Trích đăng

Chương 1 “Lưỡng Giới” – Jeffrey Eugenides

“Tôi sinh ra hai lần: lần đầu, là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa, là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petoskey, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Lưỡng giới

Tác giả: Jeffrey Eugenides

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: tháng 7.2019

CÁI THÌA BẠC

Tôi sinh ra hai lần: lần đầu, là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa, là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petoskey, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974. Độc giả chuyên ngành có thể đã tình cờ bắt gặp tôi trong nghiên cứu của Tiến sĩ Peter Luce, “Bản Dạng Giới trong trường hợp Lưỡng giới tính Giả do thiếu enzyme 5-Alpha-Reductase,”1 đăng trên Tạp chí Nội tiết Nhi khoa năm 1975. Hoặc bạn thấy ảnh chụp tôi ở chương mười sáu cuốn Di Truyền Học và Di Truyền mà giờ đây đáng tiếc đã lỗi thời. Tôi chính là đứa trần truồng đứng cạnh biểu đồ tăng trưởng chiều cao với băng đen che hai mắt ở trang 578.

Tên tôi trên giấy khai sinh là Calliope Helen Stephanides. Bằng lái xe gần đây nhất (do Cộng hòa Liên bang Đức cấp) chỉ ghi đơn giản là Cal. Tôi từng là thủ môn khúc côn cầu, thành viên lâu năm của Hiệp hội Cứu Lấy Loài Lợn Biển, kẻ hiếm khi đi lễ của Giáo hội Chính thống Hy Lạp, và phần lớn thời gian khi trưởng thành, nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Cũng như Tiresias2, ban đầu tôi là một thứ rồi sau biến thành thứ khác. Tôi bị bạn bè cùng lớp chế giễu, bị bác sĩ biến thành chuột lang thí nghiệm, bị bác sĩ chuyên khoa sờ nắn, và bị tổ chức March of Dimes3 nghiên cứu. Một con bé tóc đỏ ở khu Grosse Pointe phải lòng tôi mà không hề biết tôi bị làm sao. (Anh nó cũng mê tôi.) Một chiếc xe tăng có lần đẩy tôi vào trận chiến trong thành phố; một cái bể bơi biến tôi thành huyền thoại; tôi rời bỏ cơ thể mình đến cư ngụ những cơ thể khác – và tất cả những chuyện này đều xảy ra trước khi tôi bước sang tuổi mười sáu.

Nhưng lúc này đây, ở tuổi bốn mươi mốt, tôi cảm thấy một lần chào đời nữa đang đến gần. Sau hàng thập kỷ quên lãng, tự nhiên tôi nghĩ đến những bà trẻ ông trẻ đã về nơi chín suối, những người ông thất lạc từ lâu lắm, những đứa anh em họ năm đời bắn đại bác không tới chả biết ai là ai, hay trong trường hợp gia đình lai cận huyết như nhà tôi, một người mang tất cả các vai trò ấy. Vì thế trước khi quá muộn, tôi muốn viết về nó một lần dứt khoát cho xong luôn: cuộc phiêu lưu xuyên thời gian đầy thăng trầm của chiếc gen duy nhất. Hỡi Thi Thần, xin cất lời ca về đột biến lặn trên nhiễm sắc thể thứ năm của tôi! Hãy hát về thời nó đơm hoa trên sườn núi Olympus hai thế kỷ rưỡi trước, khi dê thì be be còn ôliu thì rụng quả. Hãy hát về chuyện nó được truyền qua chín thế hệ, vô hình tập hợp lại trong cái vốn gen ô uế của gia đình Stephanides. Và hát về Thượng đế, dưới lốt vỏ cuộc thảm sát, làm cho cái gen đó lại bay đi rất xa; về chuyện nó bị thổi vù như hạt giống qua đại dương tới Hoa Kỳ, được mưa ô nhiễm công nghiệp cuốn đi cho đến khi rơi xuống miếng đất màu mỡ là cái tử cung vùng Trung Tây của bà bô tôi.

Xin lỗi nếu thỉnh thoảng tự dưng tôi có hơi hướm Homer quá.

Cái đó cũng di truyền đấy.

Ba tháng trước khi tôi chào đời, sau một bữa tối Chủ nhật linh đình, bà nội Desdemona Stephanides sai anh tôi đi lấy hộ bà hộp tằm. Chương Mười Một đang vào bếp lấy suất bánh pút đinh gạo thứ hai thì bị bà chặn lại. Năm mười bảy tuổi, vừa lùn tè vừa to bè bè, cùng bộ lưới bao tóc nom rất hãi, bà tôi phù hợp hoàn hảo với việc chặn đường người khác. Trong bếp phía sau bà, cả đội quân đàn bà ngày hôm đó đang tụ tập cười đùa to nhỏ. Tò mò, Chương Mười Một nghiêng người sang bên dòm xem đang có vụ gì, nhưng Desdemona giơ tay véo thật lực vào má anh. Sau khi khiến anh tập trung trở lại, bà vẽ một hình chữ nhật lên không trung rồi chỉ lên trần nhà. Đoạn, qua hàm răng giả lắp không khít, bà bảo, “Đi nấy4 hộ yia yia5 cái, cục cưng mou6.”

Chương Mười Một biết phải làm gì. Anh phóng qua hành lang vào phòng khách. Anh bò lên cầu thang tới tầng hai. Anh vọt qua các phòng ngủ nằm dọc hành lang tầng trên. Ở phía cuối hành lang là cánh cửa cơ hồ tàng hình, bị giấy dán tường đè lên như thể dẫn vào lối đi bí mật. Chương Mười Một định vị được nắm đấm cửa nhỏ xíu cao ngang đầu, đoạn vận hết công lực mở ra. Sau cánh cửa là cầu thang nữa. Anh lưỡng lự ngó đăm đăm vào bóng tối phía trên một lúc lâu rồi mới chầm chậm bò lên căn áp mái nơi ở của ông bà.

Đi giày thể thao anh băng qua dưới mười hai cái lồng chim quây báo ẩm ướt treo trên rui nhà. Làm mặt can trường anh xông vào cái mùi chua lòm của bọn vẹt đuôi dài, và mùi hương riêng của ông bà tôi, một hỗn hợp thuốc diệt mối với thuốc hasit7. Anh khéo len qua cái bàn chất đầy sách vở với bộ sưu tập đĩa nhạc dân gian Hy Lạp rebetiko của ông nội. Cuối cùng, va vào ghế Ottoman da và cái bàn cà phê mặt tròn bằng đồng, anh tìm thấy giường ông bà, và dưới gậm giường, cái hộp tằm.

Được tạc từ gỗ ôliu, chỉ nhỉnh hơn hộp giày một chút, cái hộp có nắp bằng thiếc đục những lỗ thông hơi nhỏ xíu và dát hình một vị thánh chả nhận ra được là ai. Mặt vị thánh đã mòn, nhưng những ngón trên bàn tay phải thì giơ lên ban phước cho một cây dâu tằm màu tím, thấp tè, vẻ siêu ngạo mạn. Sau khi đờ đẫn nhìn hình ảnh thực vật sinh động này mất một lúc, Chương Mười Một bèn kéo cái hộp trong gậm giường rồi mở ra. Bên trong là hai vòng hoa cưới được tết từ dây thừng và hai bím tóc dài cuộn lại như con rắn, mỗi bím đều thắt ruy băng đen nhàu nhĩ. Anh chọc ngón trỏ vào bím tóc. Đúng lúc đó một con vẹt quác mồm gào toáng làm ông anh tôi giật nảy người, anh bèn đóng hộp lại, kẹp vào nách, đoạn mang xuống lầu cho Desdemona.

Bà vẫn đợi ở bậu cửa. Cầm lấy hộp tằm từ tay anh, bà quay lại bếp. Đến lúc này Chương Mười Một mới được thấy trọn căn phòng, nơi đồng loạt các mẹ các chị tự dưng im bặt. Họ dịch sang bên để Desdemona đi qua và ngay giữa tấm lót sàn là bà bô tôi. Tessie Stephanides ngồi ngả người ra ghế ăn, mình bẹp dí dưới cái bụng chửa to đùng căng như mặt trống. Khuôn mặt bà, đỏ hồng và nóng bừng, lộ vẻ bơ phờ nhưng vui sướng. Desdemona đặt hộp tằm lên bàn bếp rồi mở ra. Bà luồn tay xuống dưới vương miện với bím tóc lấy ra thứ mà Chương Mười Một không nhìn thấy: cái thìa bằng bạc. Bà buộc mẩu dây vào cán thìa. Đoạn bà chúi tới giơ cái thìa lên trên cái bụng căng phồng của bà bô tôi. Và, cũng chính là lên trên tôi.

Cho đến lúc này Desdemona vẫn giữ được kỷ lục hoàn hảo: hai mươi ba lần dự đoán chính xác. Bà đã biết Tessie sẽ là Tessie. Bà đoán giới tính của anh tôi cùng tất thảy con cái bạn bè ở nhà thờ. Đứa duy nhất bà không đoán giới tính là con bà, bởi người mẹ mà đi thăm dò chính tử cung đầy bí ẩn của mình là chuyện xui xẻo. Tuy vậy, bà chẳng ngại thăm dò tử cung bà bô tôi. Sau chút lưỡng lự ban đầu, cái thìa đánh mình từ Bắc sang Nam, thế nghĩa là tôi sẽ là bé trai.

Chân giạng tè he trên ghế, bà bô tôi cố nặn ra một nụ cười. Bà không muốn có con trai. Bà có một đứa rồi. Thực ra bà chắc mẩm tôi sẽ là con gái đến độ chỉ chọn cho tôi mỗi một cái tên: Calliope. Nhưng khi bà tôi hét lên bằng tiếng Hy Lạp, “Con trai!” thì tiếng hét lan khắp phòng, ra ngoài hành lang, xuyên qua hành lang vào phòng khách nơi cánh đàn ông đang tranh cãi chuyện chính trị chính em. Thế là bà bô, nghe từ đó vang đi vang lại quá nhiều lần, bắt đầu tin biết đâu là con trai thật.

Tuy vậy, ngay sau khi tiếng hét lọt tới tai ông bô tôi, ông khệnh khạng vào phòng bảo với bà nội rằng, ít nhất lần này cái thìa của bà sai rồi. “Mày dựa vào cái gì mà tinh tướng thế ?” Desdemona hỏi ông.

Thế là ông đáp lại bằng cái câu nhiều người Mỹ thế hệ ông vận tới:

“Dựa vào khoa học bu ạ.”

Kể từ lúc họ quyết định có thêm đứa nữa – nhà hàng làm ăn tốt với cả Chương Mười Một đã thôi bỉm biếc từ lâu – Milton và Tessie nhất trí họ muốn có con gái. Chương Mười Một vừa lên năm. Cách đó ít lâu anh vớ được con chim chết ngoài sân bèn mang luôn vào nhà cho mẹ xem. Anh mê bắn biếc, dùng búa nện niếc, nghiền nghiếc, và vật lộn với bố. Trong gia đình rặt đàn ông như thế, Tessie dần thấy lạc lõng vì mỗi mình là phụ nữ và hình dung mười năm tới sẽ bị giam hãm trong cái thế giới của các kiểu ốp mâm xe với bệnh thoát vị. Bà mơ có con gái để cân bằng quyền lực: cùng là đồng bọn yêu chó cảnh, cùng ủng hộ đề nghị đi xem chương trình trượt băng nghệ thuật Ice Capades. Mùa xuân năm 1959, khi chuyện bàn bạc thụ thai tôi diễn ra, bà bô tôi không tiên lượng được việc chẳng bao lâu sau hàng nghìn phụ nữ rồi sẽ đốt sạch xu chiêng của họ. Xu chiêng của bà độn bông, cứng ngắc, lại khó cháy. Dù rất yêu con trai, Tessie biết có những chuyện bà chỉ chia sẻ được với con gái mà thôi.

Sáng sáng khi chạy xe đi làm, ông bô tôi thấy ảo ảnh một bé gái bé bỏng mắt đen láy dễ thương vô bờ bến. Nó ngồi trên ghế cạnh ông – hiện lên hầu hết vào lúc chờ đèn đỏ – đặt câu hỏi cho cái tai kiên nhẫn biết tuốt của ông. “Bố ơi cái đó gọi là gì ạ?” “Cái đó à? Đó là huy hiệu hãng Cadillac con ạ.” “Huy hiệu Cadillac là gì ạ?” “Chà, hồi xưa, có một nhà thám hiểm người Pháp tên là Cadillac, và ông chính là người phát hiện ra Detroit. Đó là huy hiệu của gia tộc ông ấy, ở Pháp.” “Pháp là gì ạ?” “Pháp là một quốc gia ở châu Âu.” “Châu Âu là gì ạ?” “Là một lục địa, giống một miếng đất bự, bự hơn một quốc gia rất rất nhiều. Nhưng không phải chỉ châu Âu mới có xe Cadillac nữa đâu, kukla8ạ. Ngay trên nước Mỹ cổ xưa tốt lành này đã sản xuất ra nó rồi con ạ.” Đèn xanh bật lên, ông lái xe đi. Nhưng cái vật mẫu cho tôi ấy vẫn nấn ná lại. Nó hiện ra ở trạm đèn đỏ tiếp theo rồi tiếp theo nữa. Được đồng hành với nó dễ chịu đến mức ông bô tôi, một người đàn ông óc tuyền sáng kiến, quyết định xem mình có thể biến ảo ảnh thành hiện thực không.

Vì thế thời gian gần đây, trong phòng khách nơi cánh đàn ông vốn hay bàn bạc chuyện chính trị, họ cũng bắt đầu bàn về tốc độ tinh trùng. Peter Tatakis, “chú Pete,” bọn tôi vẫn gọi vậy, là thành viên đứng đầu câu lạc bộ tranh biện được thành lập hằng tuần trên ghế xô pha đôi màu đen nhà chúng tôi. Độc thân cả đời, chú chả có họ hàng thân thích gì ở Mỹ cả nên đâm ra gắn bó với gia đình tôi. Chủ nhật nào chú cũng lái con Buick màu đỏ thẫm đến chơi, cao lớn, mặt quắt lại vẻ buồn bã, nhưng trên đầu tóc tai lại xoăn tít đầy sức sống. Chú chả thiết gì chuyện con cái. Vốn ủng hộ xê ri Những Đại Danh Tác – đã nghiền những hai lần – chú Pete chỉ quan tâm tới những tư tưởng nghiêm túc với cả opera Ý. Trong lĩnh vực lịch sử, chú mê sử gia Edward Gibbon9, còn trong lĩnh vực văn chương là những ghi chép của Madame de Staël10. Chú khoái trích dẫn ý kiến của quý bà dí dỏm đó về ngôn ngữ Đức, rằng tiếng Đức dùng đối thoại không hợp vì ta phải chờ đến cuối câu mới nghe được động từ, nên chả thể nào cắt ngang được. Chú Pete từng muốn trở thành bác sĩ, nhưng “tai ương” đã bóp chết ước mơ đó. Ở Mỹ, chú mài đũng quần hai năm ở trường dạy nắn khớp xương, và giờ đây quản lý phòng khám nhỏ ở thành phố Birmingham với bộ xương người vẫn chưa trả góp xong. Hồi đó, thiên hạ không tin tưởng mấy một người nắn xương. Người ta chả đến chỗ chú Pete để phóng xuất năng lượng hỏa xà kundalini. Chú bẻ cổ, nắn thẳng xương sống, và làm đệm độn vòm bàn chân từ cao su xốp. Dẫu vậy, vào những buổi chiều Chủ nhật thời kỳ đấy, trong số những vị khách đến nhà tôi, chú vẫn là người đạt gần đến tầm của một bác sĩ nhất. Khi còn trẻ, chú phẫu thuật cắt bỏ nửa dạ dày, và giờ đây cứ sau bữa tối là lại làm một lon Pepsi cho tiêu cơm. Cái thức uống nhẹ này được đặt tên từ enzyme pepsin giúp tiêu hóa, chú bảo với chúng tôi vẻ thông thái, thành thử nó hợp với vai trò đó.

Chính cái kiểu kiến thức này khiến ông bô tôi tin sái cổ những gì chú Pete nói khi bàn chuyện liên quan tới kế hoạch sinh sản. Đầu ngả vào gối dựa, chân không mang giày, bản opera Madama Butterfly bật khe khẽ trên dàn, chú Pete giải thích rằng dưới kính hiển vi tinh trùng mang nhiễm sắc thể giai bơi nhanh hơn tinh trùng mang nhiễm sắc thể gái. Nhận định này ngay lập tức làm cho mấy ông chủ nhà hàng với thợ hoàn thiện đồ lông thú11 tụ tập ở phòng khách nhà tôi hồ hồ hởi hởi. Tuy nhiên, ông bô lại chơi một kiểu ngồi giống bức tượng Người suy tư12 mà ông rất yêu thích và có một bức mini đặt trên bàn điện thoại phía bên kia phòng. Mặc dù chủ đề này được đưa ra trong không khí tự do cởi mở sau bữa tối Chủ nhật, và cung cách thảo luận không có gì ám chỉ cá nhân, nhưng ai cũng biết tỏng, con tinh trùng mọi người đang bàn tán chính là của ông bô tôi. Chú Pete nói rõ ràng: để có con gái, vợ chồng nên “quan hệ tình dục hai mươi tư giờ trước khi trứng rụng.” Bằng cách đó, tinh trùng trai nhanh nhạy hơn bươn bả đâm bổ tới mà chết sạch. Tinh trùng gái, chậm chạp nhưng đáng tin hơn, sẽ đến đúng lúc trứng rụng.

Cụ giai nhà tôi khó lòng thuyết phục được cụ gái làm theo kế hoạch đó. Tessie Zizmo là trinh nữ khi kết hôn với Milton Stephanides ở tuổi hai mươi hai. Giai đoạn đính hôn, trùng với Đệ nhị Thế chiến, là thời kỳ mà cả hai vẫn còn trinh trắng. Bà tự hào vì đã thành công khi cùng lúc vừa nhen nhóm vừa kìm giữ ngọn lửa của ông bô, khiến ông luôn ở trạng thái ham muốn vừa phải trong suốt cơn biến động toàn cầu. Tuy vậy, chuyện này chả khó khăn mấy bởi bà ở mãi Detroit còn Milton ở tận Annapolis trong Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Suốt hơn một năm, Tessie thắp nến thánh ở nhà thờ Hy Lạp cầu nguyện cho chồng chưa cưới, còn Milton thì ngắm ảnh bà kẹp ở đầu giường. Ông ưa sắp đặt cho Tessie bắt chước các tư thế trên tạp chí điện ảnh, nghiêng người, gót giày kiễng lên bậc, hở đoạn tất đen. Bà bô tôi nom ngoan ngoãn kỳ lạ trong những bức ảnh cũ này, như thể không khoái gì hơn khi được người đàn ông mặc quân phục của mình bố trí cho đứng dựa vào cổng nhà và cột đèn đường ở khu phố nghèo họ sống.

Bà không chịu đầu hàng cho đến khi Nhật đầu hàng. Rồi, từ đêm tân hôn trở đi (theo như những gì ông anh kể vào đôi tai bịt chặt của tôi), ông bà bô làm tình đều đặn và đê mê. Tuy vậy, khi đụng đến chuyện sinh con đẻ cái thì bà lại có chủ kiến riêng. Bà tin rằng bào thai cảm nhận được lượng tình yêu tạo ra lúc thụ thai. Thành thử, gợi ý của ông bô không được bà đồng tình cho lắm.

“Anh nghĩ chuyện này là gì hả Milt, đi thi thế vận hội Olympic à?” “Mình chỉ đang nói về mặt lý thuyết thôi mà em,” ông nói.

“Chú Pete thì biết quái gì chuyện đẻ đái chứ?”

“Chú ấy đọc bài báo đó trên tạp chí Khoa học thường thức Hoa Kỳ đấy,” Milton nói. Rồi để cho lập luận vững chắc hơn: “Chú đặt báo này dài hạn đấy.”

“Nghe này, nhỡ lưng bị lệch, em sẽ đi khám chú Pete. Nếu chân bẹt như chân anh, em cũng sẽ đi khám. Nhưng chỉ thế thôi.”

“Chuyện này đã được kiểm chứng. Dưới kính hiển vi. Tinh trùng giai bơi nhanh hơn.”

“Em cá bọn nó cũng ngu hơn đó.”

“Cứ nói tiếp đi. Nói xấu tinh trùng giai bao nhiêu tùy em. Thoải con gà mái đi. Mình đâu có muốn tinh trùng trai. Thứ mình muốn là một tinh trùng gái già, chậm rãi, đáng tin.”

“Dẫu chuyện kia có thật thì vẫn rất lố bịch. Em đâu thể cứ thế mà làm như cái máy được, Milt ạ.”

“Anh thì còn khó hơn em ấy chứ.”

“Em không muốn nghe nữa.”

“Anh cứ tưởng em muốn có con gái.”

“Em muốn có con gái chứ.”

“Chậc,” ông nói, “thế thì đây là cách để mình có con gái đấy.”

Tessie cười trừ, đoạn gạt phăng đề xuất này. Nhưng đằng sau lời chế nhạo của bà là nỗi e dè rất nghiêm túc về mặt đạo lý. Can thiệp vào chuyện bí ẩn và kỳ diệu như sinh nở là hành động xấc xược. Trước hết, Tessie không tin ta làm được chuyện đó. Mà dù có làm được, bà cũng tin ta không nên thử.

Dĩ nhiên, một người kể chuyện ở vị thế của tôi (còn chưa hoài thai vào thời điểm đó) làm sao mà biết chắc như đinh đóng cột những chuyện này. Tôi chỉ có thể giải thích cơn cuồng khoa học ông bô bị nhiễm hồi mùa xuân năm 59 là triệu chứng của thứ niềm tin đang sinh sôi rồi sẽ làm cả thiên hạ lây nhiễm hồi đó. Xin nhớ cho rằng, vệ tinh Sputnik vừa mới được phóng chỉ hai năm trước đó. Bệnh bại liệt bắt ông bà bô ở rịt trong nhà suốt bao tháng hè lúc còn nhỏ đã bị vắc xin Salk chế ngự. Thiên hạ đâu thể ngờ bọn virus thông minh hơn con người, cứ tưởng rằng chẳng chóng thì chầy bọn nó sẽ thuộc về quá khứ không bao giờ nảy nòi ra lần nữa. Ở cái nước Mỹ hậu chiến đầy lạc quan đó, mà tôi vớt vát được giai đoạn cuối, ai cũng là ông chủ số phận của chính mình, vì thế dĩ nhiên ông bô tôi sẽ cố trở thành ông chủ số phận mình.

Vài ngày sau khi đề cập kế hoạch với Tessie, một tối nọ Milton về nhà mang theo một món quà. Một hộp trang sức có thắt nơ.

“Ý đồ gì đây?” Tessie nghi ngờ hỏi.

“Ý em là sao, sao lại ý đồ gì đây?”

“Hôm nay không phải sinh nhật em. Không phải kỷ niệm ngày cưới. Thế lý do gì anh lại tặng quà cho em?”

“Chả nhẽ phải có lý do thì anh mới được tặng quà cho em à? Nào, em mở ra đi.”

Tessie bán tín bán nghi nhếch một khóe miệng. Nhưng thật khó lòng không mở hộp trang sức khi nó nằm sờ sờ trên tay. Vì thế cuối cùng bà cũng tháo nơ rồi mở hộp ra.

Trong hộp, trên nền nhung đen, là cái cặp nhiệt độ.

“Cặp nhiệt độ à,” bà bô tôi nói.

“Không phải cặp nhiệt độ tầm thường đâu nhé,” Milton nói. “Phải đi đến ba tiệm thuốc mới tìm được loại này đấy.”

“Loại đắt tiền hả?”

“Đúng thế,” Milton nói. “Loại này gọi là nhiệt kế đo nhiệt độ cơ bản. Nó đo nhiệt độ nhạy tới từng một phần mười độ.” Ông nhướn mày lên. “Nhiệt kế bình thường chỉ đo được hai phần mười thôi. Cái này là một phần mười đấy. Em thử xem. Ngậm vào mồm ấy.” “Em đâu có bị sốt,” Tessie nói.

“Không phải để xem có bị sốt không. Em dùng để xem nhiệt độ cơ thể lúc nghỉ ngơi thấp nhất là bao nhiêu. Loại này chính xác và chuẩn hơn nhiệt kế thông thường dùng khi bị sốt.”

“Lần sau mua cho em sợi dây chuyền nhé.”

Nhưng Milton không từ bỏ: “Nhiệt độ cơ thể thay đổi thường xuyên, Tess ạ. Mình không nhận thấy được, nhưng đúng là vậy. Nhiệt độ trong người lên xuống liên tục. Chẳng hạn như” – ông ho khẽ – “tình cờ nếu em rụng trứng. Thì nhiệt độ của em tăng lên. Sáu phần mười độ, hầu hết đều vậy. Bây giờ,” ông nói tiếp, hào hứng hơn, không nhận thấy vợ đang cau mày, “nếu thực thi cái kế hoạch hôm nọ – chỉ là ví dụ thôi, việc mình làm trước tiên là đo nhiệt độ cơ bản của em. Có thể không phải 37 độ C. Nhiệt độ mỗi người đều khác nhau một chút. Cái này anh cũng học được từ chú Pete đấy. Một khi xác định nhiệt độ cơ bản rồi, em tìm xem lúc nào nhiệt độ tăng lên sáu phần mười độ. Khi đó, nếu em chịu, thì khi đó là lúc mình biết cần phải, em biết đấy, pha cốc tai.”

Bà chả ừ hữ gì. Bà chỉ đặt cái cặp nhiệt độ vào hộp, đóng nắp, đoạn đưa lại cho chồng.

“Được rồi,” ông nói. “Được thôi. Tùy em. Mình sẽ lại dính thêm thằng cu. Đứa thứ hai. Nếu em muốn như vậy thì sẽ là như vậy.”

“Em chả dám chắc lúc này dính diếc được cái gì đâu anh ạ,” bà đáp.

Trong lúc đó, tại phòng nghỉ trước khi lên sân khấu cuộc đời, tôi đợi. Một tia hy vọng lẻ loi trong mắt ông bô tôi còn chưa có (ông đang âu sầu nhìn xuống cái hộp đựng nhiệt kế trên đùi). Lúc này bà bô đứng dậy từ cái gọi là xô pha đôi. Bà đi về phía cầu thang, tay sờ lên trán, và khả năng tôi ra đời dường như càng lúc càng mờ mịt. Lúc này ông đứng dậy đi quanh nhà kiểm tra, tắt đèn, khóa cửa. Khi ông lên lầu, hy vọng cho tôi lại bùng lên. Thời điểm cho việc đó phải cực kỳ chuẩn xác để tôi trở thành con người tôi như bây giờ. Chỉ cần trì hoãn hành động một tiếng đồng hồ thôi là sẽ thay đổi lựa chọn gen. Việc tôi được thụ thai còn nhiều tuần nữa mới xảy ra, nhưng ông bà bô tôi đã bắt đầu quá trình va chạm dần dần. Ngoài hành lang trên lầu, cái đèn ngủ Acropolis đang thắp sáng, đó vốn là quà của Jackie Halas, chủ cửa hàng đồ lưu niệm. Bà bô đang ngồi ở bàn trang điểm lúc ông vào phòng ngủ. Bà dùng hai ngón tay xoa kem rửa mặt Noxzema lên mặt, xong lấy khăn giấy chùi đi. Ông chỉ cần thốt một lời âu yếm là bà tha thứ luôn. Không phải tôi mà có lẽ một đứa giông giống tôi sẽ được tạo ra vào đêm hôm đó. Một số vô hạn những cá thể có khả năng tồn tại tụ tập ở ngưỡng cửa, tôi đứng với bọn nó mà chả có tấm vé đảm bảo nào, thời giờ chậm chạp trôi, những hành tinh trên trời quay với tốc độ như thường lệ, thời tiết cũng góp phần mình, bởi vì bà bô sợ sấm và sẽ phải rúc vào ông bô nếu đêm đó trời mưa. Nhưng không, trời quang mây đãng, như sự bướng bỉnh của hai cụ vậy. Đèn phòng ngủ tắt bụp. Họ nằm yên ở phần giường mình. Cuối cùng bà nói, “Ngủ ngon.” Còn ông đáp, “Gặp em sáng mai.” Những khoảnh khắc dẫn tới sự ra đời của tôi được sắp xếp đâu ra đấy như thể được ra sắc lệnh. Ắt hẳn đó là lý do vì sao tôi lại ngẫm ngợi về thời khắc đó nhiều đến thế.

Chủ nhật tuần sau đó, bà bô đưa Desdemona với anh tôi đi nhà thờ. Ông bô tôi chưa bao giờ đi cùng, lúc lên tám ông đã đứng vào hàng ngũ những kẻ vô thần vì nến thánh đắt cắt cổ. Tương tự, sáng sáng ông nội tôi thích ở nhà dịch sang tiếng Hy Lạp hiện đại những bài thơ đã được “phục hồi” của thi sĩ Sappho. Bảy năm sau đó, mặc dù liên tiếp bị đột quỵ, ông nội vẫn làm việc ở cái bàn nhỏ, ghép từng mẩu huyền thoại thành bức tranh khảm lớn, thêm đoạn giữa chỗ này, đoạn cuối chỗ kia, gắn vần chân hay nhịp iambus. Tối tối ông vừa nghe loại nhạc hay được chơi trong nhà thổ vừa hút shisha.

Năm 1959, Nhà thờ Chính thống Hy Lạp Đức Mẹ Lên Trời nằm trên phố Charlevoix. Chính tại nơi đó chưa đầy một năm sau tôi sẽ được rửa tội và nuôi nấng theo Chính thống giáo13. Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, với những linh mục đứng đầu lần lượt thay phiên do Tòa Thượng phụ ở Constatinople cử tới, ai mới đầu đến cũng có bộ râu sum suê quyền lực, bộ lễ phục thêu thiêng liêng, nhưng sau một thời gian đều kiệt quệ sạch – theo quy luật là sáu tháng – bởi cộng đoàn cứ quàng quạc suốt ngày, lại còn chê bai đả kích linh mục hát thánh ca không hay, rồi linh mục phải liên tục bắt một số phần tử giáo dân coi nhà thờ như chỗ ngồi ở Sân vận động Tiger im lặng, và cuối cùng, mỗi tuần phải gắng sức mà giảng một bài kinh hai lần, ban đầu bằng tiếng Hy Lạp rồi cũng bài đó bằng tiếng Anh. Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, với những giờ uống cà phê rộn ràng, cơ sở tồi tàn với mái nhà dột nát, những lễ hội văn hóa công phu vất vả, những lớp học giáo lý nơi di sản được gìn giữ chốc lát trong chúng tôi trước khi được phép tiêu tán trong cuộc lưu vong vĩ đại. Tessie với hai bà cháu tiến xuống lối đi giữa các dãy ghế ở giữa nhà thờ, đi qua những khay cát đựng nến thánh. Phía trên cao, to đùng đoàng như bong bóng thú trong Lễ diễu hành Ngày lễ Tạ ơn của tập đoàn Macy14, là Chúa Ban Phước Lành. Người ông cong cong uốn trên không gian mái vòm. Không giống những vị Chúa Jesus trần tục khổ sở được họa ngang tầm mắt người nhìn trên các bức tường trong nhà thờ, vị Chúa Ban Phước Lành của chúng tôi rõ là siêu phàm, đầy quyền năng, lừng lững trên thiên đường. Người đang nhoài xuống đưa bốn cuộn da cừu có ghi Phúc âm cho các tông đồ phía trên bàn thờ. Còn bà bô tôi, suốt đời cố tin Chúa mà chẳng mảy may thành công, ngước lên người tìm lời dìu dắt.

Cặp mắt Chúa Ban Phước Lành nhấp nháy trong ánh sáng mờ ảo. Chúng như hút Tessie lên cao. Qua khói hương trầm đang cuộn lên, đôi mắt Đấng Cứu Thế sáng rực lên như những cảnh chiếu chớp nhoáng các sự kiện vừa xảy ra trên tivi…

Đầu tiên là bà Desdemona tuần trước khuyên nhủ con dâu. “Đẻ thêm làm gì hả Tessie?” bà hỏi với vẻ cố tình thản nhiên. Cúi xuống ngó vào cái lò nướng nhằm giấu đi vẻ hoang mang trên mặt (cái vẻ hoang mang mãi đến mười sáu năm sau ta mới hiểu được), Desdemona gạt ý tưởng đó đi. “Thêm con thêm rắc rối chứ được cái gì…”

Tiếp đó là bác sĩ Philobosian, vị bác sĩ già của gia đình. Với những tấm bằng cổ lỗ sĩ sau lưng, vị đốc tờ già phán: “Vớ vẩn. Tinh trùng nam bơi nhanh hơn á? Nghe này. Người đầu tiên nhìn thấy tinh trùng dưới kính hiển vi là nhà khoa học Leeuwenhoek. Cô có biết với ông ta trông chúng giống cái gì không? Giống giun đấy…”

Rồi lại Desdemona, trình bày một góc nhìn khác: “Chúa quyết định trai hay gái. Không phải con…”

Những cảnh này lướt qua đầu bà bô trong suốt buổi giảng kinh tràng giang đại hải ngày Chủ nhật. Cộng đoàn nhấp nhổm đứng lên rồi ngồi xuống. Ngồi ở hàng ghế phía trước, mấy đứa em họ tôi, Socrates, Plato, Aristotle, và Cleopatra, ngọ nguậy không yên. Cha Mike xuất hiện từ phía sau bức tường có hình những vị thánh và vung bình hương. Bà cố cầu nguyện nhưng chẳng ích gì. Bà thoi thóp tới giờ uống cà phê.

Từ cái tuổi mười hai thơ ngây, bà bô tôi đã chẳng tài nào khởi sự ngày mới mà không có sự trợ giúp của ít nhất hai tách cà phê đen đặc không đường, cái sở thích bà học được từ mấy tay thuyền trưởng tàu lai kéo và mấy thằng cha độc thân ăn mặc hoa hòe hoa sói đầy rẫy ở nhà trọ nơi bà lớn lên. Khi còn học cấp ba, cao một mét năm lăm, bà ngồi cạnh đám công nhân nhà máy ôtô ở quán ăn góc phố, uống cà phê trước tiết học đầu tiên. Trong khi họ lướt xem tỉ số cá độ đua ngựa trên báo, Tessie làm xong bài tập về nhà môn giáo dục công dân. Lúc này đây, dưới tầng hầm trong nhà thờ, bà bảo Chương Mười Một chạy ra ngoài chơi với bọn trẻ con để bà uống tách cà phê cho tỉnh táo.

Bà đang uống tách thứ hai thì một giọng dịu dàng nữ tính thổi vào tai bà. “Chào buổi sáng, Tessie.” Đó là em rể bà, Cha Michael Antoniou.

“Chào Cha Mike. Buổi lễ hôm nay cảm động quá,” Tessie nói rồi ngay lập tức hối hận. Cha Mike là phó tế ở Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời.

Khi vị linh mục gần đây nhất ra đi, quay về Athens chỉ sau vẻn vẹn có ba tháng, cả gia đình hy vọng Cha Mike sẽ được thăng chức. Nhưng cuối cùng, một linh mục mới người nước ngoài, Cha Gregorios lại được vị trí đó. Cô Zo, chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để than van về cuộc hôn nhân của mình, thốt lên tại bữa tối bằng giọng nữ diễn viên hài kịch, “Chồng tôi. Lúc nào cũng làm phù dâu chớ chưa bao giờ được làm cô dâu.”

Khi khen ngợi buổi lễ, Tessie không hề có ý khen ngợi Cha Greg. Tình huống còn nhạy cảm hơn nữa bởi nhiều năm trước đây Tessie với Michael Antoniou đã đính hôn với nhau. Giờ đây bà kết hôn với Milton còn Cha Mike thì lại cưới em gái Milton. Tessie xuống dưới này để đầu óc được thư thái uống cà phê vậy mà chưa gì ngày hôm đó đã trở nên tồi tệ không kiểm soát nổi.

Dẫu vậy, Cha Mike có vẻ không để tâm đến chuyện coi thường này. Ông đứng cười, đôi mắt dịu dàng trên chòm râu xồm xoàm như thác nước đang gào thét. Vốn lành tính, Cha Mike rất được lòng đám bà góa đi lễ. Họ ưa túm tụm quanh ông, mời ông ăn bánh và tắm mình trong bản chất phước lành của ông. Một phần của bản chất này sinh ra từ lòng mãn nguyện tuyệt đối của Cha Mike dù ông chỉ cao có một mét sáu ba. Vẻ ngoài thấp bé có sự hào phóng riêng của nó, như thể ông san sẻ bớt chiều cao của mình cho người khác. Dường như ông đã tha thứ cho Tessie cái tội hủy hôn với ông nhiều năm trước, nhưng trong không khí giữa hai người vẫn luôn tồn tại cái gì đó, như cái thứ phấn rôm thỉnh thoảng bay ra từ cổ áo linh mục.

Mỉm cười, cẩn thận cầm tách cà phê với đĩa, Cha Mike hỏi, “Tessie, cả nhà khỏe không em?”

Dĩ nhiên bà biết, vốn là vị khách tuần nào cũng đến nhà tôi vào Chủ nhật, Cha Mike đã được nghe trọn vẹn kế hoạch canh trứng nhờ đo nhiệt độ. Dòm vào mắt ông, bà nghĩ mình dò ra vẻ khoái chí.

“Kiểu gì hôm nay anh lại chả ghé qua nhà em,” bà nói vẻ vô tư. “Được xem tận mắt nhé.”

“Anh mong đến chơi lắm,” Cha Mike nói. “Nhà em lúc nào cũng có chuyện xôm hết.”

Tessie lại nhìn vào mắt Cha Mike nhưng nó dường như tràn ngập vẻ ấm áp chân thành. Rồi có chuyện xảy ra khiến bà tuyệt nhiên không để tâm gì tới Cha Mike nữa.

Phía bên kia phòng, Chương Mười Một trèo lên ghế để với lấy vòi bình cà phê. Anh cố rót một tách, ngặt nỗi mở được vòi rồi mà không đóng lại được. Cà phê nóng bỏng tung tóe khắp bàn. Cái thứ nước nóng rẫy ấy bắn lên người một con bé đứng ngay cạnh đấy. Con bé nhảy bật ra sau. Mồm nó há hốc, nhưng không thốt ra tiếng nào cả.

Bà bô tôi lao vụt qua phòng lật đật đưa con bé vào phòng vệ sinh nữ.

Không ai nhớ tên con bé đó. Nó chả phải con cái nhà nào hay đi lễ thường xuyên. Nó còn chả phải dân Hy Lạp. Nó xuất hiện ở nhà thờ đúng vào ngày hôm đó rồi không bao giờ quay lại, và dường như chỉ tồn tại cho một mục đích duy nhất là làm bà bô tôi đổi ý. Trong phòng vệ sinh, con bé cởi ngay cái áo đang bốc hơi ra còn Tessie thì mang khăn ướt tới.

“Con có sao không cưng? Có bị bỏng không?”

“Thằng đó vụng về thế không biết,” con bé nói.

“Ừ. Chuyện gì nó cũng dính vào.”

“Bọn con trai thật bất trị.”

Tessie mỉm cười. “Vốn từ của con cũng ghê nhỉ.”

Nghe lời khen này con bé cười toét miệng. “‘Bất trị’ là từ yêu thích của con. Anh trai con rất bất trị. Tháng trước con mê từ ‘lằng nhằng’. Nhưng ta không dùng được từ ‘lằng nhằng’ trong nhiều trường hợp. Nghĩ cho kỹ thì nhiều thứ không thể nào dùng từ ‘lằng nhằng’ được.”

“Con nói đúng,” Tessie vừa cười vừa nói. “Nhưng bất trị thì dùng đâu cũng được cả.”

“Cô nói quá chuẩn luôn,” con bé nói.

Hai tuần sau. Chủ nhật lễ Phục sinh năm 1959. Việc trung thành bám trụ vào lịch Julius15 một lần nữa lại khiến nhà tôi lạc nhịp với toàn bộ khu dân cư chung quanh. Chủ nhật hai tuần trước, anh tôi ngó bọn trẻ con hàng xóm đi săn trứng đủ màu trong bụi cây. Anh nhìn bạn bè ăn đầu thỏ bằng sô cô la và nốc cả vốc kẹo dẻo vào cái mồm tuyền răng sâu. (Đứng dòm từ cửa sổ, ông anh trai không muốn gì hơn là được tin một vị Chúa người Mỹ sống lại đúng ngày.) Đến tận hôm qua Chương Mười Một mới được phép nhuộm trứng, mà rồi chỉ được mỗi một màu đỏ16. Khắp nhà trứng đỏ ánh lên dưới những tia nắng dài ngày hạ chí. Trứng đỏ đầy ụp trong đống bát trên bàn ăn. Chúng treo trong túi nhỏ trên những khung cửa. Chúng nằm khắp bệ lò sưởi và được nướng thành ổ bánh mì tsoureki hình thánh giá.

Nhưng lúc này là chiều muộn; cả nhà đã ăn tối xong. Còn ông anh tôi thì đang cười mỉm. Bởi vì bây giờ tới phần trong lễ Phục sinh của Hy Lạp mà anh mê hơn trò săn trứng với kẹo dẻo: chơi chọi trứng. Cả nhà quây quần ở bàn ăn. Cắn môi, Chương Mười Một chọn một quả trứng trong bát, săm soi rồi bỏ lại. Anh chọn quả khác. “Quả này trông được đây,” Milton vừa nói vừa chọn trứng. “Cứng như đá nhé.” Milton giơ quả của mình lên. Chương Mười Một lăm le tấn công. Đúng lúc đó bà bô bỗng vỗ lên lưng ông bô. “Đợi tí nào Tessie. Bố con anh đang chọi trứng mà.” Bà đập vào lưng ông mạnh hơn.

“Sao thế?”

“Nhiệt độ cơ thể em.” Bà ngập ngừng. “Tăng sáu phần mười rồi.”

Bà dùng cái cặp nhiệt độ đã được ít lâu. Đây là lần đầu tiên ông bô tôi nghe chuyện này.

“Bây giờ á?” ông thì thầm. “Chúa ơi, Tessie, em chắc chứ?”

“Em chả biết. Anh bảo em canh khi nào nhiệt độ tăng lên nên em đang bảo với anh là tăng lên sáu phần mười độ rồi.” Đoạn hạ thấp giọng, “Với cả đã mười ba ngày kể từ lần cuối cái mà anh biết là cái gì rồi đấy.”

“Nào bố,” Chương Mười Một nài nỉ.

“Tạm dừng,” Milton bảo. Ông bỏ trứng vào gạt tàn. “Trứng của tôi đấy nhé. Không ai được đụng vào cho tới khi tôi quay lại đâu đấy.”

Trên lầu, tại phòng ngủ chính, ông bà bô hoàn thành nhiệm vụ.

Sự ngượng nghịu tự nhiên của một đứa trẻ ngăn tôi không tưởng tượng chi tiết cảnh đó. Chỉ có thế này: sau khi xong xuôi, như thể chốt hạ, ông bô nói, “Thế chắc là ổn.” Hóa ra ông đúng thật. Đến tháng Năm, Tessie phát hiện mình có thai, thế là quá trình chờ đợi bắt đầu.

Sáu tuần tuổi tôi có mắt với tai. Được bảy tuần tuổi thì có mũi, cả môi nữa. Cơ quan sinh dục ngoài bắt đầu hình thành. Hoóc môn bào thai, nhận tín hiệu từ nhiễm sắc thể, ức chế các ống Müllerian, kích thích các ống Wolffian. Khi papou17đặt tay lên bụng bà bô bảo, “Đứa thứ hai may mắn nhé!” thì hai mươi ba cặp nhiễm sắc thể tiếp hợp rồi trao đổi đoạn, quay tít cái cò quay roulette. Sắp xếp theo đoàn, gen của tôi thực thi mệnh lệnh nhận được. Tất cả trừ hai đứa – một cặp vô lại – hay là nhà cách mạng, tùy quan điểm của bạn – lỉnh đi trên nhiễm sắc thể số 5. Cùng nhau, chúng rút mất một enzyme, tức là làm một loại hoóc môn bị ngừng sản xuất, tức làm đời tôi trở nên rắc rối.

Trong phòng khách, cánh đàn ông đã thôi bàn chuyện chính trị mà chuyển sang cá độ xem đứa con sắp ra đời của Milt là giai hay gái. Ông bô tôi rất tự tin. Hai mươi tư tiếng sau hành động đó, nhiệt độ cơ thể bà bô tăng lên thêm hai phần mười nữa, chứng tỏ trứng sắp rụng. Đến lúc đó tinh trùng giai đã mệt bở hơi tai phải bỏ cuộc. Tinh trùng gái, như bọn rùa, thắng cuộc đua. (Tại thời điểm đó Tessie đưa cho Milton cái cặp nhiệt độ và bảo bà không bao giờ muốn nhìn thấy nó nữa.)

Tất cả những chuyện này dẫn tới cái ngày Desdemona đung đưa cái thìa trên bụng bà bô tôi. Hồi đó thì làm gì đã có siêu âm; bói thìa là ngon nhất rồi. Desdemona khom người. Căn bếp im phăng phắc. Các chị em cắn môi dưới, nhìn, đợi. Phút đầu tiên, cái thìa không hề nhúc nhích. Tay Desdemona run rẩy và sau vài giây dài dằng dặc, bà Lina giữ nó đứng yên. Cái thìa xoay xoay; tôi đạp đánh phốc; bà bô rú lên. Rồi, đủng đỉnh, bị một cơn gió không ai cảm thấy đẩy đi, theo cái kiểu cầu cơ siêu nhiên bí hiểm, cái thìa bạc bắt đầu di chuyển, đánh mình, thoạt tiên là một vòng tròn nhỏ nhưng quỹ đạo dần dần thành hình ê líp cho đến khi đường đi ẹp lại thành một đường thẳng tắp từ cái lò đến ghế dài. Nói cách khác là từ Bắc tới Nam. Desdemona kêu lên, “Koros18!” Thế là những tiếng hét “Koros, koros” rộ lên khắp phòng.

Đêm hôm đó, ông bô bảo, “Hai mươi ba lần đúng liên tục rồi thì ắt hẳn lần tiếp theo trật lất. Lần này mẹ sai đứt rồi. Tin anh đi.”

“Nhỡ là con trai em cũng chả buồn đâu,” bà bô đáp. “Thực lòng ấy. Miễn nó khỏe mạnh, đầy đủ chân tay.”

“‘Nó’ nó cái gì. Em đang nói về con gái anh đấy.”

Một tuần sau năm mới tôi ra đời, vào ngày 8 tháng Giêng, năm 1960. Trong phòng đợi, chỉ có độc những điếu xì gà cột nơ hồng19, ông bô tôi hét lên, “Quá chuẩn!” Tôi là con gái. Dài nửa mét. Nặng ba cân ba.

Cũng đúng vào ngày 8 tháng Giêng năm đó, ông nội bị đột quỵ lần đầu tiên trong chuỗi mười ba cú. Bố mẹ tôi khi hối hả lao vào viện đã làm ông tỉnh giấc, vì thế ông ra khỏi giường xuống lầu pha cà phê. Một tiếng sau, Desdemona phát hiện ông nằm trên sàn bếp. Mặc dù các chức năng thần kinh không hề bị ảnh hưởng, sáng hôm đó, khi tôi cất tiếng khóc chào đời ở bệnh viện Phụ Nữ, papou của tôi không còn nói được nữa. Theo như Desdemona, ông nội ngất quỵ ngay sau khi lật úp tách cà phê để đọc vận may qua bã.

Khi biết tin tôi là trai hay gái, chú Pete không chịu nhận bất kỳ lời chúc mừng nào. Không có phép lạ gì ở đây cả. “Với cả,” chú đùa, “Milt làm từ a tới z cơ mà.” Desdemona trở nên nghiêm nghị.

Đứa con trai sinh ra ở Mỹ của bà đã đúng, và với cú thất bại mới toanh này, cố hương, mà bà vẫn nỗ lực sống ở đó mặc cho cách xa bốn ngàn dặm và ba mươi tám năm trời, lùi thêm một nấc nữa. Tôi chào đời đánh dấu kết thúc màn đoán giới tính trẻ con của bà và khởi đầu cho quá trình tụt dốc dài dặc của chồng bà. Mặc dầu thỉnh thoảng cái hộp tằm có tái xuất, nhưng cái thìa bạc không còn là bảo vật được nằm trong hộp nữa.

Tôi được lôi ra, đét đít, và xịt nước tắm rửa, đúng theo trật tự đó. Họ bọc tôi trong chăn rồi đặt nằm giữa sáu bé sơ sinh khác, bốn trai, hai gái, tất cả bọn nó, không giống tôi, đều được đeo thẻ ghi chính xác. Chuyện này nghe thì phi thực nhưng tôi nhớ rất rõ: những đốm sáng chầm chậm tràn vào làm bừng sáng màn tối.

Ai đó đã mở mắt tôi ra.


Chú thích:

  1. Lưỡng giới tính Giả là những người có tuyến sinh dục và nhiễm sắc thể là nữ tính, nhưng cơ quan sinh dục và các đặc trưng giới tính lại là nam giới (lưỡng giới tính giả nam); hoặc tuyến sinh dục và nhiễm sắc thể là nam tính, nhưng cơ quan sinh dục và các đặc trưng giới tính lại là nữ giới (lưỡng giới tính giả nữ). (Các chú thích trong bản dịch là của dịch giả.)
  2. Nhà tiên tri mù của thành Thebes trong thần thoại Hy Lạp, vốn là đàn ông, sau bị biến thành phụ nữ trong bảy năm, rồi sau đó trở lại làm đàn ông.
  3. Một tổ chức từ thiện của Mỹ với sứ mạng là cải thiện sức khỏe cho trẻ em bằng cách ngăn ngừa khuyết tật bẩm sinh, sinh non, tử vong ở trẻ sơ sinh.
  4. Trong bản gốc, tác giả cho nhân vật Desdemona, vốn gốc Hy Lạp, nói thứ tiếng Anh không đúng chuẩn nên sang tiếng Việt người dịch cho nhân vật nói ngọng “l” thành “n”, và nói nhầm dấu hỏi thành dấu ngã. Những chỗ như vậy trong hội thoại sẽ được in nghiêng.
  5. Tiếng Hy Lạp: bà.
  6. Tiếng Hy Lạp: của tôi.
  7. Chế biến từ cây cần sa, thường hút bằng ống shisha, gây cảm giác phê thuốc và có thể gây nghiện.
  8. Tiếng Hy Lạp: búp bê.
  9. Sử gia nổi tiếng người Anh (1737-1794), đồng thời là Nghị sĩ của Nghị viện Anh, với tác phẩm xuất sắc nhất là The History of the Decline and Fall of the Roman Empire (tạm dịch: Lịch sử Suy tàn và Sụp đổ của đế quốc La Mã).
  10. Nữ sĩ văn chương xuất sắc người Pháp (1766-1817), có ảnh hưởng lớn lên Chủ nghĩa Lãng mạn châu Âu, là người chống lại Napoleon một cách gay gắt nên bị lưu đày không được phép sống ở Paris. Bà du hành Đức nhiều lần, và đất nước này là nguồn tư liệu cho tác phẩm nổi tiếng của bà, Germany (Nước Đức), nơi bà bình luận các khía cạnh khác nhau trong đời sống, con người, văn chương của nước Đức.
  11. Những người chịu trách nhiệm sửa sang, khâu vá ở khâu cuối cùng trong việc may quần áo lông thú như sửa lớp lông, chọn và khâu lớp lót, cúc, móc…
  12. Tượng Le Penseur của nhà điêu khắc nổi tiếng người Pháp Auguste Rodin khắc họa một người đàn ông ngồi chống cằm suy tư.
  13. Chính thống giáo Hy Lạp là giáo hội thuộc Chính thống giáo Đông phương – nhánh Kitô giáo lớn thứ hai sau Giáo hội Công giáo Rôma, với giám mục bậc cao nhất được gọi là Thượng phụ.
  14. Lễ diễu hành hằng năm ở thành phố New York, được coi là lớn nhất thế giới, với những con thú bóng khổng lồ từ các bộ phim hoạt hình.
  15. Tín đồ Chính thống giáo theo lịch Julius (do Julius Caesar đặt ra trước Công nguyên) nên ngày Phục sinh khác với tín đồ Công giáo theo lịch Gregorius hay còn gọi là lịch Tây.
  16. Có rất nhiều lý giải cho nguồn gốc tập tục này của Chính thống giáo: màu đỏ là màu máu trên thánh giá mà Chúa Jesus bị đóng đinh để cứu chuộc loài người, hoặc trứng đỏ tượng trưng cho ngôi mộ đá trống rỗng mà Chúa phục sinh, hoặc từ câu chuyện Mary Magdalene là người đầu tiên phát hiện ra Chúa Jesus phục sinh trong mồ đã đi đến báo cho hoàng đế La Mã, ông này không chịu tin và bảo chỉ tin nếu trứng trong rổ bên cạnh biến thành màu đỏ, và ngay lập tức trứng chuyển sang màu đỏ.
  17. Tiếng Hy Lạp: ông.
  18. Tiếng Hy Lạp: con trai.
  19. Xì gà cột nơ hồng, báo hiệu sinh con gái (theo phong tục một số nước phương Tây).

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng