Book trailer

Phố Cannery Row: Lại một lần nữa John Steinbeck nói về cái bần cùng và phẩm giá trầm lặng

“Phố Cannery Row” là áng văn dí dỏm, giản dị và chất chứa hoài niệm của John Steinbeck, tiểu thuyết gia người Mỹ đạt giải Nobel Văn chương năm 1962.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Ra đời cách đây hơn bảy thập kỷ, Phố Cannery Row vẫn luôn là một trong những tác phẩm của nhà văn được yêu mến nhất với nhiều thông điệp đậm màu sắc nhân bản về muôn mảnh đời trầm lặng bên rìa xã hội.

John Steinbeck sinh ra tại miền quê Salinas thuộc tiểu bang California năm 1902. Ngay từ khi lên mười bốn tuổi, cậu bé Steinbeck chuyên nhốt mình trong phòng riêng để sáng tác truyện và thơ đã quyết tâm trở thành một nhà văn. Chặng đường đi đến đỉnh cao văn nghiệp của Steinbeck – cụ thể hóa bằng giải thưởng Pulitzer Prize năm 1940 và Nobel văn chương năm 1962 –  tuy thế lại không hề bằng phẳng. Thuở thanh niên hoài bão, ông tới New York để sống bằng nghề viết văn và làm báo, nhưng thất bại và lại trở về California. Sau một thời gian làm đủ loại việc như hái trái cây, phu hồ, thợ sơn, thợ vẽ, thợ đo đạc… ông và vợ về sống nơi căn nhà tranh của cha ông tại Pacific Grove trong hạt Monterey. Nhưng khủng hoảng kinh tế khiến ông lại thất bại và phải sống nhờ trợ cấp xã hội. Mãi đến năm 33 tuổi Steinbeck mới bắt đầu nổi tiếng nhờ cuốn Tortilla Flat (1935), và đó cũng là mở đầu cho một loạt tác phẩm ông đã đưa thành kinh điển như Của chuột và người (1937), Chùm nho phẫn nộ (1939), The Pearl (1947) hay Phía đông vườn địa đàng (1952). Chạm tuổi lục tuần, nhà văn chân quê miền nam nước Mỹ đã được vinh danh với giải Nobel Văn chương nhờ “những tác phẩm đầy sáng tạo và đậm tính hiện thực, vừa hài hước nhân văn vừa thể hiện nhận thức xã hội nhạy bén.”

Giống như phần lớn nội dung những câu chuyện mà John Steinbeck thường khắc họa: đời sống của giới thợ thuyền, người thất nghiệp và bị phá sản, nông dân và công nhân nông nghiệp di trú theo mùa màng, những kẻ bị loại ra ngoài dòng chảy cuộc đời; Phố Cannery Row cũng xoay quanh đủ mọi hạng người sống dưới đáy xã hội quanh dãy phố chuyên đóng hộp cá mòi vùng ven Monterey, California. Điều đặc biệt của tiểu thuyết này là nó gần như không có cốt truyện mà tập hợp nhiều mẩu truyện ngắn liên kết, như một con sông quanh co tỏa ra nhiều nhánh, mang theo những sắc màu rực rỡ chính là con người muôn màu muôn vẻ của mảnh đất này. Đó là Lee Chong, ông Tàu già chủ tiệm tạp hóa, “kẻ cứng rắn vì một lon đậu – kẻ dịu dàng với xương cốt của ông nội mình”; đó là Dora Flood, quý bà vĩ đại chủ nhà thổ Nhà hàng Cờ Gấu; đó là Doc, nhà hải sinh học rộng lượng và minh triết, sống và làm việc ở Phòng thí nghiệm Sinh Vật Miền Tây; đó là Mack và đám choai choai, bọn “vô tích sự, kẻ cắp, vô lại” nhưng đồng thời cũng là“Đức hạnh, Ân sủng, Phong nhã” của Monterey… Bối cảnh của Phố Cannery Row lẫn tuyến nhân vật kỳ khôi này chẳng đâu xa lạ mà đều được John Steinbeck “bê nguyên xi” từ phố đóng hộp cá mòi Ocean View Avenue ngoài đời thực. Nhà sử học Michael Hemp đã khẳng định Phố Cannery Row gần như không còn là một tiểu thuyết hư cấu: “Chẳng thiếu kẻ lạ đời sống ở phố này để viết về họ, John chỉ việc quan sát xung quanh mình là đã thu về hàng đống tư liệu rồi.” Sau thành công vang dội của Phố Cannery Row, phố Ocean View Avenue nhanh chóng biến thành khu thương mai nhộn nhịp và chính thức được đổi tên thành Cannery Row vào năm 1953 để tri ân tác phẩm.

Một điểm đáng chú ý nữa về Phố Cannery Row là toàn bộ thì, thời trong câu chuyện đều được để ở quá khứ. Tuy ra đời năm 1945, ngay sau Thế chiến thứ hai, nhưng mọi sự kiện của tiểu thuyết đều nằm vào thời kỳ Đại khủng hoảng thập niên 30. Đây đó ta thấy dấu chân của lịch sử chà đạp lên số phận hẩm hiu của người dân vùng Monterey. Horace William nợ đầm đìa và cuối cùng phải bán nốt tấc đất cắm dùi rồi tự sát. Ông bà Malloy mất nhà và phải chuyển vào sống trong nồi súp de hỏng bỏ không. Mack và đám choai choai thực chất là đám lông bông thất nghiệp, có xin được việc cũng chỉ giữ không quá một tháng… Tuy Steinbeck chủ ý không đi sâu chi tiết mà chỉ gần như “sượt nhẹ qua” hoàn cảnh cơ hàn của từng nhân vật, người đọc có lẽ vẫn không nén được tiếng thở dài thương tâm trước bức tranh toàn cảnh vô cùng chua chát giữa giai đoạn suy thoái trầm trọng này.

Phố Cannery Row, như John Steinbeck tự nhận, vốn được sáng tác cho những người lính từng nói với ông: “Hãy viết thứ gì vui nhộn đừng về chủ đề chiến tranh. Hãy viết thứ gì cho chúng tôi đọc – chúng tôi phát ngấy chiến tranh rồi.” Có thể bạn đọc sẽ tự hỏi, vì sao đối với một tiểu thuyết “vui nhộn”, John Steinbeck lại chọn bối cảnh là những năm tháng tăm tối nhất của lịch sử kinh tế nước Mỹ? Nhưng chỉ cần đọc một vài chương đầu thôi là bạn sẽ nhận ra dụng ý và tài năng của Steinbeck: Ông bà Malloy phải sống trong nồi súp de nhưng “họ nhét tấm nệm qua cửa đốt lò và ổn định cuộc sống”, một nơi họ tự thấy là rộng rãi, khô ráo, an toàn và không nơi nào ấm hơn. Mack và đám choai choai để tìm cách mở tiệc sinh nhật cho Doc đã quyết tâm sửa xe ô tô hỏng, vượt đồi dốc, xoay xở với một điền chủ hung hăng để bắt mấy trăm con ếch nhằm kiếm chút tiền mua đồ trang trí và đồ ăn cho bữa tiệc… Đọc Phố Cannery Row, có cảm tưởng cái bần cùng dường như chưa bao giờ thắng thế được phẩm giá trầm lặng của những con người nơi đây. Nơi ấy tiếng cười bay cao trên đói khát, nơi ấy tình người vượt thoát khỏi tồi tàn, mãi mãi niềm lạc quan ngự trị trong những tâm hồn cơ cực; vậy thì còn cái “vui nhộn” nào ý nghĩa và sâu sắc hơn như thế nữa?

Phố Cannery Row là một tiểu thuyết hơi hướm cổ điển, không ra vẻ thời thượng hay làm dáng độc đáo, không đao to búa lớn, không khua chiêng gõ trống mời gọi sự chú ý. Như Steinbeck tự nhận ở đầu cuốn sách – ông chỉ sáng tác bằng cách “mở trang giấy ra và để các câu chuyện tự nó bò vào” – có lẽ khi đọc tác phẩm này chúng ta cũng chỉ cần mở các câu chuyện ra, để chúng tự bò vào trái tim mình mà thôi.

Hết.

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng