Trích đăng

Chương 1 “Lưỡng Giới” – Jeffrey Eugenides

“Tôi sinh ra hai lần: lần đầu, là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa, là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petoskey, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Lưỡng giới

Tác giả: Jeffrey Eugenides

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: tháng 7.2019

CÁI THÌA BẠC

Tôi sinh ra hai lần: lần đầu, là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa, là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petoskey, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974. Độc giả chuyên ngành có thể đã tình cờ bắt gặp tôi trong nghiên cứu của Tiến sĩ Peter Luce, “Bản Dạng Giới trong trường hợp Lưỡng giới tính Giả do thiếu enzyme 5-Alpha-Reductase,”1 đăng trên Tạp chí Nội tiết Nhi khoa năm 1975. Hoặc bạn thấy ảnh chụp tôi ở chương mười sáu cuốn Di Truyền Học và Di Truyền mà giờ đây đáng tiếc đã lỗi thời. Tôi chính là đứa trần truồng đứng cạnh biểu đồ tăng trưởng chiều cao với băng đen che hai mắt ở trang 578.

Tên tôi trên giấy khai sinh là Calliope Helen Stephanides. Bằng lái xe gần đây nhất (do Cộng hòa Liên bang Đức cấp) chỉ ghi đơn giản là Cal. Tôi từng là thủ môn khúc côn cầu, thành viên lâu năm của Hiệp hội Cứu Lấy Loài Lợn Biển, kẻ hiếm khi đi lễ của Giáo hội Chính thống Hy Lạp, và phần lớn thời gian khi trưởng thành, nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Cũng như Tiresias2, ban đầu tôi là một thứ rồi sau biến thành thứ khác. Tôi bị bạn bè cùng lớp chế giễu, bị bác sĩ biến thành chuột lang thí nghiệm, bị bác sĩ chuyên khoa sờ nắn, và bị tổ chức March of Dimes3 nghiên cứu. Một con bé tóc đỏ ở khu Grosse Pointe phải lòng tôi mà không hề biết tôi bị làm sao. (Anh nó cũng mê tôi.) Một chiếc xe tăng có lần đẩy tôi vào trận chiến trong thành phố; một cái bể bơi biến tôi thành huyền thoại; tôi rời bỏ cơ thể mình đến cư ngụ những cơ thể khác – và tất cả những chuyện này đều xảy ra trước khi tôi bước sang tuổi mười sáu.

Nhưng lúc này đây, ở tuổi bốn mươi mốt, tôi cảm thấy một lần chào đời nữa đang đến gần. Sau hàng thập kỷ quên lãng, tự nhiên tôi nghĩ đến những bà trẻ ông trẻ đã về nơi chín suối, những người ông thất lạc từ lâu lắm, những đứa anh em họ năm đời bắn đại bác không tới chả biết ai là ai, hay trong trường hợp gia đình lai cận huyết như nhà tôi, một người mang tất cả các vai trò ấy. Vì thế trước khi quá muộn, tôi muốn viết về nó một lần dứt khoát cho xong luôn: cuộc phiêu lưu xuyên thời gian đầy thăng trầm của chiếc gen duy nhất. Hỡi Thi Thần, xin cất lời ca về đột biến lặn trên nhiễm sắc thể thứ năm của tôi! Hãy hát về thời nó đơm hoa trên sườn núi Olympus hai thế kỷ rưỡi trước, khi dê thì be be còn ôliu thì rụng quả. Hãy hát về chuyện nó được truyền qua chín thế hệ, vô hình tập hợp lại trong cái vốn gen ô uế của gia đình Stephanides. Và hát về Thượng đế, dưới lốt vỏ cuộc thảm sát, làm cho cái gen đó lại bay đi rất xa; về chuyện nó bị thổi vù như hạt giống qua đại dương tới Hoa Kỳ, được mưa ô nhiễm công nghiệp cuốn đi cho đến khi rơi xuống miếng đất màu mỡ là cái tử cung vùng Trung Tây của bà bô tôi.

Xin lỗi nếu thỉnh thoảng tự dưng tôi có hơi hướm Homer quá.

Cái đó cũng di truyền đấy.

Ba tháng trước khi tôi chào đời, sau một bữa tối Chủ nhật linh đình, bà nội Desdemona Stephanides sai anh tôi đi lấy hộ bà hộp tằm. Chương Mười Một đang vào bếp lấy suất bánh pút đinh gạo thứ hai thì bị bà chặn lại. Năm mười bảy tuổi, vừa lùn tè vừa to bè bè, cùng bộ lưới bao tóc nom rất hãi, bà tôi phù hợp hoàn hảo với việc chặn đường người khác. Trong bếp phía sau bà, cả đội quân đàn bà ngày hôm đó đang tụ tập cười đùa to nhỏ. Tò mò, Chương Mười Một nghiêng người sang bên dòm xem đang có vụ gì, nhưng Desdemona giơ tay véo thật lực vào má anh. Sau khi khiến anh tập trung trở lại, bà vẽ một hình chữ nhật lên không trung rồi chỉ lên trần nhà. Đoạn, qua hàm răng giả lắp không khít, bà bảo, “Đi nấy4 hộ yia yia5 cái, cục cưng mou6.”

Chương Mười Một biết phải làm gì. Anh phóng qua hành lang vào phòng khách. Anh bò lên cầu thang tới tầng hai. Anh vọt qua các phòng ngủ nằm dọc hành lang tầng trên. Ở phía cuối hành lang là cánh cửa cơ hồ tàng hình, bị giấy dán tường đè lên như thể dẫn vào lối đi bí mật. Chương Mười Một định vị được nắm đấm cửa nhỏ xíu cao ngang đầu, đoạn vận hết công lực mở ra. Sau cánh cửa là cầu thang nữa. Anh lưỡng lự ngó đăm đăm vào bóng tối phía trên một lúc lâu rồi mới chầm chậm bò lên căn áp mái nơi ở của ông bà.

Đi giày thể thao anh băng qua dưới mười hai cái lồng chim quây báo ẩm ướt treo trên rui nhà. Làm mặt can trường anh xông vào cái mùi chua lòm của bọn vẹt đuôi dài, và mùi hương riêng của ông bà tôi, một hỗn hợp thuốc diệt mối với thuốc hasit7. Anh khéo len qua cái bàn chất đầy sách vở với bộ sưu tập đĩa nhạc dân gian Hy Lạp rebetiko của ông nội. Cuối cùng, va vào ghế Ottoman da và cái bàn cà phê mặt tròn bằng đồng, anh tìm thấy giường ông bà, và dưới gậm giường, cái hộp tằm.

Được tạc từ gỗ ôliu, chỉ nhỉnh hơn hộp giày một chút, cái hộp có nắp bằng thiếc đục những lỗ thông hơi nhỏ xíu và dát hình một vị thánh chả nhận ra được là ai. Mặt vị thánh đã mòn, nhưng những ngón trên bàn tay phải thì giơ lên ban phước cho một cây dâu tằm màu tím, thấp tè, vẻ siêu ngạo mạn. Sau khi đờ đẫn nhìn hình ảnh thực vật sinh động này mất một lúc, Chương Mười Một bèn kéo cái hộp trong gậm giường rồi mở ra. Bên trong là hai vòng hoa cưới được tết từ dây thừng và hai bím tóc dài cuộn lại như con rắn, mỗi bím đều thắt ruy băng đen nhàu nhĩ. Anh chọc ngón trỏ vào bím tóc. Đúng lúc đó một con vẹt quác mồm gào toáng làm ông anh tôi giật nảy người, anh bèn đóng hộp lại, kẹp vào nách, đoạn mang xuống lầu cho Desdemona.

Bà vẫn đợi ở bậu cửa. Cầm lấy hộp tằm từ tay anh, bà quay lại bếp. Đến lúc này Chương Mười Một mới được thấy trọn căn phòng, nơi đồng loạt các mẹ các chị tự dưng im bặt. Họ dịch sang bên để Desdemona đi qua và ngay giữa tấm lót sàn là bà bô tôi. Tessie Stephanides ngồi ngả người ra ghế ăn, mình bẹp dí dưới cái bụng chửa to đùng căng như mặt trống. Khuôn mặt bà, đỏ hồng và nóng bừng, lộ vẻ bơ phờ nhưng vui sướng. Desdemona đặt hộp tằm lên bàn bếp rồi mở ra. Bà luồn tay xuống dưới vương miện với bím tóc lấy ra thứ mà Chương Mười Một không nhìn thấy: cái thìa bằng bạc. Bà buộc mẩu dây vào cán thìa. Đoạn bà chúi tới giơ cái thìa lên trên cái bụng căng phồng của bà bô tôi. Và, cũng chính là lên trên tôi.

Cho đến lúc này Desdemona vẫn giữ được kỷ lục hoàn hảo: hai mươi ba lần dự đoán chính xác. Bà đã biết Tessie sẽ là Tessie. Bà đoán giới tính của anh tôi cùng tất thảy con cái bạn bè ở nhà thờ. Đứa duy nhất bà không đoán giới tính là con bà, bởi người mẹ mà đi thăm dò chính tử cung đầy bí ẩn của mình là chuyện xui xẻo. Tuy vậy, bà chẳng ngại thăm dò tử cung bà bô tôi. Sau chút lưỡng lự ban đầu, cái thìa đánh mình từ Bắc sang Nam, thế nghĩa là tôi sẽ là bé trai.

Chân giạng tè he trên ghế, bà bô tôi cố nặn ra một nụ cười. Bà không muốn có con trai. Bà có một đứa rồi. Thực ra bà chắc mẩm tôi sẽ là con gái đến độ chỉ chọn cho tôi mỗi một cái tên: Calliope. Nhưng khi bà tôi hét lên bằng tiếng Hy Lạp, “Con trai!” thì tiếng hét lan khắp phòng, ra ngoài hành lang, xuyên qua hành lang vào phòng khách nơi cánh đàn ông đang tranh cãi chuyện chính trị chính em. Thế là bà bô, nghe từ đó vang đi vang lại quá nhiều lần, bắt đầu tin biết đâu là con trai thật.

Tuy vậy, ngay sau khi tiếng hét lọt tới tai ông bô tôi, ông khệnh khạng vào phòng bảo với bà nội rằng, ít nhất lần này cái thìa của bà sai rồi. “Mày dựa vào cái gì mà tinh tướng thế ?” Desdemona hỏi ông.

Thế là ông đáp lại bằng cái câu nhiều người Mỹ thế hệ ông vận tới:

“Dựa vào khoa học bu ạ.”

Kể từ lúc họ quyết định có thêm đứa nữa – nhà hàng làm ăn tốt với cả Chương Mười Một đã thôi bỉm biếc từ lâu – Milton và Tessie nhất trí họ muốn có con gái. Chương Mười Một vừa lên năm. Cách đó ít lâu anh vớ được con chim chết ngoài sân bèn mang luôn vào nhà cho mẹ xem. Anh mê bắn biếc, dùng búa nện niếc, nghiền nghiếc, và vật lộn với bố. Trong gia đình rặt đàn ông như thế, Tessie dần thấy lạc lõng vì mỗi mình là phụ nữ và hình dung mười năm tới sẽ bị giam hãm trong cái thế giới của các kiểu ốp mâm xe với bệnh thoát vị. Bà mơ có con gái để cân bằng quyền lực: cùng là đồng bọn yêu chó cảnh, cùng ủng hộ đề nghị đi xem chương trình trượt băng nghệ thuật Ice Capades. Mùa xuân năm 1959, khi chuyện bàn bạc thụ thai tôi diễn ra, bà bô tôi không tiên lượng được việc chẳng bao lâu sau hàng nghìn phụ nữ rồi sẽ đốt sạch xu chiêng của họ. Xu chiêng của bà độn bông, cứng ngắc, lại khó cháy. Dù rất yêu con trai, Tessie biết có những chuyện bà chỉ chia sẻ được với con gái mà thôi.

Sáng sáng khi chạy xe đi làm, ông bô tôi thấy ảo ảnh một bé gái bé bỏng mắt đen láy dễ thương vô bờ bến. Nó ngồi trên ghế cạnh ông – hiện lên hầu hết vào lúc chờ đèn đỏ – đặt câu hỏi cho cái tai kiên nhẫn biết tuốt của ông. “Bố ơi cái đó gọi là gì ạ?” “Cái đó à? Đó là huy hiệu hãng Cadillac con ạ.” “Huy hiệu Cadillac là gì ạ?” “Chà, hồi xưa, có một nhà thám hiểm người Pháp tên là Cadillac, và ông chính là người phát hiện ra Detroit. Đó là huy hiệu của gia tộc ông ấy, ở Pháp.” “Pháp là gì ạ?” “Pháp là một quốc gia ở châu Âu.” “Châu Âu là gì ạ?” “Là một lục địa, giống một miếng đất bự, bự hơn một quốc gia rất rất nhiều. Nhưng không phải chỉ châu Âu mới có xe Cadillac nữa đâu, kukla8ạ. Ngay trên nước Mỹ cổ xưa tốt lành này đã sản xuất ra nó rồi con ạ.” Đèn xanh bật lên, ông lái xe đi. Nhưng cái vật mẫu cho tôi ấy vẫn nấn ná lại. Nó hiện ra ở trạm đèn đỏ tiếp theo rồi tiếp theo nữa. Được đồng hành với nó dễ chịu đến mức ông bô tôi, một người đàn ông óc tuyền sáng kiến, quyết định xem mình có thể biến ảo ảnh thành hiện thực không.

Vì thế thời gian gần đây, trong phòng khách nơi cánh đàn ông vốn hay bàn bạc chuyện chính trị, họ cũng bắt đầu bàn về tốc độ tinh trùng. Peter Tatakis, “chú Pete,” bọn tôi vẫn gọi vậy, là thành viên đứng đầu câu lạc bộ tranh biện được thành lập hằng tuần trên ghế xô pha đôi màu đen nhà chúng tôi. Độc thân cả đời, chú chả có họ hàng thân thích gì ở Mỹ cả nên đâm ra gắn bó với gia đình tôi. Chủ nhật nào chú cũng lái con Buick màu đỏ thẫm đến chơi, cao lớn, mặt quắt lại vẻ buồn bã, nhưng trên đầu tóc tai lại xoăn tít đầy sức sống. Chú chả thiết gì chuyện con cái. Vốn ủng hộ xê ri Những Đại Danh Tác – đã nghiền những hai lần – chú Pete chỉ quan tâm tới những tư tưởng nghiêm túc với cả opera Ý. Trong lĩnh vực lịch sử, chú mê sử gia Edward Gibbon9, còn trong lĩnh vực văn chương là những ghi chép của Madame de Staël10. Chú khoái trích dẫn ý kiến của quý bà dí dỏm đó về ngôn ngữ Đức, rằng tiếng Đức dùng đối thoại không hợp vì ta phải chờ đến cuối câu mới nghe được động từ, nên chả thể nào cắt ngang được. Chú Pete từng muốn trở thành bác sĩ, nhưng “tai ương” đã bóp chết ước mơ đó. Ở Mỹ, chú mài đũng quần hai năm ở trường dạy nắn khớp xương, và giờ đây quản lý phòng khám nhỏ ở thành phố Birmingham với bộ xương người vẫn chưa trả góp xong. Hồi đó, thiên hạ không tin tưởng mấy một người nắn xương. Người ta chả đến chỗ chú Pete để phóng xuất năng lượng hỏa xà kundalini. Chú bẻ cổ, nắn thẳng xương sống, và làm đệm độn vòm bàn chân từ cao su xốp. Dẫu vậy, vào những buổi chiều Chủ nhật thời kỳ đấy, trong số những vị khách đến nhà tôi, chú vẫn là người đạt gần đến tầm của một bác sĩ nhất. Khi còn trẻ, chú phẫu thuật cắt bỏ nửa dạ dày, và giờ đây cứ sau bữa tối là lại làm một lon Pepsi cho tiêu cơm. Cái thức uống nhẹ này được đặt tên từ enzyme pepsin giúp tiêu hóa, chú bảo với chúng tôi vẻ thông thái, thành thử nó hợp với vai trò đó.

Chính cái kiểu kiến thức này khiến ông bô tôi tin sái cổ những gì chú Pete nói khi bàn chuyện liên quan tới kế hoạch sinh sản. Đầu ngả vào gối dựa, chân không mang giày, bản opera Madama Butterfly bật khe khẽ trên dàn, chú Pete giải thích rằng dưới kính hiển vi tinh trùng mang nhiễm sắc thể giai bơi nhanh hơn tinh trùng mang nhiễm sắc thể gái. Nhận định này ngay lập tức làm cho mấy ông chủ nhà hàng với thợ hoàn thiện đồ lông thú11 tụ tập ở phòng khách nhà tôi hồ hồ hởi hởi. Tuy nhiên, ông bô lại chơi một kiểu ngồi giống bức tượng Người suy tư12 mà ông rất yêu thích và có một bức mini đặt trên bàn điện thoại phía bên kia phòng. Mặc dù chủ đề này được đưa ra trong không khí tự do cởi mở sau bữa tối Chủ nhật, và cung cách thảo luận không có gì ám chỉ cá nhân, nhưng ai cũng biết tỏng, con tinh trùng mọi người đang bàn tán chính là của ông bô tôi. Chú Pete nói rõ ràng: để có con gái, vợ chồng nên “quan hệ tình dục hai mươi tư giờ trước khi trứng rụng.” Bằng cách đó, tinh trùng trai nhanh nhạy hơn bươn bả đâm bổ tới mà chết sạch. Tinh trùng gái, chậm chạp nhưng đáng tin hơn, sẽ đến đúng lúc trứng rụng.

Cụ giai nhà tôi khó lòng thuyết phục được cụ gái làm theo kế hoạch đó. Tessie Zizmo là trinh nữ khi kết hôn với Milton Stephanides ở tuổi hai mươi hai. Giai đoạn đính hôn, trùng với Đệ nhị Thế chiến, là thời kỳ mà cả hai vẫn còn trinh trắng. Bà tự hào vì đã thành công khi cùng lúc vừa nhen nhóm vừa kìm giữ ngọn lửa của ông bô, khiến ông luôn ở trạng thái ham muốn vừa phải trong suốt cơn biến động toàn cầu. Tuy vậy, chuyện này chả khó khăn mấy bởi bà ở mãi Detroit còn Milton ở tận Annapolis trong Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Suốt hơn một năm, Tessie thắp nến thánh ở nhà thờ Hy Lạp cầu nguyện cho chồng chưa cưới, còn Milton thì ngắm ảnh bà kẹp ở đầu giường. Ông ưa sắp đặt cho Tessie bắt chước các tư thế trên tạp chí điện ảnh, nghiêng người, gót giày kiễng lên bậc, hở đoạn tất đen. Bà bô tôi nom ngoan ngoãn kỳ lạ trong những bức ảnh cũ này, như thể không khoái gì hơn khi được người đàn ông mặc quân phục của mình bố trí cho đứng dựa vào cổng nhà và cột đèn đường ở khu phố nghèo họ sống.

Bà không chịu đầu hàng cho đến khi Nhật đầu hàng. Rồi, từ đêm tân hôn trở đi (theo như những gì ông anh kể vào đôi tai bịt chặt của tôi), ông bà bô làm tình đều đặn và đê mê. Tuy vậy, khi đụng đến chuyện sinh con đẻ cái thì bà lại có chủ kiến riêng. Bà tin rằng bào thai cảm nhận được lượng tình yêu tạo ra lúc thụ thai. Thành thử, gợi ý của ông bô không được bà đồng tình cho lắm.

“Anh nghĩ chuyện này là gì hả Milt, đi thi thế vận hội Olympic à?” “Mình chỉ đang nói về mặt lý thuyết thôi mà em,” ông nói.

“Chú Pete thì biết quái gì chuyện đẻ đái chứ?”

“Chú ấy đọc bài báo đó trên tạp chí Khoa học thường thức Hoa Kỳ đấy,” Milton nói. Rồi để cho lập luận vững chắc hơn: “Chú đặt báo này dài hạn đấy.”

“Nghe này, nhỡ lưng bị lệch, em sẽ đi khám chú Pete. Nếu chân bẹt như chân anh, em cũng sẽ đi khám. Nhưng chỉ thế thôi.”

“Chuyện này đã được kiểm chứng. Dưới kính hiển vi. Tinh trùng giai bơi nhanh hơn.”

“Em cá bọn nó cũng ngu hơn đó.”

“Cứ nói tiếp đi. Nói xấu tinh trùng giai bao nhiêu tùy em. Thoải con gà mái đi. Mình đâu có muốn tinh trùng trai. Thứ mình muốn là một tinh trùng gái già, chậm rãi, đáng tin.”

“Dẫu chuyện kia có thật thì vẫn rất lố bịch. Em đâu thể cứ thế mà làm như cái máy được, Milt ạ.”

“Anh thì còn khó hơn em ấy chứ.”

“Em không muốn nghe nữa.”

“Anh cứ tưởng em muốn có con gái.”

“Em muốn có con gái chứ.”

“Chậc,” ông nói, “thế thì đây là cách để mình có con gái đấy.”

Tessie cười trừ, đoạn gạt phăng đề xuất này. Nhưng đằng sau lời chế nhạo của bà là nỗi e dè rất nghiêm túc về mặt đạo lý. Can thiệp vào chuyện bí ẩn và kỳ diệu như sinh nở là hành động xấc xược. Trước hết, Tessie không tin ta làm được chuyện đó. Mà dù có làm được, bà cũng tin ta không nên thử.

Dĩ nhiên, một người kể chuyện ở vị thế của tôi (còn chưa hoài thai vào thời điểm đó) làm sao mà biết chắc như đinh đóng cột những chuyện này. Tôi chỉ có thể giải thích cơn cuồng khoa học ông bô bị nhiễm hồi mùa xuân năm 59 là triệu chứng của thứ niềm tin đang sinh sôi rồi sẽ làm cả thiên hạ lây nhiễm hồi đó. Xin nhớ cho rằng, vệ tinh Sputnik vừa mới được phóng chỉ hai năm trước đó. Bệnh bại liệt bắt ông bà bô ở rịt trong nhà suốt bao tháng hè lúc còn nhỏ đã bị vắc xin Salk chế ngự. Thiên hạ đâu thể ngờ bọn virus thông minh hơn con người, cứ tưởng rằng chẳng chóng thì chầy bọn nó sẽ thuộc về quá khứ không bao giờ nảy nòi ra lần nữa. Ở cái nước Mỹ hậu chiến đầy lạc quan đó, mà tôi vớt vát được giai đoạn cuối, ai cũng là ông chủ số phận của chính mình, vì thế dĩ nhiên ông bô tôi sẽ cố trở thành ông chủ số phận mình.

Vài ngày sau khi đề cập kế hoạch với Tessie, một tối nọ Milton về nhà mang theo một món quà. Một hộp trang sức có thắt nơ.

“Ý đồ gì đây?” Tessie nghi ngờ hỏi.

“Ý em là sao, sao lại ý đồ gì đây?”

“Hôm nay không phải sinh nhật em. Không phải kỷ niệm ngày cưới. Thế lý do gì anh lại tặng quà cho em?”

“Chả nhẽ phải có lý do thì anh mới được tặng quà cho em à? Nào, em mở ra đi.”

Tessie bán tín bán nghi nhếch một khóe miệng. Nhưng thật khó lòng không mở hộp trang sức khi nó nằm sờ sờ trên tay. Vì thế cuối cùng bà cũng tháo nơ rồi mở hộp ra.

Trong hộp, trên nền nhung đen, là cái cặp nhiệt độ.

“Cặp nhiệt độ à,” bà bô tôi nói.

“Không phải cặp nhiệt độ tầm thường đâu nhé,” Milton nói. “Phải đi đến ba tiệm thuốc mới tìm được loại này đấy.”

“Loại đắt tiền hả?”

“Đúng thế,” Milton nói. “Loại này gọi là nhiệt kế đo nhiệt độ cơ bản. Nó đo nhiệt độ nhạy tới từng một phần mười độ.” Ông nhướn mày lên. “Nhiệt kế bình thường chỉ đo được hai phần mười thôi. Cái này là một phần mười đấy. Em thử xem. Ngậm vào mồm ấy.” “Em đâu có bị sốt,” Tessie nói.

“Không phải để xem có bị sốt không. Em dùng để xem nhiệt độ cơ thể lúc nghỉ ngơi thấp nhất là bao nhiêu. Loại này chính xác và chuẩn hơn nhiệt kế thông thường dùng khi bị sốt.”

“Lần sau mua cho em sợi dây chuyền nhé.”

Nhưng Milton không từ bỏ: “Nhiệt độ cơ thể thay đổi thường xuyên, Tess ạ. Mình không nhận thấy được, nhưng đúng là vậy. Nhiệt độ trong người lên xuống liên tục. Chẳng hạn như” – ông ho khẽ – “tình cờ nếu em rụng trứng. Thì nhiệt độ của em tăng lên. Sáu phần mười độ, hầu hết đều vậy. Bây giờ,” ông nói tiếp, hào hứng hơn, không nhận thấy vợ đang cau mày, “nếu thực thi cái kế hoạch hôm nọ – chỉ là ví dụ thôi, việc mình làm trước tiên là đo nhiệt độ cơ bản của em. Có thể không phải 37 độ C. Nhiệt độ mỗi người đều khác nhau một chút. Cái này anh cũng học được từ chú Pete đấy. Một khi xác định nhiệt độ cơ bản rồi, em tìm xem lúc nào nhiệt độ tăng lên sáu phần mười độ. Khi đó, nếu em chịu, thì khi đó là lúc mình biết cần phải, em biết đấy, pha cốc tai.”

Bà chả ừ hữ gì. Bà chỉ đặt cái cặp nhiệt độ vào hộp, đóng nắp, đoạn đưa lại cho chồng.

“Được rồi,” ông nói. “Được thôi. Tùy em. Mình sẽ lại dính thêm thằng cu. Đứa thứ hai. Nếu em muốn như vậy thì sẽ là như vậy.”

“Em chả dám chắc lúc này dính diếc được cái gì đâu anh ạ,” bà đáp.

Trong lúc đó, tại phòng nghỉ trước khi lên sân khấu cuộc đời, tôi đợi. Một tia hy vọng lẻ loi trong mắt ông bô tôi còn chưa có (ông đang âu sầu nhìn xuống cái hộp đựng nhiệt kế trên đùi). Lúc này bà bô đứng dậy từ cái gọi là xô pha đôi. Bà đi về phía cầu thang, tay sờ lên trán, và khả năng tôi ra đời dường như càng lúc càng mờ mịt. Lúc này ông đứng dậy đi quanh nhà kiểm tra, tắt đèn, khóa cửa. Khi ông lên lầu, hy vọng cho tôi lại bùng lên. Thời điểm cho việc đó phải cực kỳ chuẩn xác để tôi trở thành con người tôi như bây giờ. Chỉ cần trì hoãn hành động một tiếng đồng hồ thôi là sẽ thay đổi lựa chọn gen. Việc tôi được thụ thai còn nhiều tuần nữa mới xảy ra, nhưng ông bà bô tôi đã bắt đầu quá trình va chạm dần dần. Ngoài hành lang trên lầu, cái đèn ngủ Acropolis đang thắp sáng, đó vốn là quà của Jackie Halas, chủ cửa hàng đồ lưu niệm. Bà bô đang ngồi ở bàn trang điểm lúc ông vào phòng ngủ. Bà dùng hai ngón tay xoa kem rửa mặt Noxzema lên mặt, xong lấy khăn giấy chùi đi. Ông chỉ cần thốt một lời âu yếm là bà tha thứ luôn. Không phải tôi mà có lẽ một đứa giông giống tôi sẽ được tạo ra vào đêm hôm đó. Một số vô hạn những cá thể có khả năng tồn tại tụ tập ở ngưỡng cửa, tôi đứng với bọn nó mà chả có tấm vé đảm bảo nào, thời giờ chậm chạp trôi, những hành tinh trên trời quay với tốc độ như thường lệ, thời tiết cũng góp phần mình, bởi vì bà bô sợ sấm và sẽ phải rúc vào ông bô nếu đêm đó trời mưa. Nhưng không, trời quang mây đãng, như sự bướng bỉnh của hai cụ vậy. Đèn phòng ngủ tắt bụp. Họ nằm yên ở phần giường mình. Cuối cùng bà nói, “Ngủ ngon.” Còn ông đáp, “Gặp em sáng mai.” Những khoảnh khắc dẫn tới sự ra đời của tôi được sắp xếp đâu ra đấy như thể được ra sắc lệnh. Ắt hẳn đó là lý do vì sao tôi lại ngẫm ngợi về thời khắc đó nhiều đến thế.

Chủ nhật tuần sau đó, bà bô đưa Desdemona với anh tôi đi nhà thờ. Ông bô tôi chưa bao giờ đi cùng, lúc lên tám ông đã đứng vào hàng ngũ những kẻ vô thần vì nến thánh đắt cắt cổ. Tương tự, sáng sáng ông nội tôi thích ở nhà dịch sang tiếng Hy Lạp hiện đại những bài thơ đã được “phục hồi” của thi sĩ Sappho. Bảy năm sau đó, mặc dù liên tiếp bị đột quỵ, ông nội vẫn làm việc ở cái bàn nhỏ, ghép từng mẩu huyền thoại thành bức tranh khảm lớn, thêm đoạn giữa chỗ này, đoạn cuối chỗ kia, gắn vần chân hay nhịp iambus. Tối tối ông vừa nghe loại nhạc hay được chơi trong nhà thổ vừa hút shisha.

Năm 1959, Nhà thờ Chính thống Hy Lạp Đức Mẹ Lên Trời nằm trên phố Charlevoix. Chính tại nơi đó chưa đầy một năm sau tôi sẽ được rửa tội và nuôi nấng theo Chính thống giáo13. Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, với những linh mục đứng đầu lần lượt thay phiên do Tòa Thượng phụ ở Constatinople cử tới, ai mới đầu đến cũng có bộ râu sum suê quyền lực, bộ lễ phục thêu thiêng liêng, nhưng sau một thời gian đều kiệt quệ sạch – theo quy luật là sáu tháng – bởi cộng đoàn cứ quàng quạc suốt ngày, lại còn chê bai đả kích linh mục hát thánh ca không hay, rồi linh mục phải liên tục bắt một số phần tử giáo dân coi nhà thờ như chỗ ngồi ở Sân vận động Tiger im lặng, và cuối cùng, mỗi tuần phải gắng sức mà giảng một bài kinh hai lần, ban đầu bằng tiếng Hy Lạp rồi cũng bài đó bằng tiếng Anh. Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, với những giờ uống cà phê rộn ràng, cơ sở tồi tàn với mái nhà dột nát, những lễ hội văn hóa công phu vất vả, những lớp học giáo lý nơi di sản được gìn giữ chốc lát trong chúng tôi trước khi được phép tiêu tán trong cuộc lưu vong vĩ đại. Tessie với hai bà cháu tiến xuống lối đi giữa các dãy ghế ở giữa nhà thờ, đi qua những khay cát đựng nến thánh. Phía trên cao, to đùng đoàng như bong bóng thú trong Lễ diễu hành Ngày lễ Tạ ơn của tập đoàn Macy14, là Chúa Ban Phước Lành. Người ông cong cong uốn trên không gian mái vòm. Không giống những vị Chúa Jesus trần tục khổ sở được họa ngang tầm mắt người nhìn trên các bức tường trong nhà thờ, vị Chúa Ban Phước Lành của chúng tôi rõ là siêu phàm, đầy quyền năng, lừng lững trên thiên đường. Người đang nhoài xuống đưa bốn cuộn da cừu có ghi Phúc âm cho các tông đồ phía trên bàn thờ. Còn bà bô tôi, suốt đời cố tin Chúa mà chẳng mảy may thành công, ngước lên người tìm lời dìu dắt.

Cặp mắt Chúa Ban Phước Lành nhấp nháy trong ánh sáng mờ ảo. Chúng như hút Tessie lên cao. Qua khói hương trầm đang cuộn lên, đôi mắt Đấng Cứu Thế sáng rực lên như những cảnh chiếu chớp nhoáng các sự kiện vừa xảy ra trên tivi…

Đầu tiên là bà Desdemona tuần trước khuyên nhủ con dâu. “Đẻ thêm làm gì hả Tessie?” bà hỏi với vẻ cố tình thản nhiên. Cúi xuống ngó vào cái lò nướng nhằm giấu đi vẻ hoang mang trên mặt (cái vẻ hoang mang mãi đến mười sáu năm sau ta mới hiểu được), Desdemona gạt ý tưởng đó đi. “Thêm con thêm rắc rối chứ được cái gì…”

Tiếp đó là bác sĩ Philobosian, vị bác sĩ già của gia đình. Với những tấm bằng cổ lỗ sĩ sau lưng, vị đốc tờ già phán: “Vớ vẩn. Tinh trùng nam bơi nhanh hơn á? Nghe này. Người đầu tiên nhìn thấy tinh trùng dưới kính hiển vi là nhà khoa học Leeuwenhoek. Cô có biết với ông ta trông chúng giống cái gì không? Giống giun đấy…”

Rồi lại Desdemona, trình bày một góc nhìn khác: “Chúa quyết định trai hay gái. Không phải con…”

Những cảnh này lướt qua đầu bà bô trong suốt buổi giảng kinh tràng giang đại hải ngày Chủ nhật. Cộng đoàn nhấp nhổm đứng lên rồi ngồi xuống. Ngồi ở hàng ghế phía trước, mấy đứa em họ tôi, Socrates, Plato, Aristotle, và Cleopatra, ngọ nguậy không yên. Cha Mike xuất hiện từ phía sau bức tường có hình những vị thánh và vung bình hương. Bà cố cầu nguyện nhưng chẳng ích gì. Bà thoi thóp tới giờ uống cà phê.

Từ cái tuổi mười hai thơ ngây, bà bô tôi đã chẳng tài nào khởi sự ngày mới mà không có sự trợ giúp của ít nhất hai tách cà phê đen đặc không đường, cái sở thích bà học được từ mấy tay thuyền trưởng tàu lai kéo và mấy thằng cha độc thân ăn mặc hoa hòe hoa sói đầy rẫy ở nhà trọ nơi bà lớn lên. Khi còn học cấp ba, cao một mét năm lăm, bà ngồi cạnh đám công nhân nhà máy ôtô ở quán ăn góc phố, uống cà phê trước tiết học đầu tiên. Trong khi họ lướt xem tỉ số cá độ đua ngựa trên báo, Tessie làm xong bài tập về nhà môn giáo dục công dân. Lúc này đây, dưới tầng hầm trong nhà thờ, bà bảo Chương Mười Một chạy ra ngoài chơi với bọn trẻ con để bà uống tách cà phê cho tỉnh táo.

Bà đang uống tách thứ hai thì một giọng dịu dàng nữ tính thổi vào tai bà. “Chào buổi sáng, Tessie.” Đó là em rể bà, Cha Michael Antoniou.

“Chào Cha Mike. Buổi lễ hôm nay cảm động quá,” Tessie nói rồi ngay lập tức hối hận. Cha Mike là phó tế ở Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời.

Khi vị linh mục gần đây nhất ra đi, quay về Athens chỉ sau vẻn vẹn có ba tháng, cả gia đình hy vọng Cha Mike sẽ được thăng chức. Nhưng cuối cùng, một linh mục mới người nước ngoài, Cha Gregorios lại được vị trí đó. Cô Zo, chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để than van về cuộc hôn nhân của mình, thốt lên tại bữa tối bằng giọng nữ diễn viên hài kịch, “Chồng tôi. Lúc nào cũng làm phù dâu chớ chưa bao giờ được làm cô dâu.”

Khi khen ngợi buổi lễ, Tessie không hề có ý khen ngợi Cha Greg. Tình huống còn nhạy cảm hơn nữa bởi nhiều năm trước đây Tessie với Michael Antoniou đã đính hôn với nhau. Giờ đây bà kết hôn với Milton còn Cha Mike thì lại cưới em gái Milton. Tessie xuống dưới này để đầu óc được thư thái uống cà phê vậy mà chưa gì ngày hôm đó đã trở nên tồi tệ không kiểm soát nổi.

Dẫu vậy, Cha Mike có vẻ không để tâm đến chuyện coi thường này. Ông đứng cười, đôi mắt dịu dàng trên chòm râu xồm xoàm như thác nước đang gào thét. Vốn lành tính, Cha Mike rất được lòng đám bà góa đi lễ. Họ ưa túm tụm quanh ông, mời ông ăn bánh và tắm mình trong bản chất phước lành của ông. Một phần của bản chất này sinh ra từ lòng mãn nguyện tuyệt đối của Cha Mike dù ông chỉ cao có một mét sáu ba. Vẻ ngoài thấp bé có sự hào phóng riêng của nó, như thể ông san sẻ bớt chiều cao của mình cho người khác. Dường như ông đã tha thứ cho Tessie cái tội hủy hôn với ông nhiều năm trước, nhưng trong không khí giữa hai người vẫn luôn tồn tại cái gì đó, như cái thứ phấn rôm thỉnh thoảng bay ra từ cổ áo linh mục.

Mỉm cười, cẩn thận cầm tách cà phê với đĩa, Cha Mike hỏi, “Tessie, cả nhà khỏe không em?”

Dĩ nhiên bà biết, vốn là vị khách tuần nào cũng đến nhà tôi vào Chủ nhật, Cha Mike đã được nghe trọn vẹn kế hoạch canh trứng nhờ đo nhiệt độ. Dòm vào mắt ông, bà nghĩ mình dò ra vẻ khoái chí.

“Kiểu gì hôm nay anh lại chả ghé qua nhà em,” bà nói vẻ vô tư. “Được xem tận mắt nhé.”

“Anh mong đến chơi lắm,” Cha Mike nói. “Nhà em lúc nào cũng có chuyện xôm hết.”

Tessie lại nhìn vào mắt Cha Mike nhưng nó dường như tràn ngập vẻ ấm áp chân thành. Rồi có chuyện xảy ra khiến bà tuyệt nhiên không để tâm gì tới Cha Mike nữa.

Phía bên kia phòng, Chương Mười Một trèo lên ghế để với lấy vòi bình cà phê. Anh cố rót một tách, ngặt nỗi mở được vòi rồi mà không đóng lại được. Cà phê nóng bỏng tung tóe khắp bàn. Cái thứ nước nóng rẫy ấy bắn lên người một con bé đứng ngay cạnh đấy. Con bé nhảy bật ra sau. Mồm nó há hốc, nhưng không thốt ra tiếng nào cả.

Bà bô tôi lao vụt qua phòng lật đật đưa con bé vào phòng vệ sinh nữ.

Không ai nhớ tên con bé đó. Nó chả phải con cái nhà nào hay đi lễ thường xuyên. Nó còn chả phải dân Hy Lạp. Nó xuất hiện ở nhà thờ đúng vào ngày hôm đó rồi không bao giờ quay lại, và dường như chỉ tồn tại cho một mục đích duy nhất là làm bà bô tôi đổi ý. Trong phòng vệ sinh, con bé cởi ngay cái áo đang bốc hơi ra còn Tessie thì mang khăn ướt tới.

“Con có sao không cưng? Có bị bỏng không?”

“Thằng đó vụng về thế không biết,” con bé nói.

“Ừ. Chuyện gì nó cũng dính vào.”

“Bọn con trai thật bất trị.”

Tessie mỉm cười. “Vốn từ của con cũng ghê nhỉ.”

Nghe lời khen này con bé cười toét miệng. “‘Bất trị’ là từ yêu thích của con. Anh trai con rất bất trị. Tháng trước con mê từ ‘lằng nhằng’. Nhưng ta không dùng được từ ‘lằng nhằng’ trong nhiều trường hợp. Nghĩ cho kỹ thì nhiều thứ không thể nào dùng từ ‘lằng nhằng’ được.”

“Con nói đúng,” Tessie vừa cười vừa nói. “Nhưng bất trị thì dùng đâu cũng được cả.”

“Cô nói quá chuẩn luôn,” con bé nói.

Hai tuần sau. Chủ nhật lễ Phục sinh năm 1959. Việc trung thành bám trụ vào lịch Julius15 một lần nữa lại khiến nhà tôi lạc nhịp với toàn bộ khu dân cư chung quanh. Chủ nhật hai tuần trước, anh tôi ngó bọn trẻ con hàng xóm đi săn trứng đủ màu trong bụi cây. Anh nhìn bạn bè ăn đầu thỏ bằng sô cô la và nốc cả vốc kẹo dẻo vào cái mồm tuyền răng sâu. (Đứng dòm từ cửa sổ, ông anh trai không muốn gì hơn là được tin một vị Chúa người Mỹ sống lại đúng ngày.) Đến tận hôm qua Chương Mười Một mới được phép nhuộm trứng, mà rồi chỉ được mỗi một màu đỏ16. Khắp nhà trứng đỏ ánh lên dưới những tia nắng dài ngày hạ chí. Trứng đỏ đầy ụp trong đống bát trên bàn ăn. Chúng treo trong túi nhỏ trên những khung cửa. Chúng nằm khắp bệ lò sưởi và được nướng thành ổ bánh mì tsoureki hình thánh giá.

Nhưng lúc này là chiều muộn; cả nhà đã ăn tối xong. Còn ông anh tôi thì đang cười mỉm. Bởi vì bây giờ tới phần trong lễ Phục sinh của Hy Lạp mà anh mê hơn trò săn trứng với kẹo dẻo: chơi chọi trứng. Cả nhà quây quần ở bàn ăn. Cắn môi, Chương Mười Một chọn một quả trứng trong bát, săm soi rồi bỏ lại. Anh chọn quả khác. “Quả này trông được đây,” Milton vừa nói vừa chọn trứng. “Cứng như đá nhé.” Milton giơ quả của mình lên. Chương Mười Một lăm le tấn công. Đúng lúc đó bà bô bỗng vỗ lên lưng ông bô. “Đợi tí nào Tessie. Bố con anh đang chọi trứng mà.” Bà đập vào lưng ông mạnh hơn.

“Sao thế?”

“Nhiệt độ cơ thể em.” Bà ngập ngừng. “Tăng sáu phần mười rồi.”

Bà dùng cái cặp nhiệt độ đã được ít lâu. Đây là lần đầu tiên ông bô tôi nghe chuyện này.

“Bây giờ á?” ông thì thầm. “Chúa ơi, Tessie, em chắc chứ?”

“Em chả biết. Anh bảo em canh khi nào nhiệt độ tăng lên nên em đang bảo với anh là tăng lên sáu phần mười độ rồi.” Đoạn hạ thấp giọng, “Với cả đã mười ba ngày kể từ lần cuối cái mà anh biết là cái gì rồi đấy.”

“Nào bố,” Chương Mười Một nài nỉ.

“Tạm dừng,” Milton bảo. Ông bỏ trứng vào gạt tàn. “Trứng của tôi đấy nhé. Không ai được đụng vào cho tới khi tôi quay lại đâu đấy.”

Trên lầu, tại phòng ngủ chính, ông bà bô hoàn thành nhiệm vụ.

Sự ngượng nghịu tự nhiên của một đứa trẻ ngăn tôi không tưởng tượng chi tiết cảnh đó. Chỉ có thế này: sau khi xong xuôi, như thể chốt hạ, ông bô nói, “Thế chắc là ổn.” Hóa ra ông đúng thật. Đến tháng Năm, Tessie phát hiện mình có thai, thế là quá trình chờ đợi bắt đầu.

Sáu tuần tuổi tôi có mắt với tai. Được bảy tuần tuổi thì có mũi, cả môi nữa. Cơ quan sinh dục ngoài bắt đầu hình thành. Hoóc môn bào thai, nhận tín hiệu từ nhiễm sắc thể, ức chế các ống Müllerian, kích thích các ống Wolffian. Khi papou17đặt tay lên bụng bà bô bảo, “Đứa thứ hai may mắn nhé!” thì hai mươi ba cặp nhiễm sắc thể tiếp hợp rồi trao đổi đoạn, quay tít cái cò quay roulette. Sắp xếp theo đoàn, gen của tôi thực thi mệnh lệnh nhận được. Tất cả trừ hai đứa – một cặp vô lại – hay là nhà cách mạng, tùy quan điểm của bạn – lỉnh đi trên nhiễm sắc thể số 5. Cùng nhau, chúng rút mất một enzyme, tức là làm một loại hoóc môn bị ngừng sản xuất, tức làm đời tôi trở nên rắc rối.

Trong phòng khách, cánh đàn ông đã thôi bàn chuyện chính trị mà chuyển sang cá độ xem đứa con sắp ra đời của Milt là giai hay gái. Ông bô tôi rất tự tin. Hai mươi tư tiếng sau hành động đó, nhiệt độ cơ thể bà bô tăng lên thêm hai phần mười nữa, chứng tỏ trứng sắp rụng. Đến lúc đó tinh trùng giai đã mệt bở hơi tai phải bỏ cuộc. Tinh trùng gái, như bọn rùa, thắng cuộc đua. (Tại thời điểm đó Tessie đưa cho Milton cái cặp nhiệt độ và bảo bà không bao giờ muốn nhìn thấy nó nữa.)

Tất cả những chuyện này dẫn tới cái ngày Desdemona đung đưa cái thìa trên bụng bà bô tôi. Hồi đó thì làm gì đã có siêu âm; bói thìa là ngon nhất rồi. Desdemona khom người. Căn bếp im phăng phắc. Các chị em cắn môi dưới, nhìn, đợi. Phút đầu tiên, cái thìa không hề nhúc nhích. Tay Desdemona run rẩy và sau vài giây dài dằng dặc, bà Lina giữ nó đứng yên. Cái thìa xoay xoay; tôi đạp đánh phốc; bà bô rú lên. Rồi, đủng đỉnh, bị một cơn gió không ai cảm thấy đẩy đi, theo cái kiểu cầu cơ siêu nhiên bí hiểm, cái thìa bạc bắt đầu di chuyển, đánh mình, thoạt tiên là một vòng tròn nhỏ nhưng quỹ đạo dần dần thành hình ê líp cho đến khi đường đi ẹp lại thành một đường thẳng tắp từ cái lò đến ghế dài. Nói cách khác là từ Bắc tới Nam. Desdemona kêu lên, “Koros18!” Thế là những tiếng hét “Koros, koros” rộ lên khắp phòng.

Đêm hôm đó, ông bô bảo, “Hai mươi ba lần đúng liên tục rồi thì ắt hẳn lần tiếp theo trật lất. Lần này mẹ sai đứt rồi. Tin anh đi.”

“Nhỡ là con trai em cũng chả buồn đâu,” bà bô đáp. “Thực lòng ấy. Miễn nó khỏe mạnh, đầy đủ chân tay.”

“‘Nó’ nó cái gì. Em đang nói về con gái anh đấy.”

Một tuần sau năm mới tôi ra đời, vào ngày 8 tháng Giêng, năm 1960. Trong phòng đợi, chỉ có độc những điếu xì gà cột nơ hồng19, ông bô tôi hét lên, “Quá chuẩn!” Tôi là con gái. Dài nửa mét. Nặng ba cân ba.

Cũng đúng vào ngày 8 tháng Giêng năm đó, ông nội bị đột quỵ lần đầu tiên trong chuỗi mười ba cú. Bố mẹ tôi khi hối hả lao vào viện đã làm ông tỉnh giấc, vì thế ông ra khỏi giường xuống lầu pha cà phê. Một tiếng sau, Desdemona phát hiện ông nằm trên sàn bếp. Mặc dù các chức năng thần kinh không hề bị ảnh hưởng, sáng hôm đó, khi tôi cất tiếng khóc chào đời ở bệnh viện Phụ Nữ, papou của tôi không còn nói được nữa. Theo như Desdemona, ông nội ngất quỵ ngay sau khi lật úp tách cà phê để đọc vận may qua bã.

Khi biết tin tôi là trai hay gái, chú Pete không chịu nhận bất kỳ lời chúc mừng nào. Không có phép lạ gì ở đây cả. “Với cả,” chú đùa, “Milt làm từ a tới z cơ mà.” Desdemona trở nên nghiêm nghị.

Đứa con trai sinh ra ở Mỹ của bà đã đúng, và với cú thất bại mới toanh này, cố hương, mà bà vẫn nỗ lực sống ở đó mặc cho cách xa bốn ngàn dặm và ba mươi tám năm trời, lùi thêm một nấc nữa. Tôi chào đời đánh dấu kết thúc màn đoán giới tính trẻ con của bà và khởi đầu cho quá trình tụt dốc dài dặc của chồng bà. Mặc dầu thỉnh thoảng cái hộp tằm có tái xuất, nhưng cái thìa bạc không còn là bảo vật được nằm trong hộp nữa.

Tôi được lôi ra, đét đít, và xịt nước tắm rửa, đúng theo trật tự đó. Họ bọc tôi trong chăn rồi đặt nằm giữa sáu bé sơ sinh khác, bốn trai, hai gái, tất cả bọn nó, không giống tôi, đều được đeo thẻ ghi chính xác. Chuyện này nghe thì phi thực nhưng tôi nhớ rất rõ: những đốm sáng chầm chậm tràn vào làm bừng sáng màn tối.

Ai đó đã mở mắt tôi ra.


Chú thích:

  1. Lưỡng giới tính Giả là những người có tuyến sinh dục và nhiễm sắc thể là nữ tính, nhưng cơ quan sinh dục và các đặc trưng giới tính lại là nam giới (lưỡng giới tính giả nam); hoặc tuyến sinh dục và nhiễm sắc thể là nam tính, nhưng cơ quan sinh dục và các đặc trưng giới tính lại là nữ giới (lưỡng giới tính giả nữ). (Các chú thích trong bản dịch là của dịch giả.)
  2. Nhà tiên tri mù của thành Thebes trong thần thoại Hy Lạp, vốn là đàn ông, sau bị biến thành phụ nữ trong bảy năm, rồi sau đó trở lại làm đàn ông.
  3. Một tổ chức từ thiện của Mỹ với sứ mạng là cải thiện sức khỏe cho trẻ em bằng cách ngăn ngừa khuyết tật bẩm sinh, sinh non, tử vong ở trẻ sơ sinh.
  4. Trong bản gốc, tác giả cho nhân vật Desdemona, vốn gốc Hy Lạp, nói thứ tiếng Anh không đúng chuẩn nên sang tiếng Việt người dịch cho nhân vật nói ngọng “l” thành “n”, và nói nhầm dấu hỏi thành dấu ngã. Những chỗ như vậy trong hội thoại sẽ được in nghiêng.
  5. Tiếng Hy Lạp: bà.
  6. Tiếng Hy Lạp: của tôi.
  7. Chế biến từ cây cần sa, thường hút bằng ống shisha, gây cảm giác phê thuốc và có thể gây nghiện.
  8. Tiếng Hy Lạp: búp bê.
  9. Sử gia nổi tiếng người Anh (1737-1794), đồng thời là Nghị sĩ của Nghị viện Anh, với tác phẩm xuất sắc nhất là The History of the Decline and Fall of the Roman Empire (tạm dịch: Lịch sử Suy tàn và Sụp đổ của đế quốc La Mã).
  10. Nữ sĩ văn chương xuất sắc người Pháp (1766-1817), có ảnh hưởng lớn lên Chủ nghĩa Lãng mạn châu Âu, là người chống lại Napoleon một cách gay gắt nên bị lưu đày không được phép sống ở Paris. Bà du hành Đức nhiều lần, và đất nước này là nguồn tư liệu cho tác phẩm nổi tiếng của bà, Germany (Nước Đức), nơi bà bình luận các khía cạnh khác nhau trong đời sống, con người, văn chương của nước Đức.
  11. Những người chịu trách nhiệm sửa sang, khâu vá ở khâu cuối cùng trong việc may quần áo lông thú như sửa lớp lông, chọn và khâu lớp lót, cúc, móc…
  12. Tượng Le Penseur của nhà điêu khắc nổi tiếng người Pháp Auguste Rodin khắc họa một người đàn ông ngồi chống cằm suy tư.
  13. Chính thống giáo Hy Lạp là giáo hội thuộc Chính thống giáo Đông phương – nhánh Kitô giáo lớn thứ hai sau Giáo hội Công giáo Rôma, với giám mục bậc cao nhất được gọi là Thượng phụ.
  14. Lễ diễu hành hằng năm ở thành phố New York, được coi là lớn nhất thế giới, với những con thú bóng khổng lồ từ các bộ phim hoạt hình.
  15. Tín đồ Chính thống giáo theo lịch Julius (do Julius Caesar đặt ra trước Công nguyên) nên ngày Phục sinh khác với tín đồ Công giáo theo lịch Gregorius hay còn gọi là lịch Tây.
  16. Có rất nhiều lý giải cho nguồn gốc tập tục này của Chính thống giáo: màu đỏ là màu máu trên thánh giá mà Chúa Jesus bị đóng đinh để cứu chuộc loài người, hoặc trứng đỏ tượng trưng cho ngôi mộ đá trống rỗng mà Chúa phục sinh, hoặc từ câu chuyện Mary Magdalene là người đầu tiên phát hiện ra Chúa Jesus phục sinh trong mồ đã đi đến báo cho hoàng đế La Mã, ông này không chịu tin và bảo chỉ tin nếu trứng trong rổ bên cạnh biến thành màu đỏ, và ngay lập tức trứng chuyển sang màu đỏ.
  17. Tiếng Hy Lạp: ông.
  18. Tiếng Hy Lạp: con trai.
  19. Xì gà cột nơ hồng, báo hiệu sinh con gái (theo phong tục một số nước phương Tây).

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Ngoài Covid, còn có những cuộc khủng hoảng thầm lặng khác

Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao?

Published

on

By

Trích từ: Hãy cùng ước mơ
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 10.2022

Tôi thấy thời đại này giống như một cuộc tính sổ. Nó khiến tôi nghĩ tới điều mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô trong Phúc Âm Luca (Lc 22,31) – ma quỷ muốn sàng ông như sàng gạo. Bước vào cuộc khủng hoảng là để cho bản thân được sàng lọc. Các phạm trù và cách suy nghĩ của bạn bị lung lay, các giá trị ưu tiên và phong cách sống của bạn bị thách thức. Bạn bước qua một ngưỡng cửa, hoặc là do chính bạn chọn lựa, hoặc do hoàn cảnh đòi buộc; vì sẽ có những cuộc khủng hoảng, như những gì chúng ta đang phải trải qua đây, mà bạn không cách chi né tránh được.

Câu hỏi được đặt ra là liệu bạn có vượt qua cơn khủng hoảng này không, và nếu có thể, thì bằng cách nào? Quy luật cơ bản của một cuộc khủng hoảng là bạn sẽ không thoát khỏi nó mà không thay đổi gì. Khi bạn vượt qua thách đố, bạn hoặc sẽ trở nên tốt hơn hoặc là tệ đi; nhưng chắc chắn sẽ không còn là con người cũ nữa.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy những thử thách. Kinh Thánh nói về việc băng qua lửa để mô tả những thử thách như thế, có thử lửa mới biết bình thợ gốm (Hc 27,5). Chúng ta sẽ luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, nhờ đó mà ta được lớn lên.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Các thử thách trong cuộc sống sẽ giúp bạn bộc lộ trái tim mình: Trái tim bạn vững chãi thế nào, biết thương xót ra sao, và nó lớn hay nhỏ. Thường thường, trong những cảnh huống xã hội bình thường, bạn chẳng khi nào bộc lộ bản thân. Bạn cười, bạn nói những điều đúng đắn, và bạn bình an vô sự vượt qua các tình huống mà không phải thể hiện mình như chính-bạn-là. Nhưng khi bước vào khủng hoảng thì hoàn toàn trái ngược. Bạn phải chọn lựa. Và trong quá trình chọn lựa, bạn bộc lộ trái tim mình.

Hãy nghĩ về những gì xảy ra trong lịch sử. Khi trái tim bị thử thách, con người ta trở nên ý thức về điều khiến họ chùn bước. Họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Trung Tín và hằng đáp lại tiếng than khóc của dân Người. Cuộc gặp gỡ sau đó mở ra một tương lai mới.

Hãy nghĩ về những gì chúng ta thấy trong đại dịch Covid-19. Kìa các vị tử đạo: Những người nam người nữ đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ những ai cần họ nhất. Hãy nghĩ tới các nhân viên y tế, các y bác sĩ, những người chăm sóc, cũng như các vị tuyên úy và tất cả những ai đã chọn đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết, họ tìm cách hỗ trợ và an ủi người khác. Họ là chứng nhân của tình thân và sự dịu dàng. Đau lòng thay, nhiều người trong số họ đã ra đi. Để tôn vinh những gì họ đã làm chứng và nỗi đau của biết bao người, chúng ta phải xây dựng ngày mai bằng cách đi theo con đường mà họ đã thắp sáng.

Tuy nhiên – tôi nói điều này trong đau đớn và xấu hổ chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người cho vay nóng, cho vay nặng lãi, kẻ đã xuất hiện trước cửa nhà của những người đang tuyệt vọng. Giả như họ có đưa tay ra thì cũng là để cho vay những khoản tiền không thể nào trả nổi, và những ai chấp nhận đề nghị đó cuối cùng sẽ trở thành con nợ vĩnh viễn. Đây là những người làm giàu trên nỗi khốn cùng của người khác.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Trong thời điểm khủng hoảng, bạn sẽ bắt gặp cả điều tốt lẫn điều xấu: Người ta bộc lộ mình như chính-họ-là. Có những người quên mình phục vụ kẻ khó nghèo, cũng có những người làm giàu trên nỗi đau của người khác. Có những người bước ra để đến với tha nhân – bằng những cách thức mới đầy sáng tạo mà không cần rời khỏi nhà – trong khi số khác lại rút lui phía sau tấm áo phòng bị. Trái tim của ta vì thế mà tỏ lộ.

Không chỉ một vài cá nhân nào đó bị thử thách, mà là toàn thể nhân loại. Hãy nghĩ đến việc các chính phủ phải đưa ra chọn lựa trong đại dịch. Điều gì quan trọng hơn: Chăm sóc con người hay đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính? Chăm lo cho người dân, hay thí mạng họ để đảm bảo lợi ích của thị trường chứng khoán? Tạm ngưng cỗ máy thịnh vượng, dù biết rằng điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng phải chăng đó cũng chính là cách chúng ta có thể cứu sống nhiều mảnh đời? Có những trường hợp, chính phủ chọn bảo vệ nền kinh tế trước, có thể vì họ đã không hiểu mức độ trầm trọng của dịch bệnh, hoặc do họ thiếu nguồn lực. Những chính quyền này đã “thế chấp” người dân của họ. Khi chọn lựa như thế, thứ tự ưu tiên của họ bị thử thách và giá trị thật của họ cũng bị phơi bày.

Trong cơn khủng hoảng, luôn có điều cám dỗ ta rút lui. Tất nhiên, có những lúc chúng ta cần phải lùi lại vì lý do chiến thuật – như trong Kinh Thánh đề cập: “Rồi Israel rút về lều” (1 V 12,16) - nhưng có những tình huống mà rút lui không phải việc đúng đắn và cũng chẳng nhân văn. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này trong dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Khi thầy Lêvi và thầy tư tế bỏ lại người đàn ông bê bết máu vì bị băng cướp đánh nhừ tử, họ đang rút lui “theo chức năng”. Một hành động tuy hợp lý và đúng luật dạy, nhưng chẳng hợp tình người. Khi gặp thách đố, điều họ cố gắng bảo vệ là địa vị, vai trò và hình tượng của bản thân, chứ không phải vì người khác.

Trong một cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa chức năng của ta bị lung lay, đó là lý do ta phải xem lại cũng như điều chỉnh vai trò và thói quen để biến mình thành những người tử tế hơn. Một cuộc khủng hoảng luôn đòi buộc toàn thể con người ta hiện diện, không cho phép ta thoái lui hay trở về với những đường lối và vai trò cũ. Hãy nghĩ về người Samari: Anh ta đã dừng lại, nâng đỡ người gặp nạn, đã hành động và bước vào thế giới của nạn nhân, đã đặt mình vào tình huống để chia sớt đau khổ với nạn nhân, rồi từ đó, tạo nên một tương lai mới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hành động theo cách của người Samari trong cơn khủng hoảng nghĩa là để cho bản thân được tác động bởi những gì mà ta nhìn thấy, với ý thức rằng những khổ đau này sẽ biến đổi cuộc đời ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, nói về điều này như là đón nhận và ôm lấy thập giá Đức Kitô. Với niềm xác tín rằng những gì sẽ xảy đến là cuộc sống mới, việc ôm lấy thập giá cho chúng ta can đảm để ngừng than vãn và dũng khí để ra đi phục vụ. Từ đó, chúng ta được biến đổi, và sự biến đổi này chỉ đến từ lòng trắc ẩn và sự phục vụ quên mình.

Một số người đáp lại những khổ đau mà cơn khủng hoảng đem đến chỉ bằng cái nhún vai. Họ nói, “Thượng đế đã tạo dựng thế giới như thế, bản chất nó là vậy rồi”. Nhưng, nhìn nhận như thế là đã hiểu sai về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi đây là một tiến trình năng động, không phải tĩnh tại. Thế giới vẫn luôn được tạo dựng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói: Muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở (Rm 8,22). Thiên Chúa muốn cùng chúng ta, các cộng sự của Ngài, không ngừng dựng xây thế giới. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài ngay từ thuở ban đầu, trong mọi lúc, cả những thời khắc bình yên hay trong cơn khủng hoảng. Thiên Chúa không trao thế giới cho ta như một món đồ đã được đóng gói và niêm phong, rồi nói rằng: “Thế giới đây, hãy đón nhận”.

Trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), Thiên Chúa ra lệnh cho Adam và Eva sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Nhân loại có nhiệm vụ thay đổi, xây dựng, làm chủ công trình sáng tạo theo nghĩa tích cực: sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp xảy đến không phụ thuộc vào các cơ chế vô hình hay một tương lai mà nhân loại chỉ là khán giả thụ động. Không, chúng ta là nhân vật chính, hay cụ thể hơn, là những người đồng sáng tạo. Khi Chúa bảo chúng ta ra đi và sinh sôi nảy nở để làm chủ Trái Đất, Ngài đang nói: Hãy là những người kiến tạo tương lai của chính mình.

Từ cuộc khủng hoảng này, chúng ta có thể trở nên tốt hơn hoặc tệ đi. Ta có thể trượt dài về sau, hoặc có thể tạo ra điều gì đó mới mẻ. Hiện tại, điều ta cần là cơ hội để thay đổi và tạo không gian cho những điều mới. Điều này tương tự điều Chúa phán với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Nếu con sẵn sàng lắng nghe, chúng ta sẽ có một tương lai tuyệt vời. Nhưng nếu con từ chối lắng nghe, con sẽ bị ăn gươm giáo (Is 1, 18-20).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Có rất nhiều lưỡi gươm đang hòng tiêu diệt chúng ta.
Cuộc khủng hoảng Covid trông có vẻ đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, nhưng nó chỉ đặc biệt vì ta có thể nhìn thấy được. Trong khi có hàng ngàn cuộc khủng hoảng khác cũng thảm khốc không kém, nhưng đủ khuất tầm nhìn để nhiều người vờ như chúng chẳng hề hiện hữu. Chẳng hạn, hãy nghĩ về những cuộc chiến tranh diễn ra đó đây trên thế giới; về việc sản xuất và buôn bán vũ khí; về hàng trăm ngàn người tị nạn đang chạy trốn khỏi sự đói nghèo, thiếu thốn cơ hội; và cả biến đổi khí hậu. Những bi kịch này có vẻ xa vời với chúng ta, chúng chỉ là một phần của tin tức hằng ngày, và đáng buồn thay, nó không đủ sức để thúc đẩy ta thay đổi lịch trình và giá trị ưu tiên. Nhưng cũng như đại dịch Covid, những khủng hoảng này tác động đến toàn nhân loại.

Chỉ cần nhìn những con số trong ngân sách mà một quốc gia chi cho việc trang bị vũ khí thôi cũng đủ làm bạn lạnh người. Rồi hãy so sánh các số liệu trên với số liệu thống kê của UNICEF về số trẻ em không được đến trường, phải lên giường với cái bụng đói, khi đó, bạn sẽ hiểu được ai đang phải trả giá cho việc trang bị vũ khí. Trong bốn tháng đầu năm nay, có đến 3,7 triệu người chết vì đói. Và có bao nhiêu người chết vì chiến tranh? Chi phí quân sự hủy diệt loài người. Có thể nói đây là một chủng vi rút corona đáng sợ, nhưng vì không nhìn thấy các nạn nhân của nó nên chúng ta chẳng mấy để tâm.

Tương tự vậy, một số người không nhìn thấy được thế giới tự nhiên đang bị tàn phá. Chúng ta nghĩ rằng điều này sẽ không ảnh hưởng tới mình vì nó xảy ra tận đấu tận đâu. Nhưng rồi đột nhiên ta nhìn thấy, ta hiểu được: Một chiếc thuyền băng qua Bắc Cực lần đầu tiên, và ta nhận ra rằng những trận lũ lụt và cháy rừng ở đâu xa lại là một phần của cuộc khủng hoảng chung mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt.

Hãy nhìn chúng ta lúc này: Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao? Chúng ta sẽ phải đối phó với những đại dịch tiềm ẩn của thế giới này bằng cách nào – đại dịch của đói nghèo, bạo lực và biến đổi khí hậu?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nếu muốn bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này và bớt ích kỷ hơn so với khi bước vào, hãy để cho bản thân được lay động bởi nỗi đau của người khác. “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”. Câu thơ trong tác phẩm Hyperion của Friedrich Hölderlin như muốn nói với tôi rằng những hiểm nguy đe dọa chúng ta trong một cuộc khủng hoảng không phải là tất cả; luôn luôn có một lối ra. Đó chính là nguồn cảm hứng trong câu chuyện của loài người: Luôn có cách để ta thoát khỏi sự suy tàn. Con người phải hành động ngay trong chính những thách thức, cũng là nơi mà cánh cửa được mở ra. Câu nói ấy đã đồng hành với tôi trong nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống.

Đây là thời điểm để ta mơ lớn, để suy nghĩ lại các giá trị ưu tiên, những điều ta coi trọng, mong muốn và kiếm tìm, và cũng để cam kết hành động trong mỗi ngày sống vì những điều ta mơ ước. Điều tôi nghe được lúc này cũng giống những gì Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

Thiên Chúa mời gọi ta dám sáng tạo những điều mới lạ. Chúng ta không thể trở về tình trạng tưởng chừng như yên ổn của hệ thống chính trị và kinh tế trước khủng hoảng. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người tiếp cận với thành quả của công trình sáng tạo cùng những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống: đất đai, nhà ở và công việc. Chúng ta cần những nền chính trị có thể hòa nhập và đối thoại với người nghèo, những người bị loại trừ và dễ bị tổn thương, giúp họ có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta cần chậm lại, cân nhắc và thiết kế ra cách thức tốt hơn để có thể cùng nhau sống trên mặt đất này.

Đó là nhiệm vụ mà từng người chúng ta được mời gọi để cộng tác. Nhưng đây là thời điểm đặc biệt dành cho những con tim thao thức, sự thao thức lành mạnh thôi thúc ta hành động. Hơn bao giờ hết, các lý lẽ ngụy biện cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên lý vận hành xã hội đang bị phơi bày. Vậy đâu sẽ là nguyên tắc mới của chúng ta?

Chúng ta cần một nhóm những người biết rằng chúng ta cần nhau, những người có tinh thần trách nhiệm với người khác và với thế giới. Chúng ta cần cho thấy rằng việc sống tử tế, có niềm tin, và làm việc vì lợi ích chung là những mục tiêu tuyệt vời – điều đòi hỏi nơi ta lòng can đảm và nghị lực; trong khi sự hào nhoáng hời hợt và nhạo báng đời sống đạo đức chẳng giúp ích gì. Kỷ nguyên hiện đại, vốn đã phát huy sự bình đẳng và tự do như một xác quyết, giờ đây cần phải tập trung vào tình anh em bạn hữu với cùng chí hướng và sự bền bỉ để đương đầu với các thử thách phía trước. Tình anh em bạn hữu sẽ tạo điều kiện cho bình đẳng và tự do chiếm vị trí tương xứng trong bản giao hưởng cuộc sống.

Hàng triệu người đã tự hỏi mình và người khác rằng họ có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu trong cuộc khủng hoảng này. Những gì hiện lên trong tâm trí tôi là sự đầy tràn. Tôi nghĩ tới những dòng sông lớn nhẹ nhàng vỗ bờ, một cách chậm rãi đến độ bạn khó lòng nhận ra, nhưng đến đúng thời điểm, chúng vỡ bờ và tràn ra. Trong xã hội chúng ta, lòng thương xót của Chúa cũng tuôn tràn như “thời khắc vỡ bờ”: Bùng nổ, phá vỡ mọi giới hạn truyền thống vốn cản trở nhiều người khỏi những gì họ xứng đáng được nhận, làm lung lay vai trò và cách suy nghĩ của ta. Sự đầy tràn ân sủng được tìm thấy nơi những đau khổ mà cuộc khủng hoảng này đã phơi bày, và trong cách đáp trả sáng tạo của hàng bao người.

Tôi thấy có rất nhiều tình thương chảy tràn giữa chúng ta. Nhiều con tim đã và đang phải chịu các thách đố. Cuộc khủng hoảng đã khơi dậy nơi nhiều người sự can đảm và lòng trắc ẩn mới. Một vài người trong số đó khi bị thách đố sàng lọc, đã đáp lại bằng khát khao kiến tạo lại thế giới; số khác thì quyết định giúp người thân cận đang gặp túng thiếu bằng các hành động thiết thực để họ có thể vượt qua nỗi đau.

Tôi tràn ngập hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên tốt hơn khi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Nhưng để làm được như thế, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, lựa chọn sáng suốt và hành động đúng đắn.

Hãy cùng nói về cách thức để làm điều đó. Hãy để cho lời Chúa phán với tiên tri Isaia cũng vang vọng trong ta: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu?

Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Có nhiều cách hiểu từ ảo tưởng. Xã hội không chấp nhận bất kỳ ai có ảo tưởng rằng những cá thể khác không quan trọng; chúng ta gọi đây là thói tự đại hoặc duy ngã. Nhưng ảo tưởng rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, niềm tin mà con người rất dễ lậm vào nếu đang say sưa trong men tình, là loại ảo tưởng ai cũng sẵn lòng sa chân. Vậy nên thật đau đớn khi tình yêu tan vỡ, nghĩa là mang hiện thực đến thế chỗ cho ảo tưởng.

Sự pha trộn giữa niềm vui và đau khổ tạo nên đặc trưng tiêu biểu của “Tôi”. Ở mặt tích cực, việc khám phá ra danh tính bản thân có thể khiến trẻ con vui sướng tột cùng. Nhưng chẳng lâu sau, “khủng hoảng tuổi lên hai” sẽ bắt đầu phô bày những dấu hiệu vị kỷ, khi trẻ biết khẳng định với thế giới, “Đây là tôi! Chú ý vào nhé. Tôi ở đây này!” Khủng hoảng tuổi lên hai là giai đoạn thách thức với các bậc cha mẹ bởi lối đòi hỏi vô lối của bản ngã, rất đáng ghét. Trên hết, hành vi này không thực tế. Bạn không thể tồn tại trong xã hội mà cứ đòi thế giới phải thường xuyên xoay quanh mình, thậm chí luôn luôn xoay quanh mình. Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ. Sự cân bằng rất khó đạt được, và vô số người đã rơi thẳng vào cái bẫy mặc cảm cá nhân, trong khi số ít còn lại giành quyền bước lên đàn áp luật chơi.

Các nhà tâm lý học dành cả sự nghiệp để chữa lành những cảm xúc bị hư hại của con người về Cái Tôi, nhưng trên hành trình siêu nhân, chúng ta phải đặt ra một câu hỏi cấp tiến hơn: Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu? “Tôi” vẽ ra một cuộc đời sướng – khổ không thể tiên liệu. “Tôi” cách ly chúng ta khỏi thế giới và hạn chế những điều ta có thể cảm nhận, suy nghĩ, phát ngôn và hành động. Có phải chúng ta thường ngăn mình làm những chuyện bốc đồng bởi ý nghĩ tự động này – “Tôi không phải loại người làm chuyện X”? Chuyện X có thể là bất cứ gì, từ một trò chơi khăm vui vẻ đến phô trương thu nhập hay bỏ việc để đầu quân cho rạp xiếc. Mọi hạn chế do “Tôi” áp đặt đều vô nghĩa. Khuôn mẫu đó chỉ có ích cho những điều kiện xã hội đã lỗi thời. Khi chúng ta nhận ra “Tôi” chỉ là một mô hình tinh thần – và còn là một mô hình rất rung lắc – con đường thay đổi sẽ rộng mở. Một khi mô hình này mất đi sức mạnh cố hữu, chúng ta có thể quyết định hành động mà không còn phụ thuộc vào “Tôi”.

“Tôi” tồn tại để thuyết phục bạn rằng bạn là tạo vật của bầu thực tế ảo này, và việc vượt lên khỏi môi trường mô phỏng là không tưởng, cũng như một tấm ảnh không thể nhảy ra khỏi cái khung chứa nó được. Nguyên nhân khiến con người vướng víu trong ảo ảnh là vì chúng ta bị cái “Tôi” cùng mọi thứ “Tôi” đại diện trói chặt. Có rất nhiều việc phải làm để “Tôi” ngừng chi phối cuộc đời con người. Từ những ký ức đầu tiên của chúng ta về bản thân, “Tôi” đã là người bạn đồng hành thân cận nhất, và “Tôi” dành mọi khoảnh khắc tỉnh táo để bám lấy những trải nghiệm nó cho là đáng mơ ước, đồng thời loại bỏ các trải nghiệm khó chịu. “Tôi” không muốn từ bỏ sức mạnh chi phối chúng ta, vì lý do chính đáng. Có ai đó đặc biệt yêu thương bạn và chỉ riêng bạn khiến cuộc đời đáng sống hơn. Khi “Tôi” phai mờ, còn ai để ta yêu và được yêu nữa? Nhưng đó không phải nguy cơ duy nhất. Mọi điều con người suy nghĩ, phát ngôn và hành động đều nhằm mục đích khiến “Tôi” mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn và tốt đẹp hơn. Vậy thì hành trình siêu nhân không thể thành công nếu không mang lại cho chúng ta những giá trị viên mãn hơn điều mà cái “Tôi” đang làm.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Ảo tưởng giữa đời thường

Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Ai cũng đồng ý sống chân chạm đất tốt hơn là mơ mộng. Vậy nên hẳn sẽ là cú sốc với bạn nếu vỡ lẽ ra rằng bấy lâu nay mình vẫn sống trong ảo mộng. Bạn đã bám víu lấy khối ảo ảnh ấy ngay từ thời thơ ấu. Đến cả những người thực tế, lý trí nhất cũng thường xuyên đắm chìm trong ảo mộng. Tôi không chỉ bàn tới những ảo vọng hoang đường hay tưởng tượng dục tình, hoặc giấc mơ trở thành tỷ phú sau một đêm. Chẳng có gì bạn thấy thực chất như vậy cả. Tất cả đều là ảo ảnh từ chân tới đầu. Lấy điện thoại của bạn ra và xem bất cứ hình ảnh nào mới được lưu đi. Bức ảnh có chiều ngang vài centimet, bất kể là ảnh chụp Grand Canyon, con chuột hay vi trùng. Mắt bạn vẫn cách màn hình điện thoại một khoảng như nhau, nhưng bạn nhận biết Grand Canyon, con chuột và vi trùng với những kích thước hoàn toàn khác biệt. Bằng cách nào chúng ta có thể tự động điều chỉnh kích thước của hình ảnh trên màn hình vậy? Chẳng ai trả lời được, và tình hình càng bí ẩn hơn nếu bạn nhớ ra rằng võng mạc phía sau nhãn cầu là mặt cong và ảnh chiếu lên đó còn bị lộn ngược. Tại sao thế giới quanh ta lại không bị bóp méo như trong nhà gương cười? Bạn có thể nhún vai mà đẩy hết bí mật cho não bộ, cơ quan nhào nặn dữ liệu thô từ mắt và tạo thành bức tranh thế giới thực cho ta. Nhưng làm thế chỉ càng khiến ảo ảnh ăn sâu hơn. Khi nói mắt phản ứng với “ánh sáng thấy được”, ta đã bỏ qua sự thực là các hạt cơ bản của ánh sáng – photon – vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Photon không có độ sáng, độ bóng, màu sắc hay bất kỳ đặc tính nào liên hệ tới ánh sáng. Giống như bộ đếm Geiger nháy đèn liên tục khi phát hiện mức phóng xạ cao và ngược lại, võng mạc cũng “nhấp nháy” liên tục khi hàng triệu photon kích hoạt các tế bào nón và que trong nó, nếu mức sáng giảm xuống (tức là chuyển thành tối) sẽ nháy thưa dần đi. Dù sao thì mọi hình ảnh bạn nghĩ mình nhìn thấy đều đã được xử lý trong não, ở một vùng cụ thể có tên là vỏ não thị giác, nơi hoàn toàn tối. Một bóng đèn chớp làm chói mắt bạn khi đi vào não cũng tối như ánh mờ của những ngôi sao trên trời đêm mà thôi. Các tín hiệu truyền đến vỏ não thị giác không tạo ra hình ảnh, chưa nói tới ảnh 3-D. Bức ảnh bạn ghi lại để hình dung về thế giới thực ra là do não bạn thêu dệt nên. Tương tự, bốn giác quan còn lại cũng chỉ là những “nhấp nháy” trên bề mặt của các tế bào khác. Không ai giải thích được tại sao các dây thần kinh trong mũi lại biến sự bùng nổ của những phân tử đang trôi nổi thành hoa hồng thơm hay đống rác thối. Toàn bộ thế giới ba chiều được thiết lập bằng một ẩn số ma thuật, nhưng đó chắc chắn không phải là khung cảnh thật của hiện thực. Tất cả đều là sản phẩm của tâm trí.

Một nhà khoa học thần kinh sẽ chỉnh đốn tôi, khẳng định thế giới chúng ta nhận thức là sản phẩm của não bộ mới đúng. Song chỉ một vài ví dụ đơn giản cũng có thể lật đổ luận điểm ấy. Theo cơ chế của não bộ, những ký tự trên trang sách này chỉ là đốm đen, không khác gì mấy đốm mực bạn chấm đại ra bằng cọ vẽ. Trước khi bạn học đọc bảng chữ cái, các ký tự chỉ là những đốm đen vô nghĩa, chỉ khi bạn học xong chúng mới trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên về mặt xử lý thông tin, bộ não bạn hiện nay vẫn y như từ lúc ba tuổi trở đi. Tâm trí ta học cách đọc chữ, không phải bộ não. Tương tự vậy, bất cứ điều gì bạn thấy xung quanh – một cây du, thanh chocolate Bỉ, nhà thờ hay nghĩa trang – đều có ý nghĩa là bởi tâm trí đã gán ý nghĩa cho chúng. Một ví dụ khác: Khi trẻ em mù bẩm sinh được trị liệu y tế để có thể nhìn, các em sẽ lúng túng trước những điều mà chúng ta thấy bình thường. Kích thước con bò đằng xa ngang với một con mèo sát bên. Cầu thang trông như được vẽ trên tường; cái bóng là một mảng đen huyền bí cứ bám theo các em khắp nơi. Điều mà trẻ mù bẩm sinh đã bỏ lỡ – và cần bắt kịp – là đường cong lĩnh hội (the learning curve) mà ai ai cũng phải học để định hình hiện thực đời thường. (Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.) Đường cong lĩnh hội cần thiết để bạn sống trong thế giới này, nhưng bạn cũng tự thích nghi theo những cách rất riêng và đáng ngạc nhiên. Hãy thử nhìn từ góc độ của bạn. Nếu bạn đang nằm trên giường và có ai đó chạm vai để đánh thức bạn, nhìn người đó không to bè ra với cái đầu nho nhỏ tít bên trên. Nhưng hãy nằm đúng vị trí ấy và thử chụp một bức ảnh, hiện thực sẽ bị bóc trần. Thân người ngang tầm mắt bạn trông to lớn lạ thường, trong khi cái đầu ở xa tầm mắt hơn lại nhỏ xíu. Tương tự vậy, khi bạn ngồi bên cạnh nói chuyện với một người, mũi anh ta như phổng hẳn lên, và nếu đối chiếu với ảnh chụp, đôi mắt anh ta trông còn to hơn bàn tay đang đặt trên đùi. Chúng ta tự động che đi hình thù thực tế của sự vật trong góc nhìn cá nhân, và biến đổi dữ liệu bằng năng lực tâm trí. Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó. Bạn biết cái mũi nhỏ hơn bàn tay, thế nên ở đây cũng cần có sự điều chỉnh dữ liệu hợp lý. Sự thật gây sốc chính là mọi thứ bạn nhận thức đều đã được điều chỉnh. Các phân tử lơ lửng trong vườn được chuyển thành mùi hương. Các tần số rung động được chuyển thành âm thanh để bạn nghe thấy và định dạng. Không có lối thoát khỏi thế giới do tâm trí nhào nặn này. Đây vừa là vinh quang vừa là hiểm họa với nhân loại. Tản bộ trên đường phố London hai trăm năm trước, nhà thơ uyên bác William Blake cảm thán cho những điều trông thấy:

“Trên từng vết sẹo mặt người
Sẹo yếu nhược, sẹo khổ đau.
Trong tiếng nhân loại than van,
Tiếng ỉ ôi của bầy trẻ nhỏ,
Trong mọi âm thanh: mọi điều cấm kỵ,
Tôi nghe thấy gông cùm tâm trí.”

Đó là một khung cảnh đáng buồn, vậy mà vẫn tiếp diễn mãi tới tận ngày nay. Con người cứ loay hoay trong bể khổ và sóng gió với niềm tin sâu sắc rằng chúng ta đã được định trước số phận ấy. Sẽ không gì thay đổi cho đến ngày bạn chấp nhận là nếu tâm trí có thể tạo ra hiện thực thì cũng có thể phá hủy chúng.

- Còn tiếp -

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng