót lụa. Hạt tiếp theo là cái coóc xê đen. Bà tôi khởi sự công tác mai mối.

Trong lúc đó, Lefty đeo túi kén tằm đang trên đường xuống núi. Khi tới thành phố, ông xuống Kapali Carsi Caddesi, rẽ ở Borse Sokak, đoạn băng qua cổng vòm vào sân chợ tằm Koza Han. Bên trong, chung quanh đài phun nước bằng đá màu xanh ngọc là hàng trăm những túi đựng kén tằm chật ních cao đến tận hông. Đàn ông tụ tập ở khắp nơi, người bán kẻ mua. Họ gào hét từ mười giờ sáng hôm đó lúc chuông mở chợ vang lên nên giọng đã khản đặc. “Giá hời đây! Hàng chất đây!” Lefty tay cầm túi len qua những lối hẹp giữa các kén tằm. Ông chưa bao giờ quan tâm đến chuyện làm ăn kiếm sống của gia đình. Ông không nhận biết được chất lượng kén tằm bằng cách ngửi hay sờ xem như chị gái. Lý do duy nhất ông mang kén tằm tới chợ là vì phụ nữ không được phép làm vậy. Phải chen lấn rồi xô đẩy bọn khuân hàng với cả bước tránh những túi kén làm ông căng thẳng. Ông nghĩ sẽ thật tuyệt biết bao nếu thiên hạ ngừng cử động một lúc, nếu họ đứng yên đó mà chiêm ngưỡng những kén tằm tỏa sáng trong bóng đêm; nhưng dĩ nhiên chẳng ai làm vậy. Họ tiếp tục gào hét rồi dí kén tằm vào mặt nhau rồi điêu toa rồi mặc cả. Cha Lefty ngày xưa rất mê buổi chợ ở Koza Han, nhưng cái máu buôn bán đó không truyền sang thằng con.

Gần dãy hành lang mái vòm Lefty gặp tay lái buôn quen. Ông giơ túi lên. Tay thương lái thọc tay vào lấy ra một cái kén. Lão nhúng vào bát nước kiểm tra. Đoạn nhúng tiếp vào cốc rượu.

“Tơ này phải xe hai lần. Chưa đủ độ dai.”

Lefty không tin nhận xét này. Tơ của Desdemona luôn là hàng hảo hạng. Ông biết lẽ ra phải quát lác, giả vờ bị xúc phạm, vờ mang hàng đi chỗ khác. Nhưng ông đến muộn; tiếng chuông đóng chợ sắp sửa vang lên rồi. Cha ông đã luôn dặn đừng có mang kén đi bán lúc cuối ngày vì như thế phải hạ giá. Lefty sởn hết cả da gà dưới bộ vét mới. Ông muốn buôn cho nhanh bán cho gọn. Lòng ông ngập tràn tủi hổ: tủi hổ cho loài người, bởi lúc nào cũng chỉ nghĩ tiền tiền, và ham lừa đảo. Không phản đối một lời ông đồng ý luôn giá lão kia ra. Ngay khi buôn bán xong xuôi, ông vội ra khỏi Koza Han lo chuyện riêng trong phố.

Đó không phải là chuyện Desdemona tưởng. Nhìn thật kỹ thì thấy Lefty, đội mũ quả dưa vẻ ngông nghênh, cuốc bộ xuống những con dốc của Bursa. Tuy vậy khi đi qua hàng cà phê, ông lại không tạt vào. Chủ quán gọi ông, nhưng Lefty chỉ vẫy tay. Ở con phố tiếp theo ông ngang qua một cửa sổ có giọng phụ nữ ới gọi, nhưng ông không hề đoái hoài, cứ thế đi tiếp qua những con phố ngoằn ngoèo, qua đám bán hoa quả và nhà hàng cho tới một con phố khác, tại đây ông bước vào nhà thờ. Chính xác hơn: một nhà thờ Hồi giáo cũ, với ngọn tháp bị đập bỏ và những câu kinh Koran khắc trên tường đã bị trát kín để tạo ra nền mới toanh cho người ta vẽ lên, ngay lúc này đây, các vị thánh Kitô giáo. Lefty đưa một đồng xu cho bà già bán nến thánh, thắp một ngọn rồi cắm thẳng xuống cát. Ông ngồi xuống một chỗ ở hàng ghế sau. Cũng giống hệt như bà bô tôi sau này cầu xin lời chỉ dẫn về việc thụ thai tôi, Lefty Stephanides, ông trẻ của tôi (kiêm cả những vai trò khác nữa) trông lên vị Chúa Ban Phước Lành đang vẽ dở trên trần nhà. Bài cầu nguyện bắt đầu bằng những lời ông học hồi bé, Kyrie eleison, Kyrie eleison14, con không xứng được tới trước ngôi Người, nhưng rồi chúng đổi dần, trở nên riêng tư hơn, con không hiểu tại sao lại cảm thấy như thế, nó không tự nhiên… rồi chuyển sang lời buộc tội nho nhỏ, cầu nguyện, Người làm con ra thế này, con đâu có cầu xin những thứ như vậy… nhưng cuối cùng thì trở nên khốn khổ, xin hãy cho con sức mạnh, Chúa ơi, đừng để con như thế này, nhỡ chị ấy mà biết được… mắt nhắm tịt, tay gập vành mũi quả dưa, những lời đó bay lên cùng khói hương trầm tới một đức Jesus-đang-vẽ-dở.

 Ông cầu nguyện năm phút. Đoạn ra ngoài, đội mũ lại lên đầu, lắc xu xủng xoẻng trong túi. Ông leo lên lại những con phố dốc thoai thoải, và lần này (trái tim được cởi bỏ gánh nặng), dừng lại ở tất cả những nơi ông đã cự tuyệt trên đường đi xuống. Ông vào quán uống cà phê rít hơi thuốc. Ông tạt vào nhà hàng làm tợp rượu ouzo. Những tay chơi cờ thỏ cáo hét gọi, “Êu, anh cắt đầu Valentino, làm ván chớ?” Ông để mình bị dụ vào chơi chỉ một ván, rồi thua thế là phải đặt gấp đôi hoặc không gì cả. (Những con tính mà Desdemona tìm thấy trong túi quần Lefty chính là nợ cá cược.) Đêm trôi đi. Rượu ouzo rót tràn trề. Nhạc công đến rồi nhạc rebetiko bắt đầu nổi lên. Họ chơi những bài hát về dục tình, cái chết, tù đày, và cuộc sống đường phố. “Ngày ngày anh ghé quán rượu ven biển hút hasit,” Lefty hát theo, “để xua đi nỗi buồn mù mịt mỗi sớm mai; Anh gặp hai em nô tì ngồi trên bãi cát; Hai nàng bé bỏng phê lòi cả thuốc, mà nom vẫn xinh đẹp lạ thường.” Trong lúc đó, shisha được nhồi đầy. Đến nửa đêm, Lefty bồng bà bồng bềnh quay ra phố.

Một con hẻm chạy xuống, rẽ, ngõ cụt. Cửa mở ra. Một khuôn mặt mỉm cười, cúi đầu chào. Chưa gì Lefty đã tọa luôn xuống xô pha cùng ba tên lính Hy Lạp, ngắm bảy cô em đẫy đà xức nước hoa ngồi trên hai chiếc xô pha đối diện. (Máy hát chạy cái bài nổi tiếng được bật khắp nơi: “Sáng sáng chiều chiều…”) Đến lúc này những lời cầu nguyện vừa rồi đã bốc hơi sạch sẽ bởi như mụ tú bà nói, “Bất kỳ em nào cưng thích, cưng à,” mắt Lefty lướt qua em người Circassia mắt xanh tóc vàng, rồi em người Armenia đang cắn quả đào lả lơi mời gọi, rồi em Mông Cổ để tóc mái; mắt ông đưa tiếp rồi dừng lại ở một em kín tiếng ngồi ở cuối xô pha, cô gái có cặp mắt âu sầu với làn da không tì vết và mái tóc đen tết bím. (“Gươm nào cũng có vỏ hết á,” tú bà nói tiếng Thổ còn bọn gái điếm cười phá lên.) Không ý thức được vì sao mình lại bị em này cuốn hút, Lefty đứng dậy, vuốt thẳng áo khoác, chìa tay ra về phía cô gái mình chọn… và chỉ khi em dẫn ông lên lầu thì một giọng trong đầu ông mới chỉ ra em này giống hệt như… mà chẳng phải nét mặt trông nghiêng rất giống… nhưng lúc này họ vào phòng với nào là ga giường bẩn thỉu, ngọn đèn dầu đỏ như máu, mùi nước hoa hồng và chân thối. Bị những giác quan tuổi trẻ làm cho mê muội, Lefty không để ý đến sự giống nhau tăng dần khi cô gái cởi bỏ quần áo. Mắt ông ngấu nghiến bộ ngực lớn, cái eo thon, mái tóc tuôn dài xuống cái xương cụt yếu đuối; nhưng Lefty không nhận thấy mối liên hệ nào. Cô gái nhồi thuốc vào shisha cho ông. Chẳng bao lâu sau ông mơ mơ màng màng, không còn nghe thấy giọng nói trong đầu nữa. Trong giấc mơ êm đềm do thuốc hasit kéo dài trong suốt nhiều giờ sau đó, ông không còn biết mình là ai, đang ở với ai. Chân tay em gái điếm trở thành chân tay một phụ nữ khác. Một vài lần ông gọi lớn một cái tên, nhưng khi đó ông phê quá không để ý. Chỉ mãi sau đó, khi tiễn ông về, em gái mới đưa ông quay lại hiện thực. “Mà này em tên là Irini nhé. Ở đây bọn em chả có ai tên Desdemona cả.”

Sáng hôm sau ông tỉnh dậy ở Quán trọ Kén tằm, ngập chìm trong những lời tự tố cáo. Ông rời khỏi thành phố, leo núi về lại làng Bithynios. Túi ông (rỗng không) không còn kêu xủng xoẻng. Đầu đau nhừ sau cơn say và ngây ngấy sốt, Lefty tự nhủ rằng chị gái mình nói đúng: đã đến lúc ông phải lập gia đình. Ông sẽ lấy quách con Lucille, hoặc con Victoria. Sinh con đẻ cái rồi thôi không đi xuống Bursa nữa rồi dần dà ông sẽ thay đổi; ông sẽ già đi; mọi thứ ông cảm thấy bây giờ sẽ tan biến thành hồi ức rồi thành hư không. Ông gật đầu; ông bèn chỉnh lại mũ.

Còn ở làng Bithynios, Desdemona đang dạy hai em bé mới vào nghề kia cách trang điểm. Trong khi Lefty vẫn đang ngủ vùi ở quán trọ Kén Tằm, bà mời Lucille Kafkalis với Victoria Pappas sang nhà chơi. Hai em này còn trẻ hơn Desdemona, vẫn ở cùng bố mẹ. Họ kính cẩn Desdemona vì bà làm chủ một gia đình. Ghen tị với sắc đẹp của bà, họ ngưỡng mộ ngắm nghía bà; hãnh diện vì được bà chú ý, họ tâm sự với bà; nên khi bà khuyên nhủ cách cải thiện vẻ ngoài, họ nghe như nuốt từng lời vàng ý ngọc. Bà bảo Lucille nên chăm tắm rửa hơn và gợi ý cô dùng giấm để khử mùi dưới cánh tay. Bà đưa Victoria đến chỗ một thím người Thổ chuyên tẩy vùng lông không mong muốn. Trong tuần tiếp theo, Desdemona dạy hai em mọi điều mà bà học được từ tạp chí sắc đẹp duy nhất mà bà từng đọc, một ca ta lô rách tơi tả tên là Đồ lót phụ nữ Paris15. Tập ca ta lô này vốn của cha bà. Nó gồm ba mươi hai trang ảnh người mẫu mặc coóc xê, xu chiêng, quần tất và dây nịt tất. Đêm đêm, khi cả nhà đã ngủ say, cha bà thường moi nó ra từ ngăn kéo bàn cuối cùng. Giờ đây Desdemona bí mật nghiên cứu tập ca ta lô, ghi nhớ những bức ảnh để sau đó tái tạo.

Bà bảo Lucille với Victoria chiều nào cũng sang chơi. Hai em bước vào nhà, đánh hông như được dạy, rồi lượn qua giàn nho nơi Lefty hay ngồi đọc sách. Mỗi lần đến họ đều mặc váy khác nhau. Hai em cũng đổi cả kiểu tóc, dáng đi, trang sức, lẫn điệu bộ. Dưới chỉ đạo của Desdemona, hai cô gái nhếch nhác tự nhân họ thành một thành phố nhỏ toàn phụ nữ, mỗi người đều có điệu cười riêng, viên đá quý riêng, bài hát yêu thích hay ngân nga. Sau hai tuần, chiều nọ Desdemona ra chỗ giàn nho hỏi em trai, “Sao lại ngồi đây? Sao không đi xuống Bursa? Chị tưởng em tìm được một em Thổ xinh xắn mà cưới rồi chứ. Hay bọn nó đứa nào cũng có ria mép như Victoria cả?”

“Kỳ quặc thật, chị nhắc đúng chuyện em đang nghĩ đấy,” Lefty nói. “Chị có để ý không? Cái Vicky sạch hết ria mép rồi. Mà chị biết gì nữa không?” giờ đứng dậy, mỉm cười – “ngay cả cái Lucille cũng bớt hôi rồi. Mỗi lần nó đến em lại ngửi thấy hương hoa thơm.” (Dĩ nhiên ông điêu. Ngoại hình hay mùi hương của hai em này chẳng hấp dẫn gì ông hơn trước kia. Tỏ ra hăng hái thế này chỉ là cách ông đầu hàng việc không thể tránh khỏi: một cuộc hôn nhân sắp đặt, đời sống gia đình, con cái – thảm họa toàn tập.) Ông lại gần Desdemona. “Chị nói chuẩn quá,” ông bảo. “Những cô gái xinh đẹp nhất trên thế gian ở ngay đây trong làng này rồi.”

Bà e thẹn nhìn lại vào mắt ông. “Thật vậy à?”

“Đôi khi ta không nhận ra thứ sờ sờ ngay trước mắt mình.”

Họ đứng đó chăm chắm ngó nhau, Desdemona bèn thấy lòng chộn rộn. Mà để giải thích cảm giác đó tôi lại phải kể cho bạn một câu chuyện khác. Trong bài diễn văn tại hội nghị thường niên của Hiệp hội Khoa học Nghiên cứu Tính dục vào năm 1968 (năm đó được tổ chức ở Mazatlán giữa cơ man nào piñata16), bác sĩ Luce với tư cách chủ tịch giới thiệu khái niệm “cảm giác ngoại biên.” Bản thân từ này chả có nghĩa gì cả; Luce phịa ra để tránh mọi liên tưởng về từ nguyên. Tuy vậy, trạng thái cảm giác ngoại biên lại rất phổ biến. Nó chỉ cái lần xúc động đầu tiên trong quá trình bén duyên của đôi lứa. Nó gây ra váng vất, hân hoan, nhồn nhột ở thành ngực, ham muốn trèo lên ban công bằng sợi dây thừng kết từ tóc người yêu. Cảm giác ngoại biên chỉ cái lần đầu lên giường ngất ngây hạnh phúc như phê thuốc khi bạn hít ngửi người tình như bông hoa anh túc thơm ngát trong nhiều giờ liền. (Nó kéo dài, Luce giải thích, lên tới hai năm – là hết đát.) Dân Hy La cổ đại sẽ giải thích cảm giác mà Desdemona đang cảm thấy là do thần tình ái Eros. Hiện nay theo ý kiến chuyên gia đây là do hóa chất thần kinh và tiến hóa. Dẫu vậy, tôi phải khẳng định rằng: với Desdemona thì cảm giác ngoại biên như thể một cái hồ hơi ấm dâng lên từ bụng tràn qua ngực bà. Nó lan như cơn hồng thủy rượu 90 độ cồn, thứ rượu Phần Lan xanh bạc hà cay xè. Với sự bơm đẩy đầy hiệu quả của hai tuyến giáp ở cổ, nó làm mặt bà nóng bừng lên. Đoạn cái hơi ấm này nảy ra loạt ý tưởng khác, bèn tràn xuống những vùng mà một cô gái như Desdemona không cho phép nó đi tới, nên bà cụp mắt quay đi chỗ khác. Bà bước lại cửa sổ, để cảm giác ngoại biên lại phía sau, và gió từ thung lũng thổi lên làm bà mát dịu. “Chị sẽ đi nói chuyện với bố mẹ hai đứa ấy,” bà bảo, cố ra vẻ như mẹ mình. “Còn em thì xúc tiến tán tỉnh đi.”

Đêm hôm sau, mặt trăng hiện hình lưỡi liềm, như lá cờ tương lai của Thổ Nhĩ Kỳ. Dưới Bursa quân Hy Lạp lùng sục tìm thức ăn, nốc rượu, và bắn phá một nhà thờ Hồi giáo nữa. Ở Angora, Mustafa Kemal cho in trên báo tin ông sẽ tổ chức tiệc trà ở Chankaya nhưng trên thực tế di chuyển đến đại bản doanh ngoài chiến trường. Cùng chiến hữu, ông tợp ngụm rượu raki cuối cùng mà thề không đụng đến rượu cho tới khi trận chiến kết thúc. Dưới màn đêm bao phủ, quân Thổ không dịch chuyển về Eskişehir ở phía Bắc, như thiên hạ tưởng, mà về phía thành phố Afyon được phòng vệ cực kỳ cẩn thận ở phía Nam. Tại Eskişehir, quân Thổ đốt lửa trại để khuếch trương sức mạnh. Một lực lượng nghi binh nhỏ vờ tiến về phía Bắc Bursa.

Khi những vụ dàn quân này diễn ra, Lefty Stephanides cầm hai bó hoa con con, ra khỏi nhà tiến về phía nhà Victoria Pappas.

Sự kiện này trọng đại không kém gì việc trẻ con ra đời hay có người chết. Gần như ai trong số gần trăm dân làng Bithynios cũng đã nghe đến chuyến đi thăm sắp diễn ra của Lefty, thế là từ bà góa già, tới gái có chồng, đến các bà mẹ trẻ, cũng như các ông già, đều đang đợi xem ông sẽ chọn cô nào. Vì dân số ít ỏi, những phương thức tán tỉnh cổ xưa cơ hồ đã chấm dứt. Việc thiếu đối tượng yêu đương này làm nảy sinh một chu kỳ ác nghiệt. Không có ai để yêu thì không có tình yêu. Không có tình yêu thì không có trẻ em. Không có trẻ em thì không có ai để yêu.

Victoria Pappas đứng nửa trong bóng tối nửa ngoài ánh sáng, bóng trên người cô giống hệt bức ảnh ở trang số 8 của ca ta lô Đồ lót phụ nữ Paris. Desdemona (chuyên viên phụ trách trang phục, kiêm bố trí sân khấu và kiêm luôn đạo diễn) búi tóc Victoria lên, cho mấy sợi tóc quăn rơi xuống trán và cảnh báo cô phải xoay cái mũi to vào trong bóng tối. Xức nước hoa, tẩy lông, bôi kem làm mềm da, đánh phấn côn quanh mắt, Victoria đứng yên cho Lefty ngắm nghía mình. Cô cảm nhận được ánh mắt nóng bỏng, nghe tiếng thở nặng nhọc của ông, nghe ông cố gắng cất tiếng hai lần – hai tiếng ré khe khẽ từ cổ họng khô khốc – rồi cô nghe tiếng chân ông tiến về phía mình, rồi cô quay lại, làm vẻ mặt mà Desdemona đã dạy; nhưng mải tập trung trề môi ra cho giống chị mẫu đồ lót người Pháp cô không nhận ra tiếng bước chân không phải tiến tới mà là thoái lui; khi cô quay lại thì thấy Lefty Stephanides, anh chàng độc thân duy nhất ở làng, đã bỏ về mất toi…

… Trong lúc đó, ở nhà, Desdemona mở rương quần áo. Bà thọc tay lấy cái coóc xê. Nhiều năm trước mẹ đã tặng nó cho bà để dành cho đêm tân hôn, mà nói, “Mẹ mong có ngày con sẽ mặc vừa.” Giờ đây, trước gương phòng ngủ, Desdemona giơ cái món đồ rắc rối, kỳ lạ lên ướm thử lên người. Bà cởi tất ra, cả đồ lót màu xám. Bà cởi luôn cái váy cạp cao, cùng cái áo cổ cao. Bà cởi khăn trùm đầu thả hết tóc ra cho rơi xuống đôi vai trần. Chiếc coóc xê làm bằng lụa trắng. Mặc vào rồi Desdemona cảm thấy như thể bà đang dệt cái kén của riêng mình, chờ đợi biến hình thành bướm.

Nhưng khi nhìn lại mình trong gương, bà chợt hiểu ra. Cái coóc xê sẽ chả dùng vào việc gì cả. Bà sẽ không bao giờ lấy chồng. Tối nay Lefty sẽ quay về khi chọn được cô dâu, rồi ông sẽ đưa con bé về nhà sống với họ. Desdemona sẽ vẫn như xưa, lần chuỗi hạt mà già đi hơn cả bà cảm thấy lúc này. Một con chó tru lên. Ai đó ở làng vấp phải bó củi chửi tướng lên. Còn bà tôi lặng lẽ khóc bởi bà sẽ sống hết năm tháng đời mình đếm những nỗi lo không bao giờ cạn…

… Trong lúc đó Lucille Kafkalis đang tạo tư thế đúng như được bảo, nửa trong bóng tối nửa ngoài ánh sáng, đội mũ trắng có đính quả anh đào bằng thủy tinh, vai trần choàng khăn, diện váy cổ xẻ sâu màu xanh tươi, đi giày cao gót, mà cô không dám nhúc nhích vì sợ ngã. Bà mẹ béo của cô lạch bạch bước vào, cười toét mỏ hét toáng lên, “Thằng ấy đến kìa! Nó không chịu nổi con Victoria dù chỉ một phút!”…

… Chưa gì ông đã ngửi thấy mùi giấm. Lefty vừa mới đến chỗ khung cửa thấp nhà Kafkalis. Cha Lucille chào ông rồi nói, “Hai bác cho hai đứa được riêng tư. Để làm quen.” Phụ huynh bỏ đi. Phòng sáng lờ mờ. Lefty quay gót… đoạn vứt luôn bó hoa còn lại.

Điều mà Desdemona không hề ngờ tới là thằng em cũng đã nghiền ngẫm Đồ lót phụ nữ Paris. Thực ra, ông xem từ hồi mười hai cho tới khi sang mười bốn tuổi, khi phát hiện ra kho báu đích thực: mười tấm ảnh cỡ bưu thiếp, giấu trong vali cũ, chụp “Sermin, Thiếu nữ trong Thưởng lạc cung17,” một nàng hai lăm tuổi thân hình quả lê mặt ủ mày ê thực hiện đủ các loại tư thế trên mấy cái gối có quả tua rua trong một khuê phòng được dàn dựng. Tìm thấy nàng trong ngăn đựng vật dụng khi tắm rửa cứ như thể chà vào ngọn đèn thần. Nàng bay vút ra trong màn bụi sáng lấp lánh: trên người không có gì ngoài đôi hài thêu mũi cong trong truyện Ngàn lẻ một đêm với khăn thắt ở hông (tách); nằm trễ nải trên tấm da hổ, nghịch thanh mã tấu (tách); và tắm, ánh sáng đổ lên châu thân thành vệt carô, ở một nhà tắm lát đá cẩm thạch kiểu Thổ. Mười bức ảnh tông màu sepia nâu đỏ này chính là thứ đầu tiên khới dậy nỗi mê mẩn thành thị trong lòng Lefty. Nhưng ông nào quên được mối tình đầu ở Đồ lót phụ nữ Paris. Ông dễ dàng hình dung ra chúng rõ mồn một trong đầu. Khi thấy Victoria Pappas nom từa tựa như trang số 8, thứ làm Lefty kinh ngạc nhất chính là khoảng cách xa vời vợi giữa con này với cái hình mẫu thời niên thiếu. Ông thử tưởng tượng mình lấy Victoria, sống với nó, nhưng mỗi hình ảnh xuất hiện trong đầu đều có một khoảng trống toang hoác ngay chính giữa, chính là sự thiếu vắng người ông yêu hơn và hiểu hơn bất kỳ ai khác. Vì vậy ông chạy mất dép khỏi con Victoria Pappas chỉ để xuống phố gặp ngay con Lucille Kafkalis, thất vọng toàn tập, thua xa nàng ở trang số 22…

… Và giờ thì chuyện xảy ra. Desdemona, lệ tuôn lã chã, cởi coóc xê xong gấp lại rồi nhét vào rương. Bà lao lên giường, giường Lefty, rồi khóc vật ra. Chiếc gối thơm ngát hương chanh sáp bôi tóc của ông thế là bà hít lấy hít để, nức na nức nở…

… Cho đến khi, bị thuốc phiện của cơn khóc lóc làm cho đờ đẫn, bà ngủ thiếp đi. Bà mơ thấy chuyện gần đây thường xuất hiện. Trong chiêm bao mọi thứ lại như xưa. Bà với Lefty lại trở thành hai đứa trẻ (chỉ có điều trong cơ thể người lớn). Họ nằm chung giường (chỉ có điều giờ là giường bố mẹ). Họ gác chân tay lên nhau khi ngủ (cảm giác cực kỳ dễ chịu, khi gác lên nhau, còn cái giường thì ướt sũng)… Đúng lúc đó Desdemona tỉnh dậy, như mọi khi. Mặt bà nóng bừng. Bụng chộn rộn, và sâu thẳm trong lòng, bà cơ hồ nhận biết được cảm xúc đó là gì…

… Khi tôi ngồi đây trên ghế xoay, ngẫm ngợi theo chiều hướng mà nhà sinh vật học E. O. Wilson đã vạch ra18. Đó là do tình yêu hay bản năng sinh sản? Tình cờ hay định mệnh? Tội ác hay sản phẩm của tự nhiên? Có lẽ cái gen cài sẵn một cơ chế đảm bảo cho quá trình biểu hiện gen giải thích được tại sao Desdemona lại khóc vật vã và tại sao Lefty lại chọn những cô điếm như thế; không phải do tình yêu mến, không phải đồng cảm; chỉ là vì để cho cái thứ mới lạ này bước vào thế gian thì cần thiết phải như vậy, để rồi lại đẻ ra những tỉ số đã dàn xếp của trái tim. Nhưng tôi không sao giải thích nổi, Desdemona với Lefty cũng không, cũng như mỗi người chúng ta, khi rơi vào lưới tình, không phân biệt nổi đâu là do hoóc môn đâu là cảm giác thiêng liêng tuyệt trần, mà biết đâu tôi bám vào cái lý lẽ mọi sự do ý trời cả là bởi vì chút lòng vị tha bẩm sinh để bảo vệ giống loài; tôi không chắc nữa. Bằng suy nghĩ, tôi cố quay lại cái thời trước khi có ngành nghiên cứu gen, trước khi động đến chuyện gì mọi người cũng ra rả, “Nằm trong gen hết đấy.” Cái thời trước tự do hiện tại của chúng ta, và tự do hơn chán vạn lần! Desdemona không hề biết chuyện gì đang xảy ra. Bà không hình dung nổi lòng mình lại có thể như một bộ mã máy tính khổng lồ, chỉ gồm 1 với 0, những chuỗi vô tận, bất cứ chuỗi nào cũng có khả năng xuất hiện lỗi lập trình. Giờ đây ta biết mình mang cái bản đồ gen của chính mình đi khắp mọi nơi. Ngay cả khi đứng trên góc phố nó cũng sai khiến số phận ta. Nó đem đến trên mặt cùng những nếp nhăn với vết đồi mồi giống cha mẹ ta. Nó khiến chúng ta có cái kiểu hít hít rất đặc trưng, nhìn là biết ngay giỏ nhà ai quai nhà ấy. Gen ăn sâu đến nỗi chúng điều khiển cả cơ mắt, vì thế chị em gái nháy mắt giống nhau, còn hai bé trai sinh đôi thì nhểu nước dãi cùng lúc. Thi thoảng, lúc bồn chồn tôi sờ sờ cái sụn mũi, hệt ông anh. Cổ họng với thanh quản của bọn tôi, được hình thành từ cùng chỉ dẫn, đẩy không khí ra theo cùng âm thanh và âm lượng. Mà điều này có thể ngoại suy ngược lại theo thời gian, thành thử khi tôi nói thì Desdemona cũng nói. Bà cũng đang viết chính những từ này. Desdemona, không hề biết trong người có cả đội quân, thực thi hàng triệu mệnh lệnh, mà cũng không hề biết có một thằng lính không tuân lệnh, đào ngũ…

… Te tái chạy như Lefty lao khỏi nhà cái Lucille Kafkalis về với chị gái. Bà nghe tiếng chân tất tả của ông khi đang kéo váy lên. Bà lấy khăn trùm đầu chùi mắt rồi mỉm cười khi ông đi qua cửa vào nhà.

“Thế em chọn đứa nào?”

Lefty không đáp gì mà chỉ nhìn dò chị gái. Ngủ cùng phòng với bà cả đời, chẳng lẽ ông không biết được lúc nào bà khóc hay sao. Tóc bà xõa ra, phủ gần hết mặt, nhưng cặp mắt nhìn ông thì ngập tràn cảm xúc. “Chả đứa nào cả,” ông nói.

Desdemona nghe mà hạnh phúc tràn trề. Nhưng bà lại nói, “Em bị làm sao thế? Em phải chọn.”

“Hai con đó trông như hàng ấy.”

“Lefty!”

“Thật mà.”

“Em không muốn lấy bọn nó à?”

“Không.”

“Em phải lấy.” Bà giơ nắm tay lên. “Nếu chị thắng, em lấy cái Lucille.”

Lefty, không bao giờ cưỡng được trò cá độ, cũng giơ nắm tay lên. “Oẳn tù tì, ra cái gì ra cái này!”

“Giấy bọc đá,” Lefty nói. “Em thắng.”

“Lần nữa,” Desdemona nói. “Lần này, nếu chị thắng, em lấy cái Vicky. Oẳn tù tì…”

“Kéo cắt giấy. Em lại thắng! Vĩnh biệt Vicky.”

“Thế em lấy ai?”

“Em không biết” – cầm lấy tay bà rồi nhìn bà. “Lấy chị nhé?”

“Đen ghê chị là chị em đấy.”

“Chị đâu phải chỉ là chị em. Chị còn là chị họ ba đời của em nữa. Anh em họ ba đời được phép lấy nhau mà.”

“Em điên hả Lefty.”

“Mình lấy nhau thì mọi thứ chả dễ dàng hơn nhiều à. Bọn mình sẽ không phải sửa lại nhà cửa.”

Nửa đùa nửa thật, Desdemona với Lefty ôm lấy nhau. Thoạt tiên họ chỉ ôm như bình thường, nhưng mười giây sau cái ôm dần thay đổi; vị trí của tay và những cái vuốt ve không còn là biểu hiện thông thường của tình chị em, và những cử chỉ này tạo ra thứ ngôn ngữ riêng, tuyên bố một thông điệp mới toanh trong căn phòng im ắng. Lefty đưa Desdemona lướt đi trong một điệu valse, kiểu Âu châu; ông dìu bà ra ngoài, qua sân, tới trại tằm, rồi quay lại dưới giàn nho, thế là bà bật cười giơ tay che miệng. “Nhảy giỏi đấy, em họ,” bà nói mà tim lại đập rộn lên, khiến bà nghĩ có khi mình chết ngay lúc đó trong vòng tay Lefty, nhưng dĩ nhiên bà không chết; họ nhảy tiếp. Xin đừng quên nơi họ đang nhảy, làng Bithynios, cái làng trên núi nơi anh em họ thỉnh thoảng lấy anh em họ ba đời và kiểu gì đó ai ai đều có họ với nhau; vậy là khi nhảy, họ ôm lấy nhau chặt hơn, thôi đùa cợt, rồi chỉ đơn thuần nhảy với nhau, như một người đàn ông và một người đàn bà vẫn thi thoảng làm trong những lúc cô đơn và tuyệt vọng.

Đúng lúc này, trước khi có bất cứ điều gì được nói thẳng ra hay bất cứ quyết định nào được đưa ra (trước khi lửa quyết định cho họ), thì ngay lúc đó giữa điệu valse, họ nghe có tiếng nổ xa xa, rồi dòm xuống thấy, trong ánh lửa, quân Hy Lạp đã rút chạy hoàn toàn.


Chú thích:

  1. Chính là cuốn Herculine Barbin: Being the Recently Discovered Memoirs of a Nineteenth-century French Hermaphrodite, bản dịch tiếng Anh của hồi ký viết hồi thế kỷ mười chín bằng tiếng Pháp của Barbin.
  2. Tinh hoàn nằm trong cơ thể chưa hạ xuống bìu.
  3. Nghệ sĩ, người sáng tác nhạc, trưởng nhóm nhạc, diễn viên người Mỹ (1910-2004), nổi tiếng nhất với bản ghi âm bài Begin the Beguine do Cole Porter sáng tác.
  4. Hay còn có tên Yeşil Camii, Thánh đường Hồi giáo Xanh là phức hợp có lăng mộ, nhà thờ, trường dòng… nằm ở phía Đông và là biểu tượng của Bursa, có màu xanh đặc trưng.
  5. Một khái niệm trong chủ nghĩa dân tộc Hy Lạp với mục tiêu thiết lập một quốc gia Hy Lạp lớn với tất cả các vùng đất có người Hy Lạp sinh sống, bao gồm những khu có người Hy Lạp dưới sự cai trị của quân Thổ Ottoman và các vùng thời cổ đại thuộc về Hy Lạp như vùng phía Nam bán đảo Ban-căng, đảo Síp.
  6. Sĩ quan quân đội và cũng là Tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ (1881-1938), nổi tiếng vì tài năng lãnh đạo quân đội kiệt xuất.
  7. Theo luật của quốc gia Hồi giáo, những người không theo đạo Hồi (mà theo đạo Kitô và Do Thái…) không được phép cưỡi ngựa và lạc đà, chỉ được phép cưỡi la hay lừa, không được phép dùng yên cương hay bàn đạp yên cương bằng sắt, mà phải dùng bộ yên thồ và bàn đạp bằng gỗ.
  8. Là biệt danh của người thuận tay trái, dịch giả xin chọn để nguyên tên là Lefty mà không dịch, vì đặc điểm cơ thể này không được triển khai thêm và không có ý nghĩa nhiều lắm trong cả câu chuyện.
  9. Tóc cắt theo diễn viên người Mỹ gốc Ý nổi tiếng Rudolph Valentino: ngắn, hất từ trái sang, phân chia khoảng 3/7, dùng nhiều keo vuốt ẹp xuống.
  10. Nhân vật rối bóng trong văn hóa dân gian Hy Lạp.
  11. Tiếng Hy Lạp: gái điếm, đĩ, gái lẳng lơ.
  12. Chỉ hai cuộc xung đột trên bán đảo Ban-căng ở Nam Âu năm 1912-1913.
  13. Một loại chuỗi hạt của người Hy Lạp, được dùng để giải tỏa căng thẳng và tiêu thời gian.
  14. Tiếng Hy Lạp: “Chúa rủ lòng thương, Chúa rủ lòng thương.” Câu cầu nguyện này có nguồn gốc từ nhiều đoạn khác nhau trong Tân Ước, chẳng hạn Mat-thêu 20:30-31 “[…] Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương chúng tôi! […]: Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương chúng tôi!”. (Bản dịch Kinh thánh của Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.)
  15. Lingerie Parisienne.
  16. Piñata được làm bằng giấy bồi cứng, có nhiều hình thù khác nhau, bên ngoài dán đủ màu sặc sỡ, bên trong rỗng ruột để cho kẹo hoặc đồ chơi vào. Trong các buổi tiệc tùng, sinh nhật người ta treo piñata lên cao, cho trẻ em đập ra lấy quà bánh.
  17. Là tòa lâu đài lớn do Hốt Tất Liệt xây trong bài thơ Kubla Khan (1797) của nhà thơ, nhà phê bình Samuel Taylor Coleridge, lấy ý tưởng từ Thượng Đô, hành cung mùa hè của Hốt Tất Liệt. Bài thơ được coi là tác phẩm tiêu biểu của văn học Lãng mạn Anh.
  18. Edward O. Wilson, nhà sinh vật học nổi tiếng với tác phẩm Về bản tính người, cho rằng hành vi xã hội của con người là do gen chi phối.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Published

on

Trích từ: Fuzz - Khi Tự Nhiên Phạm Luật

Tác giả: Mary Roach

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 04.2025

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

Ngộ sát nơi đường cùng

Ở Ấn Độ có cái gọi là “trại nâng cao nhận thức”. Lần đầu tiên tôi nghe được từ này là từ một nhà nghiên cứu tại Viện Động vật Hoang dã của Ấn Độ, người điều hành các trại nâng cao nhận thức về voi và báo hoa mai. Tôi tưởng tượng ra đấy là một khu trại kiểu Mỹ, với giường tầng và kẹo dẻo, và cố gắng liên tưởng điều này trong đầu với những con vật to lớn, nguy hiểm. Theo lẽ tự nhiên, tôi muốn đến đó. Hóa ra, trại nâng cao nhận thức này giống với ngày nhận thức toàn dân hơn. Tôi từng thấy danh sách các trại nâng cao nhận thức về bệnh sốt xuất huyết, trại nâng cao nhận thức về bệnh tiểu đường, trại nâng cao nhận thức về an toàn giao thông và ít nhất một trại nâng cao nhận thức về chứng ngáy và ngưng thở khi ngủ, nghe khá giống phòng ngủ nhà tôi. Đó là những buổi họp mặt cung cấp thông tin nhằm nâng cao nhận thức về những nguy hiểm mà mọi người có thể không biết rõ hoặc không muốn nghĩ đến và đưa ra hướng dẫn về cách tốt nhất để tránh hoặc sống sót qua các tình huống đó.

Mỗi năm cứ đến tháng Mười hai, Dipanjan Naha, nhà nghiên cứu vừa nhắc ở trên lại khóa cửa văn phòng mình ở Dehradun, dán tấm thẻ THI HÀNH CÔNG VỤ của Chính phủ Ấn Độ trên chiếc xe thuê bốn bánh, rồi bắt đầu chuyến đi trại-nâng-cao-nhận-thức. Năm nay, người em họ Aritra sẽ đi cùng anh với tư cách là trợ lý, và tôi cũng có mặt trong chuyến đi này. Chúng tôi đang khởi hành từ Bắc Bengal – thật khó hiểu, lại là khu vực thuộc Tây Bengal – nơi mỗi năm, voi hoang dã giết chết trung bình 47 người và làm bị thương 164 người khác. Bốn mươi bảy người mỗi năm, trong khu vực có diện tích bằng Connecticut (Khoảng 13.000 km2 - ND). Cơ quan lâm nghiệp Ấn Độ sẽ cho kiểm lâm viên can thiệp các trường hợp này, nhưng họ không giết con voi. Một số kiểm lâm viên sẽ có mặt tại trại nâng cao nhận thức đầu tiên của Naha, ở làng Bamanpokhri. Tôi háo hức muốn biết các hoạt động sẽ diễn ra thế nào.

Bên ngoài cửa kính ô tô là cảnh quan nông nghiệp: đồn điền chè, trang trại cúc vạn thọ, những hàng lúa thẳng tắp cắm sâu vào lòng đất như lông bàn chải đánh răng xơ cứng. Những ngôi làng nhỏ nằm xen kẽ với cánh đồng và khoảnh đất – những ngôi nhà bằng tôn và mái tranh, một ngôi đền, một vài cửa hàng rượu lộ thiên. Đàn bò lang thang trên đường và mấy con dê đen nhỏ đi song song dọc hai bên, nhưng tôi không thấy con vật nào khác, bối cảnh này không hợp lý với lũ voi.

Voi! Naha đảm bảo với tôi rằng chúng không ở đâu xa. Đang là mùa đông, thời điểm các đàn di chuyển trong năm. Chúng kiếm ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày trong các mảnh gỗ tếch và lal – tàn tích của những khu rừng từng trải dài từ bang Assam của Ấn Độ qua Bắc Bengal đến tận biên giới phía đông của Nepal. Sau đó, “hành lang voi” này bị đứt gãy và thu nhỏ lại, đầu tiên là do nhiều đồn điền chè rộng lớn của người Anh và gần đây là do các căn cứ quân sự và khu định cư của người tị nạn và người nhập cư từ Nepal và Bangladesh. Ngày càng nhiều người đến các khu rừng này để đốn gỗ và chăn thả gia súc, biến môi trường sống của voi thành của người. Trong nỗ lực đi qua vùng đất này, voi phải đối mặt với các rào cản, nguy hiểm, ngõ cụt. Hành lang giờ đã thành trò bắn đạn. Đàn có thể bị cô lập trong một khoảnh rừng sâu biệt lập. Chúng trở thành “những con voi cô lập”. Để voi sống trong một vùng biệt lập là không nên. Vốn gene sẽ bị thoái hóa và mật độ dân số tăng đột biến. Chẳng bao lâu sẽ không có đủ nguồn thức ăn cho chúng nữa. Chúng lang thang vào các ngôi làng để ăn những gì có thể tìm thấy, và đó chính là mùa màng và kho thóc của người dân. Khởi nguồn của xung đột giữa người và voi.

Aritra chỉ ra ngoài cửa sổ khi chúng tôi ngang qua một lối rẽ. “Đi thêm 2 cây số lên con đường đó là nơi voi đã giết chết một người đàn ông. Vào vài ngày trước. Ba người đang làm việc trên đường. Họ bỏ chạy khi nhìn thấy voi, rồi một người bị tách ra, và con voi đi theo anh ta”.

Tôi thấy điều này thật khó tưởng tượng. Tôi lớn lên cùng với chú voi Babar và chương trình National Geographic. Voi là loài hiền lành và chậm chạp. Chúng đi tất và mặc phục trang màu xanh tươi sáng. Chúng chưa bao giờ là loài đáng sợ. Điều này gây ra sự mất kết nối nhỏ giữa tôi và những người tiếp đón mình. Đêm đầu tiên trên đường, chúng tôi ngụ trong ngôi nhà gỗ thuộc sở hữu của chính phủ trong khu rừng tếch ngay dưới đường từ biển báo đánh dấu khu vực voi băng qua. Đầu bếp của ngôi nhà nói rằng anh đã nhìn thấy một con gần cổng vào đêm trước khi chúng tôi đến đây. Phản ứng với thông tin này, tôi thông báo ý định đi dạo. Lúc đó khoảng 7 giờ tối, cách hai tiếng sau khi voi ra ngoài tìm thức ăn và Dipanjan Naha cùng em họ mình dừng lại gần cánh rừng.

“Đừng đi xa quá, Mary”, Aritra nói. Chúng tôi ngồi ngoài hiên uống trà cùng tắc kè và bướm đêm. Aritra có khuôn đầu tròn và tính cách thân thiện, hay cười. Anh dễ dàng chuyển từ vai trợ lý của Naha sang vai người em họ thân thuộc.

Naha cũng không thích kế hoạch của tôi. “Xin hãy hết sức cẩn thận”.

Họ nhìn nhau, rồi đặt cốc xuống và đứng dậy đi theo tôi.

Chúng tôi đi xa đến tận đường ray xe lửa ở cuối đường lái xe. Naha kể đôi lời về lịch sử đường sắt khổ hẹp ở Ấn. Chúng tôi đứng lại vài phút, như thể đợi một chuyến tàu. Aritra dùng chân mân mê hòn sỏi giữa các thanh ray. “Hãy trở lại bên trong”.

--

Để đánh giá đúng hơn mức độ nguy hiểm của cuộc đụng độ ngoài ý muốn với voi, hãy ngồi lại với người điều tra các vụ tử vong. Saroj Raj là sĩ quan kiểm lâm của Bamanpokhri Beat – cơ quan lâm nghiệp địa phương, nơi mỗi năm kể từ năm 2016 đều có người bị voi giết chết.

Sĩ quan Raj đã đến nhà cộng đồng chỉ gồm một căn phòng của Bamanpokhri – địa điểm của trại nâng cao nhận thức hôm nay – để nói chuyện với mọi người và trả lời các câu hỏi. Cho đến giờ chỉ có mình tôi đặt câu hỏi. Có vẻ những người có mặt đúng giờ ở đây đều do buộc phải đến. Người tham dự gồm một nhóm học sinh mặc đồng phục kẻ sọc và nửa tá kiểm lâm viên đến từ các đội động vật hoang dã địa phương. Naha không bận tâm. Đang là kỳ Diwali – tuần nghỉ lễ – và bây giờ đang là giờ sau bữa trưa. “Nên họ rất miễn cưỡng phải đến đây”.

Sĩ quan Raj cho tôi biết chi tiết về những trường hợp tử vong gần đây nhất. Mỗi lần anh đều bắt đầu với ngày chính xác. Cảm giác rằng có rất nhiều giấy tờ. “Ngày 31 tháng Mười năm 2018. Ba công nhân đang làm đường.” Nơi chúng tôi đã đi qua trước đó. “Đột nhiên một con voi xuất hiện.”

Một con voi có thể đáng sợ hơn nhiều con. Đàn voi gồm những con cái trưởng thành và voi con, những người bạn to xác yêu hòa bình của tuổi thơ tôi. Voi sống cô độc thường là voi đực và voi đực có thể gây rắc rối. Voi đực trải qua giai đoạn rối loạn nội tiết tố định kỳ gọi là musth, khi mức testosterone của chúng tăng cao gấp mười lần so với những thời điểm khác. Điều này mang lại cho chúng lợi thế cạnh tranh với những con đực khác và với voi cái đầu đàn, nhưng cũng có một mức độ thất thường nào đó. Theo cách nói của chuyên gia về voi châu Á Jayantha Jayewardene, trạng thái musth trải dài gồm “dễ nổi cáu” đến “khuynh hướng tấn công hay phá hoại” đối với những con voi khác và con người, “thậm chí cả những vật vô tri vô giác”. Dân làng biết điều này. Sĩ quan Raj nói: “Những người đàn ông đã cố trốn vào bụi rậm. “Một người không may bị ngã.”

Sĩ quan Raj cung cấp chi tiết mà Aritra đã cẩn thận bỏ qua. Con voi giẫm lên đầu người đàn ông. Với cân nặng 3 tấn, con voi chỉ cần giẫm hoặc quỳ lên một người – hay (vào năm 1992) trong trường hợp voi diễn xiếc nổi giận thực hiện động tác trồng cây chuối lên nạn nhân – thì đúng là cách giết người hiệu quả. Nhưng dựa trên dấu chân và sự xáo trộn của thảm thực vật xung quanh trong trường hợp này, quyết định của Sĩ quan Raj chính là chết do tai nạn.

“Ngày 16 tháng Mười năm 2016. Cũng là một tai nạn.” Một người đàn ông đang trèo lên bờ sông thì gặp một con voi. Sĩ quan Raj nhớ lại: “Chỗ đó trơn trượt. Cả hai đều trượt xuống bờ sông. Con voi lăn qua người anh ta.” Đôi khi voi giết người y như cách của ô tô: một thứ to lớn lao tới hoặc cán qua thứ gì đó nhỏ hơn nhiều. (Những người chăm sóc voi cố gắng không chen vào giữa bức tường và con voi.) (Tại sở thú nơi tôi làm việc ở độ tuổi 20, mức lương cho người trông giữ voi cao hơn một chút so với những người chăm sóc các động vật khác – mặc dù không phải vì rủi ro. Cô ấy được trả một khoản “bồi thường phân” vì phải xúc phân quá nhiều. Như thế cũng đúng. Theo tài liệu Smithsonian Contributions to Zoology (Cống hiến Smithsonian cho ngành Động vật học) năm 1973, một con voi châu Á đi vệ sinh 18 đến 20 lần trong ngày, thải ra “4 đến 7 cục phân” nặng khoảng 1,8kg mỗi lần, với sản lượng hằng ngày hơn 180kg. - TG)

Sĩ quan Raj nói: “Những con voi này không có ý định giết người.” Làm sao anh biết được? Bởi vì xác còn nguyên vẹn. “Nếu voi thật sự tức giận, cái xác sẽ không còn nguyên mà sẽ bị xé nát thành nhiều mảnh.” Một cuốn sách của Jayantha Jayewardene liệt kê danh sách ghi lại chín cách thức mà một con voi giận dữ hoặc hung hãn giết người. “Đặt một chân trước lên một chi của nạn nhân và dùng vòi xé toạc chân kia” là cách số 3. (Voi sử dụng kỹ thuật neo và kéo tương tự khi tước cành lá một bụi cây bị bật gốc để ăn.) Người ta cho rằng tầng lớp cai trị ở Tích Lan (nay là Sri Lanka) vào những năm 1600 đã tận dụng hành vi tự nhiên này nhằm huấn luyện voi làm đao phủ. Bản in khắc từ cuốn Mối quan hệ lịch sử của Đảo Ceylon đã mô tả một con voi như vậy. Một chân trước đặt trên thân của nạn nhân, còn vòi quấn quanh chân trái đang giơ lên của người đàn ông. Nếu không có chú thích (“Cuộc hành quyết bởi một con voi”) và cánh tay nát tả tơi ở phía trước, bạn có thể lầm tưởng rằng các quốc vương Tích Lan đã huấn luyện voi phục vụ như hộ vệ.

Phần trình bày nâng cao nhận thức của Naha sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tránh khiến cho một con voi khó chịu. Điều này được tóm tắt trong mục 20 trên áp phích “Những phương pháp tốt nhất để giảm thiểu xung đột giữa người và voi” mà Aritra vừa treo trên tường của nhà cộng đồng: “Không được hành động theo kiểu Rambo!”. Bắn voi không chỉ bất hợp pháp mà còn vô nghĩa, tùy thuộc vào cỡ nòng của vũ khí. Tại Palm Bay, Florida, voi Janet đã chịu được 55 phát đạn bắn ra từ khẩu súng lục ổ quay 9mm của các sĩ quan cảnh sát cũng như loạt súng đầu tiên do một sĩ quan SWAT đang ngoài giờ thi hành nhiệm vụ bắn với loại đạn thiết kế nhằm xuyên thủng cả xe bọc thép. (Loạt đạn thứ hai đã khuất phục con voi này.) (Vào ngày 1/2/1992 tại rạp xiếc Great American ở Palm Bay, Florida, một con voi tên Janet đã mất kiểm soát khi đang chở một người mẹ cùng hai đứa con của bà và ba đứa trẻ khác. - ND)

Khi nhìn thấy một con voi hoặc đàn voi trong khu vực, điều an toàn mà dân thường có thể làm là gọi đến đường dây nóng 24/7 để đội chuyên trách về voi của Sĩ quan Raj xử lý. Đội biết voi là động vật có tính xã hội nên chúng sẽ bình tĩnh hơn nếu bị dồn đi theo đàn. Các kiểm lâm viên dồn chúng vào từ các phía, giống như người chăn bò, di chuyển cả nhóm về hướng khu rừng nơi chúng sinh sống. Lúc này, động vật trong rừng đã nhận ra âm thanh của đoàn xe lùa voi. “Chúng tôi lái xe vào khu vực, và chúng rời đi.” Sĩ quan Raj khẽ mỉm cười. Anh không phải người hay cười. “Điểm này có lợi cho chúng tôi.”

Sĩ quan Raj khiến việc tuần tra voi nghe như kiểm soát an ninh ở trung tâm thương mại, nhưng rõ ràng có nhiều rủi ro. Một sĩ quan tuần tra ngồi cùng chúng tôi đã bị buộc tội bốn lần. “Họ nói bạn không được chạy,” anh nói. “Và phải nói thật với cô, rất khó làm thế khi con voi đang lao thẳng vào mình!” Đề nghị đi cùng của tôi bị từ chối, và lần thứ hai cũng vậy. Vẻ mặt của Sĩ quan Raj cho thấy tôi đã trở thành một “chuyện phiền toái”, nên tôi đành từ bỏ.

Nếu có, thương vong thường xảy ra trong nửa giờ hoặc hơn trước khi đội đến nơi. Khi phát hiện voi phá hoại mùa màng của mình, dân làng chạy ra khỏi nhà, la hét, ném đá, đốt đuốc và đốt pháo (Lửa thường làm voi hoảng sợ và bom đạn đã hạn chế tính hữu dụng của voi trong chiến tranh. Mặc dù nhìn từ xa, hình ảnh những “chiến tượng” mặc áo giáp với thanh kiếm buộc vào vòi mang lại lợi thế về mặt tâm lý, nhưng điều này nhanh chóng biến mất khi hai bên xích lại gần nhau hơn. Các tài liệu ghi chép rằng voi quay đầu và bỏ đội hình khi nghe tiếng súng hỏa mai hoặc thấy những mũi tên rực lửa. Một con voi bỏ chạy, vung kiếm xông vào đội quân của chính mình có thể gây ra nhiều thương vong tương tự điều chúng có thể gây ra cho kẻ thù. - TG). Một ngôi làng có thể có những “người chăn voi” tự do chuyên dùng chày và thực hiện các biện pháp dân gian không được khuyến khích khác. Voi đực và voi cái đầu đàn có thể lao vào phòng thủ, còn các con voi cái và voi con bình thường vốn điềm tĩnh thì có thể hoảng sợ và giẫm đạp. Trong bóng tối của cánh đồng, con người dễ vấp ngã và voi lại không thấy đường để chạy và, như mẹ tôi thường nói, sẽ có ai đó bị thương.

Sĩ quan Raj nói: “Dẫn voi là việc dễ dàng. Hướng dẫn mọi người mới là việc khó khăn. Họ không để tâm lắng nghe.” Họ khó chịu và điều đó cũng dễ hiểu. Nông dân trong làng làm việc quần quật và không dư dả nhiều. Một con voi châu Á có thể tiêu thụ đến 136 kg thực vật trong ngày. Trong lúc đột kích và giẫm đạp, một đàn voi nhỏ có thể nhanh chóng ngốn hết công sức lao động và sinh kế cả một vụ mùa.

Một con voi giữa cánh đồng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy hành động thiếu khôn ngoan. Naha cho biết, đưa ra phán đoán lung tung và thiếu khả năng kiểm soát xung lực của cơn cuồng loạn có thể dẫn đến kết cục rất thảm khốc. Anh ngồi xổm trước cái loa, gỡ một đống dây điện. “Đây là những gì chúng tôi thấy. Một nhóm người say rượu. Có người muốn làm anh hùng nên đi tới trước mặt con vật, quấy rối nó và để tự vệ, con vật đó...” Naha cũng tránh động từ giết khi hạ giọng đầy ngụ ý. “Tai nạn đã xảy ra”. Theo dữ liệu của anh, 36% số người bị voi giết ở Bắc Bengal từ năm 2006 đến năm 2016 là lúc đang say rượu. Về sau, tôi thấy dòng tiêu đề này trên tờ Hindustan Times: “Người đàn ông say rượu thách thức đàn voi, bị giẫm chết ở Jharkhand” (Jharkhand giáp Tây Bengal). “Anh ta đã cố gắng chiến đấu với chúng”, một nhân viên kiểm lâm nói với phóng viên. “Chúng” ở đây là mười tám con voi.

Nguy thay, voi cũng thích chè chén. Ở Bắc Bengal, voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. (Vì voi thiếu enzyme chính để phân hủy ethanol nên cần lượng ít hơn bạn nghĩ). Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng – thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn.

Có dữ liệu củng cố cho các nhận xét của Sĩ quan Raj. Năm 1984, trong một nghiên cứu tại Khoa Tâm thần và Khoa học Hành vi Sinh học UCLA, ba con voi châu Á “không có tiền sử sử dụng rượu” và bảy con voi châu Phi từ Lion Country Safari đã được phục vụ một “thùng phuy lớn” nước có cồn. Các con vật này sau đó có xu hướng đi lang thang, rời xa đàn. Chúng đứng hoặc nghiêng mình, nhắm mắt lại hoặc “quấn vòi quanh mình”. Chúng bỏ bữa. Chúng không buồn tắm. Voi cái đầu đàn trở nên to tiếng và hung dữ hơn, cũng như con voi đực tên Congo.

Để ngăn voi uống rượu và say xỉn, có thể dân làng sẽ kéo rượu mạnh vào trong nhà. Một ý tưởng khủng khiếp. Vì giờ người ta không phải lo lắng về những con voi say xỉn mà là những con voi quyết tâm say xỉn – tức là những con voi ngửi thấy mùi rượu trong nhà và thấy chẳng có lý do gì lại không đập bỏ một bức tường để vào uống. Trong khảo sát của Naha, trong các vụ thương vong do voi gây ra, 8% người dân Bắc Bengal bị giết khi đang ngủ.

Ghế ngồi đã được lấp đầy gần hết và Naha cầm micro lên để bắt đầu bài nói của mình. Tất nhiên, anh nói bằng tiếng Hindi nên Aritra sẽ phiên dịch, thỉnh thoảng cúi sang và khum tay vào tai tôi để nói một câu đơn với nhịp điệu dứt khoát, bí hiểm. “Đã say thì không nên đi trước voi”. “Luôn luôn phải đi phía sau voi.”

Naha là một diễn giả biểu cảm với vốn từ vựng trôi chảy về cử chỉ tay. Tôi không ngờ tới điều này. Ngoài sân khấu, anh là người tiết kiệm cả chuyển động lẫn lời nói. Anh đứng với đôi vai vuông vức và bàn chân hướng ra ngoài như để tạo một chỗ dựa vững chắc. Anh giống người đàn ông tôi vẫn thường thấy trên các biển quảng cáo Xi măng Ambuja, dáng đứng vững vàng và bình thản với cả đập thủy điện ầm ầm trong tay. Tôi đã nghe anh nói “Tôi từng bị một con hổ đuổi theo” với giọng điệu như thường ngày bạn hay tôi vẫn nói “Tôi từng ở Omaha”.

Triết lý đằng sau trại nâng cao nhận thức rất đơn giản. Nếu muốn tiếp cận ai đó, hãy nói chuyện với họ khi họ đang thoải mái và tỉnh táo. Cho họ ngồi xuống và để Aritra phục vụ họ một tách trà và samosa. Mọi người càng hiểu rõ về đặc điểm sinh học của voi và hành vi của đàn voi thì các cuộc chạm trán càng an toàn. Mấu chốt là phải giữ bình tĩnh và cho con vật không gian. Đặc biệt là voi mẹ đi cùng con, đặc biệt hơn nữa là voi đực đơn độc, và đặc biệt hơn hơn nữa là voi đực đang kỳ musth. (Một số đặc điểm nổi bật của kỳ musth, nhờ được Jayantha Jayewardene hỗ trợ thông tin: các tuyến trên thái dương tiết rỉ nhiều, cương cứng thường xuyên và “đôi mắt yêu tinh mở to hoàn toàn với nhãn cầu di chuyển”.)

Có một điểm khác cần phải nhấn mạnh với mọi người. Sĩ quan Raj đã đề cập đến trước đó, khi chúng tôi trò chuyện: “Con người chúng ta, đang làm phiền chúng.”

Bối rối thay, điều này bao gồm cả công việc chuyên môn của các chuyên gia như Sĩ quan Raj. Chăn dẫn voi về khu rừng gần nhất mang lại lợi ích tức khắc cho dân làng nhưng về lâu dài, Naha nói với tôi, việc này khiến vấn đề trầm trọng hơn. Vì điều này chọc tức voi. Chúng bắt đầu gán con người với nỗi lo lắng và thiếu thốn khi bị đuổi đi đương lúc kiếm ăn. Chúng bắt đầu kiên quyết hơn để bảo vệ mình. Báo cáo từ các khu vực có xung đột ở bang Assam lân cận cho biết voi cái đang bắt đầu trở nên hung dữ y như voi đực.

Naha tin rằng một hệ thống tốt hơn sẽ kết hợp các cảm biến để phát hiện đàn voi đang tiếp cận. Cảnh báo được gửi tới các trưởng làng và các đội phản ứng địa phương đã qua đào tạo, họ sẽ theo dõi tình hình và cố gắng can thiệp trước khi ruộng nương bị giẫm đạp và sự hỗn loạn nổ ra. Naha không có ý nhắc đến cảm biến chuyển động hay cảm biến nhiệt, cả hai đều kích hoạt với các động vật hữu nhũ khác. Ý anh là cảm biến địa chấn: loại được kích hoạt bởi các rung động mạnh đến mức chỉ có tiếng bước chân của một con voi (hoặc động đất nhỏ) mới làm được. Trong khi đó, điều bạn có thể làm để giảm bớt gánh nặng cho nhân loại: tiếp tục nỗ lực khôi phục rừng và để yên cho các khu bảo tồn.

--

Phó quản lý của đồn điền trà Gopalpur mặc quần short dài gọn gàng và đi giày thể thao phồng màu neon. Đầu nghiêng ra sau khiến anh trông có vẻ xa cách, hoặc chỉ vì anh cần một cặp kính mới. Anh ra chào khi chúng tôi lái xe vào. Trại nâng cao nhận thức dành cho công nhân, điểm dừng chân thứ hai của chúng tôi trong tuần này, dự kiến sẽ bắt đầu sau nửa giờ nữa. Nhưng trước tiên phải làm một tách trà đã.

Phó quản lý là dạng người của những con số. Anh nói, khu đất này rộng 1.200 mẫu Anh và đặt các tách trà trước mặt chúng tôi. Hai nghìn một trăm công nhân thu hoạch lá trà. Chúng tôi vừa lắng nghe vừa nhấm nháp, rồi anh dẫn chúng tôi ra khỏi cửa và băng qua đường, đến một cái rạp mở nơi Naha sẽ diễn thuyết.

Công nhân đã đến rồi. Họ xem qua tờ rơi để trên mỗi cái ghế, đặt trong loại túi nhựa trong có thể đóng lại được (tên thương hiệu: My Clear Bag). Phụ nữ ngồi một bên, tách biệt với nam giới. Naha loay hoay với hệ thống âm thanh, cửu vật từ thời xưa trước khi có phim phát trực tuyến, khi điền trang này mời đến các ban nhạc sống phục vụ hoạt động giải trí cuối tuần.

Trời nóng và ẩm ướt. Các quản lý đồn điền đến muộn. Công nhân dùng cái túi trong suốt của mình để quạt. Thời gian trôi qua. Có người từ nhà phó quản lý mang khay tới. Thêm trà! Phần của chúng tôi được phục vụ trong cốc sứ có kèm đĩa. Các công nhân thì nhấp từng ngụm từ cốc giấy – loại cốc nhỏ không lớn hơn ly uống rượu. Tôi chỉ muốn nói, Gì vậy trời, các vị có đến 1.200 mẫu đất cơ mà.

Các quản lý đã đến! Những chiếc SUV như xe biệt đội, lao nhanh và phanh gấp. Cửa xe mở ra và đóng sầm lại, và các quản lý, tổng cộng năm người, bước vào hiện trường. Các công nhân đồng loạt đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Thay vì ngồi cùng Aritra và tôi trên ghế khán giả, các quản lý lại bước lên một dãy bàn đặt trên sân khấu. Họ mở những chai nước được đặt ở chỗ ngồi của mình cùng sổ ghi chú và bút. Trên sân khấu đa dạng đến ngạc nhiên các bộ ria mép.

Các quản lý lần lượt cầm micro. Aritra hét lên phần dịch của mình át hẳn tiếng loa âm lượng cỡ sảnh khiêu vũ. Người quản lý đầu tiên nhấn mạnh các công nhân phải chú ý, vì ta ở gần sông và rừng nên sẽ gặp vấn đề với voi. Anh đưa mic cho quản lý bên cạnh, người này vạch ra chiến lược ngăn chặn voi hiện tại của đồn điền: một đội tuần tra bằng máy kéo, đốt pháo khi cần thiết. Micro tiếp tục chuyến hành trình của mình. Quản lý tiếp theo lại là anh chàng của các con số. Trong 12 năm anh ta làm việc ở đây, có bảy hay tám người đã bị voi giết chết.

Cuối cùng micro được trao cho Naha. Trên thực tế, các công nhân rất chú ý lắng nghe, chăm chú đến mức tôi tự hỏi liệu họ có bị phạt nếu nhìn đi chỗ khác hay không. Còn các quản lý lại thì thầm với nhau và lén nhìn điện thoại đặt trong lòng. Một người nhận cuộc gọi, đưa tay che ngang điện thoại như thể, giống như ợ hơi, hành vi đó sẽ đỡ thô lỗ hơn.

Khi phần trình bày kết thúc, Naha mời các công nhân tham gia đặt câu hỏi và nhận xét. Một người hái trà ngay lập tức đứng dậy khỏi ghế. Cô ấy lớn tuổi hơn nhiều người, có lẽ đã 50 và ăn mặc giống mọi phụ nữ ở đây, bộ sari có hoa văn sặc sỡ như khi làm việc trên đồng. Aritra nhảy lên định đưa mic cho cô nhưng cô không cần. Sự tức giận của cô đủ biến thành một bộ khuếch đại. Bộ sậu ria mép ngồi không yên trên ghế.

Aritra tiếp tục dịch. “Các vị bảo chúng tôi thay đổi cây trồng,” người phụ nữ nói, ám chỉ những khu vườn nhỏ của công nhân. “Từ ngô, gạo thành gừng, ớt, những thứ voi không thích. Nhưng chúng tôi trồng ngô và lúa để nuôi sống chính mình. Ngoài ra, khi máy kéo đi rồi, voi sẽ quay lại, lần nữa, lần nữa. Voi cần rất nhiều thức ăn.” Người phụ nữ lại ngồi xuống. “Ta cần các biện pháp khác.”

Cô ấy nói đúng, nhưng giải pháp tốt thường khó thi hành. Trên thực tế, các biện pháp mà trực giác thấy hiển nhiên lại bị hạn chế do chi phí và các vấn đề có thể phát sinh. Hàng rào điện là một ví dụ. Cần đủ lượng để xua đuổi các đàn voi, nhưng không được quá nhiều đến mức cản trở quá trình di cư của chúng. Việc duy trì và sửa chữa các dải hàng rào dài rất tốn thời gian, tốn tiền và thường không hoàn thiện. Hoặc thực hiện sai. Điện áp phải đủ cao để khiến voi nản lòng nhưng không cao đến mức khiến nó bị điện giật. Trung bình mỗi năm có 50 con voi bị điện giật chết ở Ấn Độ.

Và một thách thức đáng kể là trí thông minh của loài voi. Một con voi Ấn Độ khi đối mặt với hàng rào điện có thể sẽ sớm tìm ra cách vượt qua mà không bị điện giật. Nó sẽ nhận ra rằng gỗ không dẫn điện. Nó sẽ đẩy cột xuống hoặc sẽ nhặt một khúc gỗ và dùng nó để đè dây xuống cho con khác bước qua.

Không phải lúc nào trí thông minh cũng có lợi cho voi. Trong lịch sử, voi đã luôn bị bắt làm việc cho quân đội Ấn và gần đây là ngành công nghiệp khai thác gỗ. Chúng được đối đãi như các nhân viên, theo đó Sở lâm nghiệp ghi lại số giờ làm việc của chúng vào sổ đăng ký công việc. Những “công nhân voi” này tất nhiên không được trả lương, nhưng Naha nói với tôi, ở tuổi 50, chúng được hưởng “lương hưu” dưới hình thức chỗ nghỉ hưu tại một pikhana (chuồng voi) với ba bữa ăn và tắm rửa mỗi ngày, kèm theo xoa bóp bằng dầu.

Khi mọi người đứng dậy khỏi ghế để rời đi, tôi nhờ Aritra giới thiệu mình với người phụ nữ đã dám lên tiếng lúc nãy. Tên cô ấy là Padma. Cô phiền muộn là có lý do. Một tuần trước, cô thức dậy lúc 4h30 sáng và thấy một con voi đã dỡ tường và ăn hết số ngũ cốc cô bán trong một quán rượu nhỏ ở khu công nhân. Cô vẫn chưa nhận được tiền bồi thường từ điền trang.

Một nhóm nhỏ các quản lý lượn lờ trong tầm nghe. Một người đứng ra đánh lạc hướng cuộc trò chuyện. “Xin chào, cô đến từ Mỹ, con trai tôi làm việc ở Memphis, khách sạn hạng nhất, cô có biết khách sạn Memphis không?” Quả thực tôi biết khách sạn này, những con vịt đi xuống cầu thang ở sảnh mà không vì lý do rõ ràng nào liên quan đến vịt hay khách sạn. Tôi tập trung vào Padma. (Truyền thống về những chú vịt ở đài phun nước The Peabody: Những năm 1930, Frank Schutt, Tổng giám đốc của The Peabody và một người bạn, Chip Barwick, trở về sau chuyến đi săn cuối tuần đến Arkansas. Họ đã uống quá nhiều rượu whisky và nghĩ rằng sẽ rất buồn cười nếu đặt một số mồi nhử vịt sống của họ (lúc đó những người thợ săn sử dụng mồi nhử sống là hợp pháp) trong đài phun nước Peabody xinh đẹp. Ba chú vịt nhỏ được chọn làm “chuột lang” và phản ứng không kém phần nhiệt tình. Từ đó bắt đầu một truyền thống đã trở nên nổi tiếng trên thế giới. Năm 1940, Bellman Pembroke, cựu huấn luyện viên động vật ở rạp xiếc, đã đề nghị giúp đưa những con vịt đến đài phun nước mỗi ngày và dạy chúng trò diễu hành Vịt Peabody nổi tiếng hiện nay. Ông Pembroke trở thành Peabody Duckmaster, phục vụ với cương vị đó trong 50 năm cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1991. Gần 90 năm sau cuộc tuần hành khai mạc, đàn vịt vẫn ghé thăm đài phun nước ở sảnh từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều mỗi ngày. - ND)

Aritra tiếp tục dịch. “Đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra với cô ấy.”

Người quản lý vẫn tiếp tục: “Năm giờ vịt đi xuống...”

Naha tham gia cùng chúng tôi. Anh đề xuất chúng tôi lái xe đến khu công nhân để xem đống đổ nát ở cửa hàng của Padma. Các quản lý trao nhau những cái nhìn cấp thiết, nhưng đã quá muộn. Chúng tôi chen vào xe với Padma và quay đi.

Tiệm tạp hóa nhỏ bé không hẳn bị cướp phá mà bị san bằng. Một bức tường tôn nằm ọp ẹp bên dưới dầm đỡ bằng bê tông. Lần trước, một con voi đột nhập vào nhà Padma khi cô đang ngủ. Đây là ví dụ khi “con voi trong phòng” không phải là phép ẩn dụ; khi chuyện đùa về voi không phải là chuyện đùa. Voi “đậu” trên hàng rào nhà bạn lúc mấy giờ? Có lẽ là khoảng 11 giờ đêm.

Voi là loài ăn thực vật nhưng chúng không hề kén ăn. Chúng sẽ ăn hầu hết các bộ phận của cây – hạt, cỏ và lá, thân, cành, vỏ cây. Năm 2017, tại một đồn điền trà ở Sonitpur thuộc quận Assam, ba con voi hoang dã đột nhập vào cửa hàng của công nhân vào lúc 2 giờ sáng và lấy sản phẩm làm từ sợi bông có tên là rupee. Chúng đập hộp đựng tiền và ăn sạch 26.000 rupee mệnh giá lớn.

Một thứ mà voi Ấn Độ không ăn là lá trà. Ai ở đây cũng thích uống trà nhưng rất ít ai, dù là người hay thú, thích ăn trà. Lá trà quá đắng. Các thiệt hại nhỏ về mùa màng xảy ra khi voi giẫm nát cây cối lúc đi qua khu đất, nhưng nhìn chung, người chịu thiệt là công nhân chứ không phải chủ sở hữu và quản lý.

Tuy nhiên, Padma và các đồng nghiệp nói rằng họ không tức giận những con voi. Bảy mươi lăm phần trăm số người được Naha phỏng vấn về việc voi đến làng mình đều có cảm xúc tích cực với chúng. Với số lượng thương vong và phá hoại do voi gây ra ở Bắc Bengal, số lượng các vụ giết voi trả thù lại hiếm tới mức ngạc nhiên. Naha cho biết chỉ có 3-5 con voi bị vậy mỗi năm.

Với sự giúp đỡ của Aritra, tôi kể cho Padma nghe điều xảy ra với thú có vú lớn ở Hoa Kỳ khi chúng gây thương tích cho con người hoặc dám đột nhập vào nhà. Tôi hỏi cô ấy liệu những người cô biết có bao giờ bày tỏ mong muốn giết một con voi đột nhập vào nhà hoặc cửa hàng của mình không. “Sao bạn lại giết một vị thần?” cô ấy nói, ám chỉ vị thần Hindu đầu voi Ganesh. “Chúng tôi chỉ nói, ‘Namaste và làm ơn đi đi.’”

Padma dẫn chúng tôi ra cánh đồng trà hiện đang mùa thu hoạch. Công nhân hái trà trải dọc theo các hàng, làm việc trên những bụi cây cao ngang lưng. Chỉ lá non xanh tươi mới được hái. Các công nhân làm tôi nhớ đến những người đánh trống, đứng yên với cánh tay di chuyển nhanh như điện. Họ buộc phải nhanh như vậy. Nếu không đáp ứng được hạn ngạch đã đặt ra, họ sẽ bị trừ lương.

Naha cúi xuống chỉ cho tôi khoảng trống bên dưới bụi trà. Người hái trà đôi khi gây bất ngờ cho một con báo cái đang nằm trong bóng râm cùng đàn con. Có thể con vật hoảng sợ thức dậy và nếu cảm thấy bị dồn vào chân tường hoặc bị đe dọa, nó sẽ lao vào người công nhân. Hiếm có ai tử vong, nhưng vẫn có thương tích. Chín mươi phần trăm các cuộc tấn công của báo hoa mai ở Bắc Bengal xảy ra trong các đồn điền trà.

Chúng tôi quan sát cánh phụ nữ làm việc. Khi hái đầy tay, họ thò tay ra sau đầu để nhét lá vào bao vải đeo trên trán. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Padma trước đó lại rất quan tâm đến chiếc ba lô của tôi. Bạn sẽ thấy rằng các quản lý có thể tìm mua những chiếc túi chuyên dụng phù hợp hơn cho nhiệm vụ của họ. Tôi nói điều này với Naha.

Anh xắn tay áo lên. “Họ được trả 150 rupee một ngày.” Số tiền này thấp hơn giá một ly cà phê cappuccino tại sân bay Delhi. “Đây là tâm lý thuộc địa. Họ chính là những người lao động thuộc bộ lạc mà người Anh đã mang đến từ miền trung Ấn Độ. Người ta thuê họ vì cho rằng họ chăm chỉ và ngoan ngoãn.”

Khi Naha kể cho tôi nghe về sổ đăng ký công việc dành cho động vật, về những chú voi đã nghỉ hưu và chế độ tắm cho chúng, ban đầu tôi rất ấn tượng. Chính phủ ở đây đảm bảo cho động vật làm việc hưởng một số lợi ích tương tự như người lao động bình thường. Bây giờ, nhìn cách người ta đối xử với người hái trà, lối đối xử hợp pháp, thì đánh giá của tôi không còn lạc quan nữa. Tùy thuộc vào giống loài, tôn giáo, giới tính và đẳng cấp của mình, có thể Ấn Độ là nơi làm động vật tốt hơn làm người. Vào năm 2019, chính quyền Delhi công bố kế hoạch cải tạo một trong năm khu bảo tồn mà họ duy trì dành cho những con bò linh thiêng vốn được thả rông, cản trở giao thông của thành phố. Có lẽ để đáp lại chỉ trích rằng thành phố chăm sóc bò tốt hơn người dân, Sở trưởng Sở Chăn nuôi của thành phố đã thông báo: “Chúng tôi đang lên kế hoạch cho một chương trình chung sống độc đáo, nơi người già sẽ được phép ở cùng đàn bò”.

Gần đây mọi chuyện đã trở nên cực đoan hơn. Thủ tướng hiện tại, Narendra Modi lên nắm quyền nhờ sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu. Đây là người đã ban tặng địa vị nhân cách (tư cách pháp nhân) cho sông Hằng. Một dòng sông được bảo vệ nhân quyền, trong khi phụ nữ như Padma kiếm được 150 rupee mỗi ngày và người Hồi giáo bị hành hình vì bán thịt bò.

Khi chúng tôi lên xe để đi, phó quản đốc chạy tới hai tay ôm đầy những chiếc túi Mylar: nửa cân trà cho mỗi người chúng tôi. Aritra cảm ơn anh rồi quay sang Naha khi xe đang chạy. “Đó là CTC.” (Từ viết tắt chỉ một phương pháp xử lý trà.) Với tôi, anh giải thích, “Loại rẻ nhất.”

--

Động vật hoang dã là chủ đề của Khu du lịch Jaldapara thuộc sở hữu của chính phủ, nơi tôi sẽ ở lại tối nay. Khuôn viên gồm mô hình thạch cao kích thước thật các loài động vật hoang dã địa phương. Nhiều tượng đã đổ hoặc có bộ phận bị gãy nằm ngay chỗ đã rơi xuống, trên bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận đến phi lý. Toàn bộ khoảng sân mang đến cảm giác một sân gôn thu nhỏ sau khi có một băng say rượu đến chơi gôn, đánh bại những con vật kỳ quái bằng bóng hoặc gậy đánh gôn.

Tôi yêu nơi này, yêu sự suy tàn siêu thực của nó, yêu người nhân viên không biết bữa sáng được phục vụ ở đâu hay ngay cả chuyện có bữa sáng hay không, thực sự yêu mọi thứ, ngoại trừ phân chuột trên ban công phòng mình. Tôi cố gắng tưởng tượng điều gì có thể thu hút chuột, nơi ban công không có thức ăn và bất cứ gì để làm tổ và thậm chí không có cả tầm nhìn rộng. Dường như lũ chuột chỉ đến để thải ra. Nhà vệ sinh chuột Jaldapara.

Đã có kế hoạch tu sửa khu nghỉ dưỡng này vì Bộ trưởng Lâm nghiệp Tây Bengal đang làm việc với Tổng công ty Phát triển Du lịch Tây Bengal nhằm thiết lập một khu bảo tồn tê giác ở khu rừng lân cận. Đây chính là khu rừng mà Naha, Aritra và tôi sắp tới. Chúng tôi sẽ theo dõi một “con báo thử nghiệm xung đột” đeo vòng cổ sóng vô tuyến – con báo số 26279 – đã được chuyển đến đây một năm rưỡi trước, khi người ta quyết định vùng đất này trở thành khu bảo tồn động vật hoang dã. Khi đó con vật vẫn chưa trưởng thành và Naha muốn kiểm tra để chắc chắn rằng nó không lớn quá cỡ vòng cổ vô tuyến.

Trong lúc ở đây, Naha sẽ diễn thuyết trước những thôn dân sống ở bìa rừng. Vòng cổ vô tuyến chỉ ra các điểm trên bản đồ, nhưng không trả lời các câu hỏi đặt ra khi thả kẻ săn mồi vào sân sau nhà con người. Có phải con báo đã bắt dê của bạn không? Mọi người có thấy ổn với việc nó ở đây không? Naha đã theo dõi, như một nhân viên xã hội đang sắp xếp việc nhận nuôi. Anh đã luôn theo dõi con báo từ xa và gọi điện cảnh báo nếu nhận thấy nó đang di chuyển về phía nhà họ.

Sáng nay chúng tôi có tài xế mới, Ashok. Anh hiếm khi tham gia vào cuộc trò chuyện, chỉ hoàn toàn tập trung lái xe. Một khác biệt so với người tiền nhiệm – anh này để tránh ngủ gật đã đính điện thoại thông minh của mình vào bên trong kính chắn gió và phát một bộ phim hài. (Naha không hề hoảng sợ. “Một mắt nhìn điện thoại, một mắt nhìn đường.”)

Chúng tôi rẽ khỏi đường nhựa để vào một đường đất xuyên qua những bụi cây ngày càng dày đặc. Cành cây cào xước hai bên hông xe. Ashok ngày càng im lặng. Anh có vẻ căng thẳng. Tôi đã nói gì sai sao? Anh đang lo lớp sơn xe sẽ bị trầy sao?

Vừa qua một dãy nhà, chúng tôi tấp vào lề đường bên cạnh một người đàn ông đang phun thuốc trừ sâu từ chiếc can đeo trên lưng cho luống súp lơ của mình. Naha xuống xe và ông tắt vòi phun. Một mắt bị đục. Ba người đàn ông khác đi loanh quanh đó. Aritra lắng nghe. Không có gì để báo cáo. Đã một thời gian họ không nhìn thấy con báo nữa.

Chúng tôi lái xe tiếp. Chúng tôi đi ngang qua một tháp canh các đội chống săn trộm thường sử dụng. Naha yêu cầu Ashok dừng lại để anh có thể leo lên và bắt được tín hiệu tốt hơn. Aritra bảo tôi ở lại trong xe với anh.

Naha bước xuống cầu thang của tòa tháp và quay lại xe. Anh bảo rằng chúng tôi hiện chỉ cách con báo 300m.

Chúng tôi cho xe đi tiếp. Đường cụt dẫn đến một con sông rộng. Naha lại bước ra ngoài. Anh đi dọc bờ sông đầy cát, tay cầm ăng-ten phía trên như ngọn đuốc. Phía bên kia, một nhóm đàn ông đang ngâm mình trong nước sâu đến thắt lưng để dọn sạch đám lục bình mọc um tùm.

Naha thò vào cửa sổ ô tô để cho biết rằng chúng tôi hiện đang cách con báo 150m. Tút-tút-tút-tút, có tín hiệu. Chúng tôi không thể đến gần hơn vì “con mèo” to xác đang ở bên kia sông. Anh chỉ tay. “Ngay sát phía trên những người đó.”

Gần đó không có cây cầu nào nên chúng tôi quay lại. Trên vài dặm cuối của chuyến đi, Ashok phá vỡ sự im lặng của mình. Anh và Naha nói chuyện bằng tiếng Hindi. Sau khi Ashok thả chúng tôi xuống, tôi hỏi Naha họ đã nói gì.

“Cha anh ấy đã bị báo hoa mai giết chết.”

Cha anh đi nhặt củi. Không thấy cha về, Ashok, lúc đó mới 12 tuổi đã cùng vài người bạn đi tìm. Họ tìm thấy ông, vẫn còn sống, dưới lòng sông. Giống nơi những người đàn ông khi nãy làm việc, cách con báo vài chục mét. “Họ đưa ông đến bệnh viện,” Naha nói, “nhưng ông không qua khỏi. Ông bị thương quá nhiều. Mắt, và mọi chỗ. Hẳn ông đã bị tấn công tới tấp”.

Ashok sẽ không làm tài xế chặng tiếp theo và như vậy là tốt nhất. Chúng tôi đang hướng về Pauri Garhwal, điểm nóng có nhiều vụ tấn công của báo hoa mai. Không phải kiểu chạm trán diễn ra trên đồn điền trà khi công nhân bất thình lình nhìn thấy con báo ngủ dưới gốc cây. Đó là những vụ rình rập, giết người được thực hiện có chủ ý.

Đọc bài viết

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Cafe sáng