Book trailer

Chỉ ngu ngơ mới biết cười: Lời châm biếm xã hội thượng lưu từ kiều nữ nước Mỹ Edith Wharton

“Đó là một số phận đáng căm hận – nhưng làm sao để thoát khỏi nó? Cô có lựa chọn nào chăng?”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

“Tâm kẻ khôn ngoan ở chốn phiền muộn,
tâm kẻ ngu ngơ ở chốn nô cười.”

– Ecclesiastes 7:4

Câu trích này trong Kinh Cựu Ước chính là nguồn gốc cho tiêu đề tiểu thuyết thứ tư Chỉ ngu ngơ mới biết cười (The House of Mirth, 1905) của Edith Wharton – một trong những nữ tiểu thuyết gia quan trọng nhất đầu thế kỷ 20. Bằng con mắt quan sát nhạy bén và bề dày am hiểu xã hội, nữ nhà văn một lần nữa đã để lại ấn tượng khó phai mờ với bức tranh toàn cảnh về “chốn nô cười” tức giới thượng lưu xứ cờ hoa, đang chuyển mình ở ngã rẽ thế kỷ nơi đời sống vật chất hưởng lạc dần biến mỗi cá nhân thành những món hàng phi nhân tính.

Edith Wharton là người phụ nữ đầu tiên vinh dự nhận giải Pulitzer cho Văn học năm 1921. Bàn về sức ảnh hưởng của Wharton, nhà phê bình nghệ thuật John Updike từng nói: “Nếu có một nữ tác gia người Mỹ nào của thế kỷ 20 được đánh giá cao hơn Edith Wharton thì trong đầu tôi không còn nảy ra một cái tên nào khác.” Sinh ra và lớn lên trong một gia đình New York giàu có, giữa những tập tục khuôn cứng mà bà thường phản kháng, có thể nói Edith Wharton là một trường hợp đặc biệt tuy nằm trong lòng xã hội thượng lưu nhưng sở hữu tầm nhìn sắc sảo của người đứng từ trên cao nhìn xuống. Hơn 40 tác phẩm lớn nhỏ trong 40 năm hành văn của bà là tiếng nói phê phán chính môi trường bà đang sống, là vũ khí tấn công xã hội hào nhoáng nhưng ô trọc, nơi đạo đức băng hoại, nhân bản lung lay. Trong đó, tiểu thuyết Chỉ ngu ngơ mới biết cười ra đời năm 1905 được đánh giá là một trong những tác phẩm châm biếm xã hội xuất sắc nhất và nổi tiếng nhất của Edith Wharton.

Tác phẩm lần đầu tiên ra mắt công chúng trong hình thức ấn bản nhiều kỳ trên tạp chí Scribner’s Magazine và đã bán được 140,000 bản trong năm đầu tiên phát hành. Chỉ ngu ngơ mới biết cười đã củng cố một vị trí vững chắc cho Edith Wharton trên văn đàn, mở đường cho những tiểu thuyết sau này của bà bao gồm cả tác phẩm The Age of Innocence (Thời thơ ngây) giúp mang về cho bà giải Pulitzer cho Văn học năm 1921. Chỉ ngu ngơ mới biết cười cũng là tác phẩm tiên phong cho dòng sách “tiểu thuyết tập tục” (Novel of Manners), trong đó người viết cố gắng tái hiện một hệ thống xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định với những phong tục, tập quán, giá trị, quan niệm được miêu tả cặn kẽ, thường là thuộc về giai tầng đặc quyền đặc lợi. Qua các tác phẩm xuất sắc của mình và đặc biệt là Chỉ ngu ngơ mới biết cười, Edith Wharton đã sánh ngang với những tên tuổi lớn như Jane Austen, Henry James, Evenlyn Waugh trong việc đặt nền móng cho thể loại nói trên. Tiểu thuyết này cũng trở thành nguồn cảm hứng dồi dào cho môn nghệ thuật thứ bảy với ba lần được chuyển thể thành phim, hai lần vào năm 1918 và một lần năm 2000. Trong đó phiên bản điện ảnh sau này đã chiếm được đông đảo cảm tình từ phía công chúng và thậm chí thu về nhiều giải thưởng cùng đề cử danh giá với sự xuất hiện của kiều nữ Gillian Anderson – ngôi sao của loạt phim truyền hình đình đám Hồ sơ tuyệt mật (The X-Files) – trong vai nữ chính Lily Bart.

Lily Bart của Chỉ ngu ngơ mới biết cười  là nhân vật thường xuyên xuất hiện trong danh sách những nữ chính tiểu thuyết có sức ảnh hưởng nhất trong lịch sử văn chương hiện đại. Là con nhà trâm anh thế phiệt nhưng sớm táng gia bại sản, Lily Bart mất cả cha mẹ lẫn mọi vinh hoa phú quý đã vây bọc cuộc sống của cô từ rất sớm. Dưới sự cưu mang của người bác, cùng “một túi tiền eo hẹp đến khó tin”, Lily Bart nuôi quyết tâm phải sống một cuộc sống sung sướng an nhàn và cách duy nhất cô tin mình có thể đạt được điều đó là cưới một vị hôn phu giàu có để củng cố vị trí trong giới thượng lưu. Tuy nhiên, cuốn theo những sòng bài, những vũ hội thâu đêm suốt sáng, cô trở nên túng thiếu và chính từ khoảnh khắc Lily Bart vướng vào mối quan hệ làm ăn mờ ám với chồng của người bạn thân mà cô bắt đầu trượt dốc không phanh, va đập vào từng thanh chắn trên đường lăn xuống khỏi nấc thang xã hội. Edith Wharton đã miêu tả số phận bi thảm của nàng Lily Bart xinh đẹp với sự chính xác đầy chua chát, ban đầu bị “bạn thân” phản bội, rồi gia đình quay lưng, giới thượng lưu ghẻ lạnh… cứ thế cho đến khi cuối cùng cô rớt xuống tầng lớp lao động và chìm vào nghiện ngập, thậm chí may mắn lắm mới không sảy chân làm gái bán hoa. Mọi nỗ lực vươn dậy từ cú vấp ngã dường như chỉ càng làm viễn cảnh của cô trầm trọng hơn. Chuỗi những ứng viên cô có thể lấy làm chồng cũng dường như ngày càng thu hẹp lại đáng ghê tởm và thật bi kịch khi Lawrence Selden, người đàn ông duy nhất thực sự có thể cứu vớt cô khỏi số phận thê thảm này đã tới trễ một bước.

Ở Lily Bart ta thấy thấp thoáng bóng dáng của Becky Sharp trong Hội chợ phù hoa (Vanity Fair, 1848), Scarlett O’Hara trong Cuốn theo chiều gió (Gone With The Wind, 1939), những người phụ nữ cô đơn gần như không bạn bè, chỉ biết lợi dụng nhan sắc và sự khôn ngoan để chuyên tâm đeo đuổi mục đích duy nhất là sống một đời hưởng thụ. Ta cũng thấy cả hình ảnh của Anna Karenina (Anna Karenina, 1877), quý cô St. Petersburg yêu kiều mắc kẹt trong một cuộc hôn nhân tù túng và vướng vào mối quan hệ ngoài luồng cấm kỵ với Nam tước trẻ trung Vronsky. Giống như Lily Bart, Anna Karenina cũng bất lực trước guồng quay phi nhân tính của giới thượng lưu và cuối cùng đã chết chẹt dưới bánh xe tàu hỏa như để hoàn thiện cho ẩn dụ đó.

Từng có một nhà phê bình người Chicago phê phán Edith Wharton cùng tiểu thuyết Chỉ ngu ngơ mới biết cười rằng bà đã quá chìm đắm trong việc miêu tả “sự suy đồi của cái bị gọi sai lệch là ‘tầng lớp cao quý’ hay ‘giai cấp được ưu tiên.’” Thực chất thì xã hội mà Wharton khắc họa đúng là không có gì cao quý, dù nó ăn vận đủ thứ ngọc ngà châu báu xa xỉ: đó đúng là một xã hội nhỏ nhen, mờ ám, rỗng tuếch, và thậm chí thô kệch trong bản chất “tiền trao cháo múc”. Dưới vòm trời đó người phụ nữ được nuôi dạy với tư tưởng rằng cô ta suốt đời chỉ có chức năng làm vật trang trí và là công cụ tiến thân cho người chồng (nên là) giàu có của mình. “Đó là một số phận đáng căm hận – nhưng làm sao để thoát khỏi nó? Cô có lựa chọn nào chăng?” Lily Bart đã chua chát nhận xét như thế vào một đêm cô đánh bạc thua trắng. Là sản phẩm của nền văn minh sinh ra cô lẫn cha mẹ cô, Lily thiếu sót mọi kiến thức kinh tế xã hội thật chất lẫn những kỹ năng sinh tồn thiết yếu giúp cô tự nuôi sống bản thân. Làm sao có thể đổ lỗi cho Lily Bart khi cô không thể chống lại “những xu hướng được kế thừa kết hợp với những luyện tập từ sớm”, để rồi bị nhào nặn thành “một sinh vật bất lực khi ra ngoài phạm vi nhỏ hẹp của nó như loài hải quỳ bị đứt lìa ra khỏi đá. Cô được tạo tác để trang trí và làm người khác vui sướng; thiên nhiên làm tròn đầy lá hoa hồng và sơn màu cho ngực chim ruồi còn vì mục đích gì nữa?” Lily không tìm thấy niềm hạnh phúc nào trong con đường đã vạch sẵn cho cô, nhưng cô cũng không nhìn thấy một lối rẽ nào khác; cô không thể chạy thoát, không biết cách chạy thoát, không biết chạy thoát đi đâu. Lily Bart đơn giản chưa từng có được một cơ hội.

“Một xã hội phù phiếm chỉ có thể sở hữu tầm quan trọng mạnh mẽ thông qua những gì mà tính phù phiếm của nó hủy diệt,” khi viết như vậy Edith Wharton đã phát biểu ý nghĩa của toàn bộ sự nghiệp văn chương đời bà: từ trong lòng “chốn nô cười” bà nắm bắt được chính tầm quan trọng này và cống hiến gần như cả cuộc đời để khắc họa những con người phù phiếm bất hạnh ấy. Thông qua bức tranh thượng lưu mà nạn nhân chính là Lily Bart trong Chỉ ngu ngơ mới biết cười, Edith Wharton một lần nữa hoàn thành sứ mạng của mình: lên án một xã hội tôn thờ kim tiền và danh vọng, chỉ biết hủy hoại những thứ xinh đẹp và trinh bạch phía trong. Có lẽ chính vì thế mà tuy được sáng tác cách đây hơn một thế kỷ, tiểu thuyết vẫn vẹn nguyên những giá trị cốt lõi và tiếp tục cuốn hút bao thế hệ người đọc.

Hết.

Vĩnh Ngân

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng