Book trailer

Nhà Golden, áng dụ ngôn bi tráng về nước Mỹ thế kỷ 21

“Một câu chuyện vàng, vào thời La Mã chính là cách nói hoa mỹ để chỉ một câu chuyện phi lý, một hoang tưởng điên rồ, một điều gì đó rõ ràng không có thực. Một chuyện thần tiên. Một sự dối trá.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Ngày 20 tháng Một năm 2009, Barack Obama tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thứ 44 và cùng ngày hôm đó một lão gia tỉ phú người Bombay cùng ba cậu con trai đặt chân đến khu Gardens tại Manhattan và tiếp quản dinh thự đẹp nhất khu phố này. Nero Golden, ngự trong ngôi nhà vàng, viết nên câu chuyện vàng, và triều đại vàng của y, như được loan báo trong đoạn văn đầu tiên của tiểu thuyết này, đã kết thúc theo đúng như số phận của tên bạo chúa mà y lấy tên – một kết cục mang màu tận thế: cháy.

Đó là nội dung chính của Nhà Golden, tiểu thuyết thứ mười ba của Salman Rushdie. Sau thành công vang dội với loạt tác phẩm mang hơi hướng kỳ ảo, Nhà Golden là cuộc tái hồi chủ nghĩa hiện thực đầy ngạo nghễ của nhà văn lừng lẫy người Anh gốc Ấn. Xoay quanh những mốc sự kiện lịch sử có thật như cuộc tấn công khủng bố khách sạn Taj Mahal Palace năm 2008, vụ đánh bom liên hoàn tại Bombay năm 1993, cuộc lên ngôi của Barack Obama và Donald Trump tám năm sau đó (thực chất đây là một dự đoán của Rushdie bởi tiểu thuyết đã hoàn thành trước khi Trump đắc cử), Rushdie đã khắc họa một thiên truyện mang hơi thở nóng rẫy của thời đại trên nền bối cảnh náo động an ninh và tao loạn chính trị, vẽ nên một áng dụ ngôn bi tráng về nước Mỹ thế kỷ 21 trong hình hài cuộc suy vong của một gia đình nhập cư giàu có. Nhà Golden ngay khi mới ra mắt đã chễm chệ ngôi đầu bảng xếp hạng New York Best-sellers, được báo Times of India bình chọn là một trong 15 tiểu thuyết xuất sắc nhất của năm 2017 và đã và đang gây bão trong giới mộ điệu văn chương toàn thế giới.

Tìm hiểu về thân thế Salman Rushdie gần như là một điều bắt buộc trước khi ta tiếp cận bất kỳ một tác phẩm nào của ông. Là tiểu thuyết gia từng vô số lần được đề cử Nobel Văn chương, đáng chú ý khi 30 năm trước ông lại là đối tượng bị truy đuổi ám sát số một của dân Hồi giáo toàn thế giới và là nhân tố cốt yếu làm rạn nứt quan hệ của hai nước Anh – Iran. Sau khi tiểu thuyết thứ tư, The Satanic Verses (Tạm dịch Những vần thơ của Quỷ Satan) xuất bản năm 1988, Rushdie đã làm dấy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong thế giới Hồi giáo vì bị coi là báng bổ đạo Hồi. Giáo chủ Iran Khomeini đã ra bản án tử hình “fatwa” đối với Rushdie và kêu gọi toàn bộ dân Hồi giáo cùng nhau bắt tay để thực hiện bản án này. Ngay giữa diễn biến sôi sục, ngày 25.06.2007, Salman Rushdie lại được Nữ hoàng Anh trao tước hiệu hiệp sĩ nhằm công nhận những đóng góp vĩ đại của ông cho văn học. Hành động này của chính phủ và Hoàng gia Anh chẳng khác gì đổ thêm dầu vào mối quan hệ nảy lửa khi đó giữa Anh và Iran. Nhiều quốc gia Hồi giáo khác cho rằng, việc tôn vinh Rushdie của Anh xứng đáng được đáp trả bằng những vụ đánh bom liều chết. Lệnh truy sát của Giáo chủ Iran phải mười năm sau mới được bãi bỏ và tình hình may mắn thay cũng theo đó mà lắng dịu.      

Phác họa đôi điều về cuộc đời Rushdie để phần nào hiểu ông là con người như thế nào và văn chương của ông hướng đến điều gì. Rushdie từng tuyên bố: “Khái niệm ‘tôn kính tôn giáo’ đã trở nên mang nghĩa ‘sợ tôn giáo’. Tôn giáo, cũng như mọi ý tưởng khác, xứng đáng với những phê bình, chỉ trích, và sự bất kính không phải sợ hãi của chúng ta.” Phát ngôn thẳng thắn này cũng thể hiện đúng tiếng nói của ông trong văn chương. Với Nhà Golden nói riêng, Salman Rushdie một lần nữa cho thấy bộ mặt không nể nang với những công kích táo bạo, những sóng từ dồn dập, những phát ngôn đanh thép, kết hợp với thứ tiếng Anh khẩn trương và nóng rẫy có khả năng gây rúng động tâm tưởng ở tầng sâu nhất. Ông phóng lao vào thói chính trị xu thời, chủ nghĩa dân tộc, giấc mơ Mỹ, ý tưởng bí mật nhân thân, thậm chí cả vị tân tổng thống Hoa Kỳ. “Gã vua hề tóc xanh môi đỏ cười hềnh hệch trong truyện tranh” The Joker, một miêu tả dễ đoán của Rushdie trong Nhà Golden đã làm dấy lên sự phản đối mạnh mẽ của công chúng ủng hộ Donald Trump. Tuy nhiên trước những lo ngại, Rushdie kiêu ngạo tuyên bố: Tôi đã từng làm phật ý người ta trước đây rồi, đến mức bị lùng giết, bây giờ còn sợ gì nữa (!).

Một điểm đặc trưng nữa trong các tác phẩm của Rushdie là sự chen chúc ý tưởng: dường như khao khát thường trực của ông là đưa nhiều nhất có thể vào câu chữ. Cụ thể Nhà Golden, như một nỗ lực nhằm tái hiện chính nước Mỹ, đã được chủ ý xây dựng đầy hỗn mang – một cái chén nung, một bát salad, một bức tranh mosaic. Từng trang từng trang tác giả dội bom hằng hà sa số những tiểu tiết về đời sống New York, vô vàn dẫn chiếu đến pop culture, dày đặc kiến thức về xu hướng tính dục, không đếm xuể những bình luận sắc sảo về chính trị-xã hội… Nếu rơi vào tay một kẻ tay mơ thì điều này chẳng sớm thì muộn sẽ gây ức chế; may mắn thay nó đã được chỉ huy bởi một bậc thầy ngôn ngữ đang ở đỉnh cao phong độ. Xuyên suốt hơn 500 trang sách là một trải nghiệm quá “đã”, quá “sướng”, một cuộc phiêu lưu hối hả ngây ngất máu chảy tê rần giữa cơn lốc chữ. Báo Boston Globe đã dành lời ngợi khen thích đáng cho tác phẩm này: “Nhà Golden dễ nhận ra là một đặc sản của Rushdie với sự nô giỡn của ngôn từ, cuộc đấu thương của câu chữ, sự hiên ngang trơ tráo, sự uyên thâm không cần biện giải, sự tinh tuý chói ngời.”

Nhà Golden có tất cả những gì chúng ta khao khát trong một tiểu thuyết đương đại: dối trá, cám dỗ, lừa lọc, mất mát; nhưng cũng là: hi vọng, niềm tin, tình người, công lý. Với một cốt truyện gay cấn đầy hấp dẫn và khả năng xây dựng nhân vật bậc thầy, cuốn tiểu thuyết là một nỗ lực phi thường nhằm đi sâu khám phá con người và đem đến bức tranh chân thực nhất về cuộc khủng hoảng căn tính thế kỷ 21. Nếu bạn chưa từng đọc Salman Rushdie hay băn khoăn trước những tiểu thuyết kỳ ảo trước đó của ông, Nhà Golden sẽ là một tựa sách hoàn hảo để bắt đầu.

Hết.  

Vĩnh Ngân

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng