Trích đăng

Chương 1&2 “Bông Hồng Cài Áo” – Thích Nhất Hạnh

“Bông hồng cài áo” là tên một đoản văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhà sư viết “Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên… Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ… Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Bông hồng cài áo

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 7.2019

Mẹ và Cha được danh tặng

“Bà La Môn,” “thầy cô sớm nhất”

và xứng đáng được tôn quý

vì hết lòng thương yêu

đám nhỏ trong gia đình.

Vì thế, người khôn ngoan

ca ngợi và vinh danh cha mẹ,

tặng đồ ăn thức uống

với quần áo chăn mùng

xức dầu và tắm gội

và rửa chân mẹ cha.

Khi người khôn ngoan

phục vụ cha mẹ như thế

thì chàng được ca ngợi

bây giờ và ở đây

và được lên cõi tịnh

sau giờ phút lâm chung.

Kinh Buddha, Itivuttaka 106

Bạn còn nhớ gì về những ngày nằm trong bụng mẹ không?

Chúng ta ai cũng từng nằm ở đó khoảng chín tháng. Một khoảng thời gian khá lâu. Tôi tin chắc ai trong chúng ta cũng có cơ hội mỉm cười trong khoảng thời gian ấy. Nhưng ta mỉm cười với ai?

Khi ta vui, tự nhiên ta sẽ có xu hướng mỉm cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ con, mỉm cười trong giấc ngủ.

Sau khi chào đời ta có những lúc không vừa ý, nên đa số chúng ta đều cảm thấy rằng thời gian trong bụng mẹ là một thời gian tuyệt vời. Ta khỏi phải lo lắng về thức ăn thức uống. Ta được che chở khỏi nóng và lạnh. Ta khỏi làm bài tập ở nhà và công việc bếp núc. Khi được bảo vệ trong bụng mẹ ta cảm thấy an toàn. Ta khỏi phải lo lắng gì cả. Và điều đó thật là tuyệt vời.

Tôi chắc rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ về khoảng thời gian đó.

Nhiều người có cảm tưởng rằng ngày trước họ từng ở trong một thiên đàng an toàn tuyệt hảo nhưng nay đã bị lạc mất thiên đàng ấy. Ta nghĩ rằng đâu đó ngoài kia có một nơi chốn xinh tươi không có gì phải lo lắng và sợ hãi, nhưng không phải, và thế là ta ao ước được trở về nơi chốn trong bụng mẹ. Trong tiếng Việt chữ “tử cung” có nghĩa là cung điện của hài nhi. Thiên đàng nằm trong lòng mẹ.

Khi nằm trong bụng mẹ, bạn được mẹ chăm sóc. Mẹ ăn và uống cho bạn. Mẹ thở vào, thở ra cho bạn. Và tôi chắc mẹ cũng nằm mơ cho bạn nữa. Bạn mơ cùng một giấc mơ với mẹ. Khi mẹ mỉm cười, bạn cũng mỉm cười. Và nếu mẹ khóc khi mơ thấy chuyện buồn khổ thì tôi chắc bạn sẽ cùng khóc với mẹ. Bạn chia sẻ với mẹ những giấc mơ đẹp và cả những cơn ác mộng, bởi vì bạn và mẹ không phải là hai người riêng biệt. Cơ thể bạn được nối liền với mẹ bằng cuống rốn. Và mẹ truyền cho bạn qua cuống rốn ấy nào thức ăn thức uống, nào dưỡng khí, đủ hết, kể cả tình thương của mẹ. Bạn nằm đấy, bạn chưa chào đời nhưng đã là đối tượng của tình thương.

Hãy nên nhớ rằng bạn đã được mẹ nuôi dưỡng ngay từ khi bạn chưa chào đời. Nếu nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng đồng thời bạn cũng nuôi dưỡng mẹ. Vì có con trong lòng mà cơ thể mẹ thay đổi và lớn lên. Có thể mẹ mệt mỏi hơn, kém sức hơn, nhưng đồng thời mẹ hay mỉm cười hơn và cả yêu đời nhiều hơn nữa.

Có lẽ trong khoảng thời gian ấy mẹ đã từng trò chuyện với bạn. Tôi chắc rằng bạn đã nghe mẹ nói chuyện, và bạn đã hồi âm. Có lẽ thỉnh thoảng mẹ quên rằng đang có con nằm trong bụng mẹ. Vì vậy bạn đã đá một cái để nhắc mẹ. Cái đá của bạn là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu mẹ có thực tập tỉnh thức thì mẹ đã nói, “Con yêu quý, mẹ biết con có đó mà, và mẹ rất hạnh phúc.” Đó là câu thần chú thứ nhất. Nếu mẹ không nói như thế thì cơ thể mẹ cũng đáp lại rằng mẹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để nuôi dưỡng con.

Khi bạn vừa chào đời, sẽ có người cắt cuống rốn của bạn. Và bạn ré lên khóc lần đầu tiên trong đời. Bây giờ thì bạn phải tự mình hít thở. Bạn phải làm quen với ánh sáng xung quanh. Bây giờ lần đầu tiên bạn biết đói bụng. Bạn đã ở ngoài cơ thể của mẹ, nhưng bạn vẫn còn nằm trong mẹ, vẫn còn tùy thuộc vào mẹ. Chẳng hạn như bạn phải bú vú mẹ. Và mặc dù cuống rốn giữa mẹ con đã bị cắt đứt, bạn vẫn còn liên hệ mật thiết với mẹ một cách cụ thể.

Là một em bé, bạn biết mình có liên hệ với mẹ; và khi là một người mẹ, bạn sẽ cảm thấy sự gắn kết với con mình. Nếu là mẹ, bạn có thể hình dung bạn với con là một. Nhưng nếu bạn giữ chặt con và bắt nó phải giống hệt như mình thì điều đó không nên. Thấy mình với con là một thì tốt, nhưng bé còn phải sống với nhiều ảnh hưởng khác nữa, và khi lớn lên, có thể bé sẽ có nhiều hiểu biết mới. Mỗi bà mẹ đều phải tập để thấy rằng con mình là mình, nhưng đồng thời cũng không phải là mình. Đứa con có cuộc đời riêng của nó. Bạn không thể cầm giữ đứa con và bắt nó phải đi về hướng của bạn, bạn không thể buộc nó phải làm những gì bạn thích vì bạn muốn uốn nắn nó theo khuôn đúc của bạn. Bởi vì nó không những là sự nối tiếp của bạn, mà còn là sự nối tiếp của nhiều thế hệ tổ tiên trước bạn nữa, và có thể cuộc đời bạn đã không có cơ hội được tưới tẩm những hạt giống tốt mà bạn thừa hưởng từ thế hệ tổ tiên. Do đó, bạn không được may mắn bằng con bạn. Cho nên khi con đã có nhiều hiểu biết mới, bạn phải học hỏi từ con.

Nếu mẹ không chịu để cho bạn độc lập trưởng thành, hay nếu bạn có khó khăn với mẹ, có lẽ bạn sẽ ráng tự thuyết phục rằng bạn và mẹ là hai người riêng biệt. Nhưng sự thực không hẳn thế. Bạn là sự tiếp nối của cả cha và mẹ. Khi tôi ngồi thiền, tôi có thể thấy được sợi dây rốn nối liền tôi và mẹ. Khi tôi nhìn sâu, tôi cũng thấy những dây rốn nối liền tôi với vạn vật. Bởi vì mặt trời mọc mỗi sáng mai, và nhờ có mặt trời, ta có nhiệt lượng và ánh sáng. Không có nhiệt lượng và ánh sáng thì ta không tồn tại được.

Thế thì sẽ có một dây rốn nối liền bạn với mặt trời. Và sẽ có một dây rốn khác nối liền bạn với những đám mây trên bầu trời. Bởi vì nếu không có mây thì sẽ không có mưa và không có nước để uống, nếu không có mây bạn cũng không có sữa, không có trà, không có cà phê, không có kem lạnh, không có gì hết. Và lại có một dây rốn nối liền bạn với dòng sông, một dây rốn khác nối liền bạn với rừng cây. Nếu bạn cứ tiếp tục thiền định, bạn sẽ thấy rằng bạn nối liền với mọi vật và mọi người trong vũ trụ. Cuộc đời bạn tùy thuộc vào mọi thứ khác đang có mặt như những sinh vật, cây cỏ, đất đá, không khí, nước và mọi thứ khác trên trái đất.

Giả sử bạn trồng một hạt bắp. Sau bảy ngày, hạt bắp nẩy mầm và trở thành một cây bắp. Khi cây bắp lên cao, có thể bạn sẽ không còn nhìn thấy hạt bắp mà bạn đã trồng. Nhưng bạn không thể bảo rằng hạt bắp đã chết. Với đôi mắt của Bụt, bạn vẫn có thể nhìn thấy hạt bắp giống trong cây bắp. Cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp giống về hướng tương lai, và hạt bắp giống là sự tiếp nối của cây bắp về hướng quá khứ. Cây bắp và hạt bắp giống không phải là một, nhưng chúng cũng không phải hoàn toàn khác biệt. Bạn và mẹ không hẳn là một người, nhưng cũng không phải là hai người riêng biệt. Đó là sự thật về sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự thật là không ai có thể sống tách biệt một mình. Muốn sống thì bắt buộc ta phải tương tức với nhau.

Khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ, cơ thể ta không chịu sự căng thẳng.

Cơ thể ta lúc đó mềm mại và co dãn. Nhưng một khi ta đã chào đời, thì sự căng thẳng sẽ len vào, có khi ngay từ lần đầu tiên ta thở. Trước khi ta buông xả được sự căng thẳng trong thân thì ta phải buông xả sự căng thẳng trong hơi thở đã. Nếu thân ta không an thì hơi thở cũng không an. Khi ta chế tác được năng lượng chánh niệm và ôm lấy hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào và hơi thở ra sẽ được cải thiện. Khi ta thở trong chánh niệm, hơi thở của ta sẽ lắng dịu xuống và dài sâu hơn. Sự căng thẳng trong lúc thở sẽ biến mất. Và khi hơi thở đã được lắng dịu, ta có thể ôm lấy cơ thể và ta buông thư – Bụt gọi là “an tịnh”.

Có một bản kinh Pali gọi là kinh Kayagatasati,  Quán Thân Trong Thân.

Trong đó Bụt đề nghị thực tập để buông xả sự căng thẳng trong mỗi bộ phận của thân, và trong cả toàn thân. Để bắt đầu, bạn nằm dài trong một tư thế thoải mái và rọi chiếu chánh niệm lên toàn thân. Xong rồi bạn tập trung vào từng bộ phận của thân. Bắt đầu là cái đầu hay là tóc, và kết thúc với các ngón chân. Bạn có thể nói: “Khi thở vào tôi nhận biết não bộ của tôi. Khi thở ra, tôi mỉm cười với não bộ của tôi.” Và bạn tiếp tục với những phần còn lại của thân. Giống như người nông dân với một mớ hạt giống được đổ ra sàn nhà, người ấy có thể nhận ra và phân biệt rõ từng loại hạt giống. Cũng vậy, khi bạn rọi chiếu lên từng bộ phận của thân – không phải bằng tia quang tuyến X mà bằng ánh sáng chánh niệm.

Mười lăm phút cũng đủ để rọi chiếu lên thân và làm xoa dịu sự căng thẳng của thân bằng năng lượng chánh niệm.

Khi tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhận ra được một phần của thân và ôm lấy phần ấy với năng lượng của chánh niệm, thì phần cơ thể ấy được thư giãn và buông xả mọi căng thẳng. Vì vậy ta hiểu tại sao mỉm cười là một phương cách tốt để giúp cơ thể buông thư. Những nụ cười đầu tiên trong bụng mẹ là những nụ cười hoàn toàn buông thư. Có hàng trăm bắp thịt trên mặt bạn, và khi bạn nổi giận hay sợ hãi thì chúng rất căng thẳng. Nhưng nếu bạn thở vào và nhận biết chúng, thở ra và mỉm cười với chúng, bạn có thể giúp các bắp thịt ấy thư giãn. Với một hơi thở vào và một hơi thở ra là vẻ mặt của bạn đã được chuyển hóa. Một nụ cười có thể đem đến sự mầu nhiệm.

Trong kinh Quán Thân Trong Thân, Bụt khuyên ta nên nhận biết bốn yếu tố thiên nhiên trong cơ thể là nước, lửa, không khí và đất. Ở trong tử cung, bốn yếu tố này hoàn toàn cân bằng. Người mẹ giữ cân bằng trong tử cung cho con bằng cách gửi vào dưỡng khí và chất bổ dưỡng trong khi con nằm nghỉ ngơi. Một khi ta được sinh ra, nếu bốn yếu tố ấy của ta cân bằng thì ta được mạnh khỏe. Nhưng nhiều lúc bốn yếu tố ấy thiếu thăng bằng, cơ thể ta không ấm lên được hay ta không thở nổi một hơi dài. Thông thường thì một hơi thở có ý thức có thể đem bốn yếu tố ấy trở về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên.

Bụt cũng khuyên ta nên nhận biết những tư thế và cử động của thân. Lúc ngồi thiền, điều đầu tiên ta phải nhận thức là ta đang ở trong tư thế ngồi. Rồi sau đó bạn có thể tìm cách ngồi nào đem lại cho bạn sự an ổn, sự vững chãi và thoải mái. Mỗi phút giây ta đều nhận thức tư thế của thân ta, ta đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Ta có thể nhận thức những cử động của ta, ta đang đứng dậy, cúi xuống hay đang khoác áo. Sự nhận thức đem ta trở về với chính ta. Và khi ta hoàn toàn nhận thức được thân ta đang sống ngay đây và ngay bây giờ, thì ta đang ở trong mái nhà đích thực của ta.

Có những người cảm thấy không thoải mái khi ở nhà cha mẹ. Lại có những người không thoải mái khi ở xa gia đình. Nhưng mỗi người đều có một mái nhà đích thực, cũng đích thực và tinh khiết như cung điện của hài nhi. Ngay cả nếu bạn có cảm giác mình không thuộc về một vùng đất nào, một quốc gia nào, một địa điểm nào, một nền văn hóa nào, hay một dân tộc nào thì bạn vẫn có một mái nhà đích thực. Bạn cảm thấy thoải mái tự nhiên như khi còn nằm trong bụng mẹ. Và có lẽ bạn ao ước được trở về một nơi chốn cũng thanh bình và an toàn như thế. Nhưng bây giờ, ngay bên trong cơ thể bạn, bạn cũng có thể trở về nhà.

Mái nhà đích thực của bạn là ở đây và bây giờ. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Mái nhà đích thực của bạn không phải là một ý tưởng trừu tượng, nó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống trong từng giây phút. Với chánh niệm và định lực – là những năng lượng của Bụt, bạn có thể tìm thấy mái nhà đích thực của bạn ngay trong sự buông thư hoàn toàn của tâm và thân trong giây phút này. Không ai có thể lấy nó ra khỏi bạn. Người ta có thể xâm chiếm đất nước của bạn, thậm chí có thể nhốt bạn vào tù, nhưng họ không thể cướp được mái nhà đích thực và sự tự do của bạn.

Khi ta ngưng nói năng suy nghĩ và ta thưởng thức hơi thở vào ra, là lúc ta vui thích được ở dưới mái nhà đích thực của mình, là lúc ta có thể tiếp xúc sâu sắc với những điều kỳ diệu của cuộc sống. Đó là con đường đã được Đức Thế Tôn chỉ dạy. Khi bạn thở vào, bạn đem thân và tâm bạn đến với nhau, trở thành một mối. Và khi được trang bị năng lượng của niệm và định, bạn bước tới một bước. Bạn có tuệ giác rằng đây chính là mái nhà đích thực của bạn – bạn đang sống, bạn đang có mặt thật sự, bạn đang tiếp xúc với sự sống như là một thực tại. Mái nhà đích thực của bạn là một thực tại vững chắc mà chân bạn, tay bạn và tâm của bạn có thể tiếp xúc được.

Điều quan trọng là bạn tiếp xúc được với mái nhà đích thực của mình, và nhận thức được rằng mái nhà đích thực đó có ngay ở đây và bây giờ. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Khi thở một hơi trong chánh niệm, hay đi một bước trong chánh niệm, bạn có thể đem tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, thân và tâm của bạn thường đi về hai hướng khác nhau. Thế là bạn bị lãng trí, tâm một đàng, thân một nẻo. Thân thì đang khoác áo lạnh nhưng tâm thì đang lơ đãng, vướng bận với những điều trong quá khứ hay tương lai. Nhưng giữa tâm và thân vẫn có một cái gì đó: đó là hơi thở của bạn. Và ngay khi bạn trở về với hơi thở, bạn thở trong tỉnh thức, thân và tâm bạn lại trở về với nhau rất nhanh chóng. Trong khi thở vào, bạn không nghĩ gì cả; bạn chỉ tập trung sự chú ý vào hơi thở vào đó. Bạn tập trung, bạn đầu tư một trăm phần trăm con người bạn vào hơi thở vào.

Bạn trở thành hơi thở vào của bạn. Sự tập trung vào hơi thở vào sẽ làm thân tâm bạn trở về một mối trong khoảnh khắc. Và ngay lúc đó bạn thấy bạn thực sự có mặt, bạn đầy sức sống. Bạn không còn ao ước trở về cung điện của hài nhi nữa, trở về nơi thiên đàng hoàn hảo nữa. Bạn đã ở đấy rồi. Bạn đã về đến ngôi nhà của mình rồi.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Nếp trên bản đồ ẩm thực dân gian Việt Nam

Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Published

on

By

Trích từ: Thơm thảo xôi chè
Tác giả: Trần Thị Hiền Minh
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023

Là đất nước nông nghiệp, ngoài hai vựa lúa lớn là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam còn có những vùng canh tác lúa ở Đông Bắc, Tây Bắc, Trung bộ, Đông Nam bộ. Gạo góp cho kho tàng ẩm thực Việt Nam rất nhiều món ăn hằng ngày và hàng trăm món bánh làm từ bột gạo. Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Không ít tỉnh, thành đã tạo ra những loại gạo, nếp đặc trưng cho vùng miền. Riêng về nếp, có thể nói đặc tính nếp của từng vùng miền đôi khi buộc người chế biến phải lựa chọn đúng mới tạo ra hương vị chuẩn cho món ăn.

Bắc bộ

Nếp cái hoa vàng

Đến Hà Nội mà được mời dùng xôi hay bánh chưng, bà con miền Nam thường được nghe kèm lời giới thiệu “xôi này được nấu, bánh chưng này được gói bằng nếp cái hoa vàng đấy” như để đảm bảo độ ngon của xôi, của bánh, dù có để 4 - 5 ngày vẫn dẻo mềm, không bị “lại gạo”.

Tên “nếp cái hoa vàng” (còn gọi là nếp ả hay nếp hoa vàng) được người làm nông đặt dựa trên đặc tính của giống nếp này khi lúa trổ đòng thì phấn hoa có màu vàng. Đây là gạo nếp ngon được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Hạt nếp cái hoa vàng tròn đầy, màu trắng đục nhưng khi đồ xôi, làm bánh thì hạt nếp trở nên trong, dẻo, vị nếp ngọt, hương thơm lâu nên từ các bà nội trợ gia đình đến người làm hàng bán đều thích chọn sử dụng. Nếp cái hoa vàng đã được một số địa phương chọn làm giống nếp đặc sản, tạo thành vùng chuyên canh và xây dựng thương hiệu như nếp cái hoa vàng Kinh Môn (Hải Dương), nếp cái hoa vàng Gia Miêu ngoại trang tại xã Hà Long, huyện Hà Trung (Thanh Hóa).

Bên cạnh nếp cái hoa vàng, ở đồng bằng Bắc bộ còn có nếp nhung và nếp bắc. Nếp nhung hạt tròn đều cũng được chuộng để nấu xôi, làm bánh bởi nếp có độ dẻo, mùi thơm dịu tỏa ra ngay khi đang nấu xôi, bánh. Gạo nếp nhung xay thành bột còn được chuộng làm bánh dày, bánh đúc bởi tính hơi nở nhưng dẻo bột, làm cho bánh khi nguội vẫn giữ được độ mềm. Nếu như nếp cái hoa vàng và nếp nhung chủ yếu dùng nấu xôi, làm bánh; thì nếp bắc còn được dùng để nấu chè, đặc biệt là chè con ong cần hạt nếp thật dẻo nhưng không bị dính nát khi nấu.

Nói đến nếp trong ẩm thực dân gian ở Bắc bộ, không thể bỏ qua một số loại nếp nổi tiếng ở các vùng Tây Bắc và Đông Bắc.

Những thửa ruộng bậc thang trải khắp Tây Bắc và Đông Bắc trông như những bức tranh phong cảnh tuyệt mỹ khiến khách du lịch ngất ngây, nhất là vào mùa lúa chín. Chính trên những thửa ruộng tuyệt mỹ ấy, bà con vùng cao đã bỏ công khó nhọc trồng những loại gạo nếp dẻo thơm, ngọt bùi. Có những nơi bà con chỉ dùng nếp nấu cơm, khách du lịch đến ăn cơm nếp vài ngày cũng không thấy ngán nên hỏi han, rồi mua về nấu thử hoặc làm quà.

Nếp Tú Lệ

Nếp ở Tây Bắc nổi tiếng sớm là nếp Tú Lệ được trồng ở thung lũng xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, xếp vào một trong những loại nếp ngon nhất nước ta. Nếp Tú Lệ tròn mẩy hạt, khi đồ chín cho hạt xôi trắng bóng trông hấp dẫn, xôi rất dẻo nhưng tơi hạt. Bà con Yên Bái bảo đồ xôi bằng nếp Tú Lệ không cần phải thêm đỗ (đậu), thêm dừa gì cả, ăn xôi nếp thôi để cảm nhận đúng vị ngọt tự nhiên, mùi thơm mát như thể tinh túy núi rừng hòa vào trong từng hạt nếp. Ăn rồi còn muốn mang theo, thế là bà con gói cho nắm xôi, để từ sáng đến tối mà xôi vẫn dẻo.

Nếp nương

Nếp nương là đặc sản của Điện Biên. Nếu như các loại nếp ở Bắc bộ có đặc trưng hạt ngắn, tròn thì nếp nương Điện Biên lại là hạt thon dài, chắc. Nếp nương Điện Biên chưa nấu đã có mùi thơm thoang thoảng. Bà con Điện Biên bảo do được trồng trên nương, uống nước núi rừng mà lớn, có bao nhiêu hương thơm rừng núi thì hạt gạo ôm hết bấy nhiêu, nên nếp nương Điện Biên cũng là đặc sản nổi tiếng của vùng Tây Bắc. Người dân ở đây thường dùng nếp nương đồ xôi ngũ sắc ăn kèm với thịt nướng, cá nướng chấm chẩm chéo. Nếp nương nấu xôi trông như xôi khô nhưng khi ăn mới cảm được hết vị ngọt, độ dẻo, thơm của hạt nếp.

Nếp cẩm

Loại nếp đặc sản nữa của vùng Tây Bắc phải kể là nếp cẩm, hạt nếp to tròn có màu tím thẫm, pha chút màu vàng nhạt ở bụng hạt. Không phải nơi nào cũng có thể trồng được gạo nếp cẩm. Lai Châu, Điện Biên được cho là nơi có thể trồng ra loại nếp cẩm chất lượng nhất. So với các loại gạo nếp khác ở Tây Bắc thì gạo nếp cẩm nổi trội hơn về mặt dinh dưỡng nên được dùng như một loại thực phẩm bồi bổ, tăng cường sức đề kháng và kích thích tiêu hóa. Khi nấu thành xôi, nếp cẩm có màu tím thẫm, mùi thơm ngào ngạt đặc trưng. Những năm gần đây, xôi nếp cẩm được kết hợp với sữa chua nguyên chất đã tạo nên món ăn thơm ngon được nhiều người ưa chuộng.

Nếp Pì Pất

Tuy không nổi tiếng và phổ biến bằng, nhưng các loại nếp vùng Đông Bắc đang góp mặt trong danh mục nếp để làm các món xôi, chè, bánh Việt Nam là nếp Gà gáy Mỹ Lung và nếp Pì Pất. Nếp Gà gáy Mỹ Lung của người Mường ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) có màu nửa trắng, nửa trong đồ xôi dẻo mà lại không dính tay. hương thơm ngọt bùi. Người nào từng ăn qua nếp Gà gáy sẽ không quên được vị ngọt mộc mạc ấy. Nếp Pì Pất được người dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trồng. Nếp Pì Pất có mùi thơm từ khi còn là hạt thóc, đến khi xát thành gạo, mùi thơm động trong từng hạt trắng. Nếp Pì Pất đồ xôi mềm nhưng không nát hạt, bột nếp thơm, làm được nhiều loại bánh.

Nam bộ

Ở Nam bộ, lúa nếp được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp cũng được các bà nội trợ dùng nấu xôi, gói bánh tét, bánh ú, làm nhiều loại bánh dân gian, còn dùng nấu nhiều loại chè. Những loại nếp được biết, được chuộng nhất ở Nam bộ phải kể đến là nếp ngỗng, nếp sáp, nếp than.

Nếp ngỗng

Nếp ngỗng thường được dùng để nấu xôi. Hạt nếp ngỗng dài, thuôn tròn, màu trắng sữa; khi nấu chín, hạt nếp nở vừa, dẻo mềm, thơm dịu, để nguội xôi vẫn dẻo thơm. Nếp ngỗng mà làm xôi vị, nấu chè khoai môn, chè đậu trắng, chè hạt me... thì ngon hết biết, có thể ăn quên thôi.

Nếp sáp

Nếp sáp được trồng trên vùng đất màu mỡ, giàu phù sa của vùng Đồng Tháp Mười, tạo nên nếp mẩy hạt, thon dài, đầy tròn với màu trắng sữa, mặt nếp mịn với hương thơm tự nhiên. Tính chất hạt nếp đúng như tên gọi, khi nấu chín tới, nếp dẻo vừa phải như sáp, tỏa ngát hương thơm, vị ngọt hậu, đặc biệt ngon khi nấu xôi, chè, gói bánh tét, bánh chưng, bánh ủ. Nếp sáp dường như hợp với các loại đậu xanh, đậu phộng nên các món xôi đậu xanh, xôi đậu phộng nấu bằng nếp sáp đều làm nên vị bùi, với mùi thơm đặc biệt.

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa là một món ăn dân dã thơm ngon khó tả, cách chế biến nhiều công đoạn nhưng không quá khó làm. Nguyên liệu chính làm nên món ngon này là nếp than, loại nếp được trồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp than ở Nam bộ và nếp cẩm Tây Bắc đều có màu sắc đặc biệt hơn các loại nếp khác. Nhưng ở hai vùng địa lý khác nhau rất nhiều về địa hình, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng,... dẫn đến sự khác nhau về sinh trưởng của mỗi loại lúa nếp, hình dáng và màu sắc hạt nếp cũng khác nhau đôi chút. Hạt gạo nếp cẩm có màu tím thẫm, bụng màu vàng nhạt, hình dáng to tròn trong khi gạo nếp than có hạt nhỏ dài và màu đen gần như kín cả hạt.

Xôi xoài Thái Lan

Nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng trồng thêm giống nếp Thái đề làm phong phú nguồn nguyên liệu cho các bà nội trợ sử dụng, khi cần nguyên liệu đặc biệt để làm những món như xôi xoài Thái Lan thì nấu nếp Thái là “chuẩn bài”.

Trung bộ

Nếp ngự Sa Huỳnh

Bắc bộ, Nam bộ có lắm loại nếp ngon, nổi tiếng, Trung bộ có vẻ khó canh tác nên không nhiều lúa nếp. Tuy vậy, góp mặt trong danh mục nếp ngon Việt Nam thì Trung bộ có nếp ngự được trồng ở vùng ven biển Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Tương truyền loại nếp này khi xưa dẻo thơm nức tiếng, được mang tiến vua nên gọi là nếp ngự. Dẫu Trung bộ khí hậu khá khắc nghiệt, nhưng nông dân vùng Sa Huỳnh cũng trồng được giống nếp này vào vụ đông- xuân và vụ mùa, khoảng thời gian dịu mát trong năm. Tự tin với chất lượng hạt nếp kết tinh dinh dưỡng từ đất ven biển và nắng gió khơi xa tụ vào, địa phương đã giúp người dân xây dựng thương hiệu “nếp ngự Sa Huỳnh”.

Người dân ở đây bảo khi cây lúa vừa làm đòng, họ đã ngửi được hương thơm nếp ngự lan tỏa trong gió. Gặt về gánh nếp thơm, chà xát rồi vẫn còn thơm. Xôi nếp ngự vừa chín tới, mùi xôi dẻo thơm phức thật kích thích bao tử. Với đặc tính như vậy, nếp ngự thường được dùng để gói bánh tét, chế biến nhiều loại bánh thơm ngon; đặc biệt dùng nấu xôi đậu đen, làm bánh nổ, bánh rò vào dịp Tết. Tết ở Quảng Ngãi không thể thiếu các món xôi và bánh làm từ nếp ngự, trông mộc mạc nhưng hương thơm dân dã, thanh khiết như tấm lòng thành kính dâng lên tổ tiên.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Con bướm mắc kẹt trong đĩa thủy tinh

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Published

on

By

Trích từ: Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm
Tác giả: Le Thi Diem Thuy
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023
Đoạn trích nằm trong chương 1 “Xì-tốp!”.
Tiêu đề đoạn trích do BTV Bookish tự đặt.

– – –

Trong nhiều năm ròng, ông bà Russell đã sưu tập những con thú nhỏ bằng thủy tinh, chủ yếu là ngựa. Những con vật với cẳng chân thủy tinh khẳng khiu mà bạn có thể nhìn xuyên qua như nhìn một ô cửa sổ sạch sẽ. Sau khi chồng qua đời, bà Russell quyết định rằng bác Melvin, con trai ông bà, nên giữ một số con vật thủy tinh này, cùng với những thứ khác từng thuộc về cha bác.

Một chiều Chủ nhật nọ, mẹ con bác Mel tấp xe qua nhà và bác Mel gọi Ba với các chú ra phụ một tay. Cốp xe để mở của bác đang lèn chặt một chiếc tủ kính trưng bày. Sau khi hướng dẫn hai chú nhấc tủ khỏi cốp sao cho cẩn thận, bác Mel bảo Ba và hai chú còn lại khiêng ba thùng cạc-tông đang nằm trên băng ghế sau, xong xuôi bác khoát tay ra hiệu mọi người đi theo. Bà Russell đang giữ cửa trước cho họ và bác Mel dẫn Ba với các chú lên năm bậc thang so le để đi vào nhà. Họ khiêng tủ và ba cái thùng dọc hành lang dài và vòng ra phía sau ngôi nhà để đến căn phòng nơi bác Mel làm việc. Tôi theo sau họ, hai tay đút trong túi sau quần jean.

Văn phòng bác Mel nhỏ xíu và chật ních. Những chiếc thùng rỗng một nửa nằm trên sàn, còn những cái giá thì oằn mình dưới sức nặng của sách và hồ sơ xếp dựa vào tường. Giữa phòng đặt một chiếc bàn vuông lớn, mặt bàn bị bao phủ trong cơ man nào là bút, giấy, tiền lẻ, sổ biên lai và một khay đựng chìa khóa. Đằng sau bàn có một chiếc ghế xoay bọc da.

Bác Mel hướng dẫn các chú đặt tủ kính ở một góc phòng phía xa, để khi ngồi tại bàn, bác có thể ngước lên và nhìn vào bên trong tủ.

Chúng tôi đứng xem mẹ con bác Mel dỡ những thứ bên trong ba thùng cạc-tông ra và cẩn thận đặt chúng vào tủ kính. Đầu tiên chúng tôi thấy năm món đồ sứ màu trắng và xanh dương, sau đó đến những cuốn sách bìa da màu đỏ. Bác Mel xoay các bánh xe của một chiếc xe cứu hỏa đồ chơi trước khi đặt nó vào tủ. Mẹ bác tháo ra một chiếc tẩu vẫn còn vương sợi thuốc lá đưa cho bác và bác sẽ sàng đặt nó nằm nghiêng. Thứ cuối cùng ra khỏi thùng là những con thú thủy tinh. Có khoảng hai mươi con và chúng được xếp thành từng cặp, giống như những con vật trong một buổi diễu hành.

Chúng tôi được mời nhìn vào bên trong tủ kính. Trong lúc chúng tôi đứng săm soi các đồ vật, bà lão bảo Mel nhờ Ba truyền đạt lại cho tôi và bốn người chú rằng những thứ bên trong không phải để đụng vào.

Ba không nói gì với chúng tôi, chỉ hỏi: “Mọi người hiểu không?”, bốn người chú và tôi đáp: “Có”. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy những thứ bên trong chiếc tủ rất quý, không phải vì chúng trông có vẻ quý giá với chúng tôi, mà vì chúng tách biệt hẳn khỏi sự lộn xộn của phần còn lại căn phòng cũng như của ngôi nhà.

Khi chúng tôi rời khỏi văn phòng bác Mel, tôi để ý trên bàn bác có một con bướm màu nâu vàng nằm phía trên đầu một số giấy tờ. Tôi với người tới để chạm vào nó, nhưng thay vì lớp bột thường bay ra từ cánh bướm, những ngón tay tôi quét qua mặt kính lạnh. Tôi dừng lại chỗ ngưỡng cửa và liếc qua vai về phía cái bàn. Cái gì thế nhỉ?

Vào đầu và cuối mỗi ngày đến trường, hai học sinh lớp lớn sẽ đứng ở giữa đường đối diện cổng trường; họ cầm biển báo và bắt chéo chúng như những thanh kiếm trong chiến trận. Điều này có nghĩa là xe hơi - tất tần tật mọi chiếc - kể cả những chiếc buýt lớn màu vàng cũng phải dừng lại nhường cho bọn trẻ băng qua đường đến trường hay rời trường về nhà ở bất kỳ đâu.

Mỗi buổi chiều tôi đều chạy qua mấy tấm biển báo bắt chéo để gặp chú nào đó đến đón tôi về nhà bác Mel. Khi chúng tôi đi ngang tấm biển nền đỏ chữ trắng mà cha con tôi hay dừng lại trước mỗi buổi sáng, tôi sẽ chạm nhẹ những ngón tay vào thân cột và thầm thì: “Xin chào”.

Chú dẫn tôi vào nhà và tôi sẽ chạy ào dọc hành lang về phòng để thay bộ váy ngứa ngáy ra quần jean và áo phông. Thường tôi sẽ có một tiếng đồng hồ ở một mình trước khi Ba hoặc một trong số các chú về nhà và bắt đầu chuẩn bị bữa tối.

Lúc đầu tôi hay dành thời gian đó để tô màu hoặc nghiên cứu quyển sách tập đọc có hình hai cô cậu bé cùng con chó Spot của họ thích đuổi theo bóng nảy trên sàn. Nhưng sau hôm chúng tôi xem bác Mel cất đồ vào tủ kính, tôi lẻn vào văn phòng bác và dành thời gian đó trò chuyện với con bướm và bọn thú thủy tinh.

Tôi thấy con bướm màu nâu vàng vẫn nằm trên bàn bác Mel như trước, bên trong đĩa thủy tinh dày phía trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Khi nhấc đĩa lên, tôi thấy con bướm bị kẹt trong một vũng thạch màu vàng. Dù đã lật qua lật lại đĩa thủy tinh, tôi vẫn không tìm ra chỗ con bướm đã bay vào hay có thể thoát lại ra ngoài. 

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Thoạt tiên, tôi chỉ nghe thấy độc tiếng thở của chính mình, nhưng rồi tôi nghe một tiếng sột soạt mơ hồ, như tiếng đôi cánh chạm vào một ô kính cửa sổ. Tiếng sột soạt là một bài hát thầm thì. Đó là cách con bướm giao tiếp và tôi nghĩ mình hiểu được.

Tôi giữ chiếc đĩa trong hai lòng bàn tay khum lại và nhìn xuống con bướm, sau đó mang nó lại chỗ cửa sổ trông ra khu vườn sau nhà. Khi tôi giơ chiếc đĩa lên chỗ ánh nắng, nó rực lên màu vàng loá mắt, và tại trung tâm khối màu là hình dáng con bướm màu nâu đất đậm đà.

Tôi mang đĩa về bàn và đặt nó lại phía bên trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Nó đè xuống đám giấy tờ như cách mái đầu nặng trĩu suy tư của Ba đè xuống gối mỗi đêm và kéo ông vào những cơn ác mộng, trong khi điều ông mong mỏi chỉ là một giấc mơ ngọt ngào và hạnh phúc như vị que kem mít.

Một đêm nọ khi hai cha con đang nằm ngủ, tôi thầm thì vào tai Ba: “Con tìm thấy một con bướm đang gặp rắc rối”.
“Rắc rối gì?” Ba hỏi.
“Con bướm còn sống…”
“Tốt”, Ba nói.
“Nhưng nó bị kẹt”.
“Ở đâu?”
“Bên trong một đĩa thủy tinh”.
Ba không nói gì.
“Nhưng nó muốn thoát ra ngoài”.
“Làm sao con biết?”
“Vì nó nói với con thế này: ‘xườ-xườ/xườ-xườ’ ”.

Ba ngồi dậy, lắc qua lắc lại mái đầu nặng nề và gõ vào một bên tai rồi đến bên kia.

“Ba đang làm gì vậy?” Tôi hỏi ông.
“Ba phải tống hết những lời bướm biếc này ra khỏi đầu trước khi chúng lớn lên”, Ba đáp và nghiêng đầu sang một bên để các từ ngữ có thể chảy ra như nước.
“Aaa…” ông thở dài, day day dái tai. “Sạch hết tất cả bướm với biếc. Giờ thì Ba ngủ được rồi”.

Sáng hôm sau, tôi đi ra góc vườn sau nhà nơi các chú làm việc. Họ đang tỉa cây, nhổ cỏ dại và đổ thức ăn vào máng cho chim. Khi một chú hỏi vì sao mặt tôi trông nghiêm trọng vậy, tôi bảo chú ấy rằng mình cần giúp đỡ. Tất cả các chú đồng loạt ngưng tay và muốn biết có gì không ổn.

Với những ngón tay uốn cong tạo thành một vòng tròn không đều, tôi giải thích rằng có một con bướm bị kẹt trong đĩa thủy tinh, và khi ta cầm chiếc đĩa giơ lên chỗ ánh sáng - bây giờ hai cánh tay tôi đang rướn về phía mặt trời - con bướm sẽ rực lên màu nâu vàng.

Tôi nhờ các chú giúp tôi giải thoát cho con bướm.

“Không thể nào được!”
“Con bướm đó tự chuốc lấy rắc rối khi bay vào một cái đĩa”.
“Nhưng đây là rắc rối mà bọn chú đành bó tay”.
“Đúng vậy, bọn chú có biết gì về bướm bị kẹt trong kính đâu. Chú chưa bao giờ thấy cái gì giống như thế ở Việt Nam”.
“Nhưng nghe không kinh khủng sao ạ?” tôi hỏi.
“Hẳn là giờ nó đã chết rồi, con bướm ấy”.
“Không thể làm gì nhiều với một con bướm chết”.
“Không ạ, cháu nghe nó sột soạt cánh. Nó muốn thoát ra ngoài!”
“Nghe này con gái, không con bướm nào có thể sống sót bên trong đĩa thủy tinh. Thậm chí nếu cơ thể nó còn sống, chú chắc là hồn nó đã bay đi từ đời tám hoánh”.
“Đúng vậy, chú cũng nghĩ thế. Không còn hồn vía nào bên trong đĩa thủy tinh đó”.
“Nếu không có hồn vía, sao con bướm có thể khóc lóc kêu cứu ạ?” tôi hỏi.
“Nhưng ở đất nước này việc khóc lóc đâu có nghĩa lý gì? Đêm nào Ba con cũng khóc trong vườn mà có ích lợi gì đâu”.
“Chỉ mất công tưới nước cho bãi cỏ của bác Mel”.
“Không có gì cả”.
Nói rồi họ quay trở lại làm việc.

Con bướm khóc nhè từng có thời bay lượn, nhưng bọn thú thủy tinh xếp cạnh nhau trên những ngăn tủ trưng bày của bác Mel chưa từng được chạy đi đâu cả. Chúng chưa từng có những móng guốc dày và nặng, loại có thể hất tung bụi và để lại vết hằn sâu hoắm trên những bờ sông ngập bùn. Chúng chưa từng đá bất cứ thứ gì hay cắn bất kỳ ai, dù chỉ để đùa vui. Chúng chưa từng cọ người vào thân cây hay lăn trên mặt đất với bốn chân quất vào không khí. Bọn chúng có những cái chân mà tôi có thể nhìn xuyên qua và những cái miệng thủy tinh nhỏ chưa từng hé ra để ăn hay uống. Bọn chúng chưa từng ngủ và chân chưa từng cong xuống. Bờm chúng cứng đờ. Một cơn gió nhẹ nhất cũng có thể xô chúng nghiêng ngả và trừ phi tôi sắp xếp lại, nếu không chúng vẫn sẽ nằm mãi như thế. Chúng là những con vật ngớ ngẩn nhất mà tôi từng gặp. Chúng thậm chí còn không biết mình đang bỏ lỡ những thứ gì.

Khi vào văn phòng bác Mel, tôi sẽ mở cửa tủ kính và giữ nguyên như vậy để bọn thú hít thở chút không khí. Tôi luôn chạm vào chúng. Tôi mang chúng đến bậu cửa sổ và để chúng ngồi trên gờ cửa đầy nắng, bên cạnh con bướm vàng óng của tôi. Tôi kể chuyện cho bọn chúng nghe. Tôi kể về đám bồ câu sống phía trên nhà Bà Sáu. Tôi ngồi xổm trên sàn phòng, bắt chước cách đám bồ câu đậu trên rìa mái nhà, chờ mổ những bụm cơm nguội mà Bà Sáu rải ra sân. Tôi đứng dậy và tạo thành tiếng chim bồ câu sà xuống những hạt cơm. Tôi kể về những con gà trống chạy cùng tôi dọc bãi biển và để lại những vết xước lạ lùng trên cát ướt. Tôi lấy bút và một mảnh giấy từ bàn bác Mel rồi vẽ bảng chữ cái hình gà trống cho bọn thú thủy tinh xem. Tôi kể chúng chuyện Má đã hứa rằng khi đủ lớn, tôi có thể đón tàu hoả vào thành phố với Má và bà sẽ dẫn tôi đi xem chợ lớn. Tôi giải thích rằng chợ thì lớn hơn cái tủ mà chúng đang sống, lớn hơn ngôi nhà bác Mel, lớn hơn cả khu vườn phía sau.

Tôi kể cho chúng nghe về bức ảnh con tàu đã đưa cha con tôi và bốn người chú đi tẩu thoát. Ai đó đứng trên boong chiếc tàu thủy đến đón chúng tôi đã chụp bức ảnh này. Tôi không biết tông tích người chụp hay làm thế nào mà một chú đã có được nó. Trong bức ảnh, tàu chúng tôi giống như chiếc tàu đồ chơi đang dập dềnh trong một bát nước lớn với đầy ắp những con người nhỏ tí xíu. Chúng tôi nằm trong số những người đó, nhưng tôi không phân biệt được ai với ai vì hết thảy mọi người đều bé tẹo. Những khuôn mặt nhỏ, những mái đầu nhỏ, những cánh tay nhỏ đang rướn tới để chạm vào những bàn tay nhỏ. Có lẽ những người Mỹ trên chiếc tàu thủy đã cười nhạo chúng tôi. Có lẽ đó là lý do mà họ mất khá nhiều thời gian để hạ thang xuống. Có lẽ trước hình ảnh bé tẹo của chúng tôi, họ đã cười ngặt nghẽo đến mức lăn quanh boong như những viên bi bị đổ. Họ phải đỡ nhau đứng dậy và nhớ lại tên của chính mình - Glen, Mike, Ron - và nơi họ đến - Abilene, Texas, Youngstown, Pennsylvania, Tacoma, Washington - trước khi để chúng tôi leo lên và giới thiệu tên mình - Lan, Cường, Hoàng - và nơi chúng tôi đến - Phan Thiết, Bình Thuận.

Tôi kể cho bọn chúng nghe những chuyện gì không quan trọng. Chuyện có thể diễn ra trong sân nhà chúng tôi ở Việt Nam hay trên boong tàu hải quân đã đón chúng tôi từ biển cả hay trên chiếc võng ở trại tị nạn Singapore hay trong bụng chiếc máy bay đã chở chúng tôi đến California; chuyện có thể diễn ra giữa trưa nóng nực hay buổi tối mát lạnh hay trong thời tiết lạ lùng từ một trong những cơn ác mộng của Ba; chuyện có thể thoảng mùi nước mắm hay mùi bánh hamburger hay mùi hoa nhài; chuyện có thể là lời mô tả về một giấc mơ của tôi hay một con chó tôi thấy hay một đứa con trai tôi nhớ; chuyện có thể nói về mái tóc của Má toả mùi ấm áp vào ban đêm hay cầu trượt sân chơi cảm giác lạnh lẽo vào buổi sáng hay cỏ trong khu vườn sau nhà cù vào mắt cá chân tôi nhột nhạt; chuyện có thể nói về tất thảy những gì đã xảy ra với cha con tôi và bốn người chú, xảy ra ‘Một cách đột ngột’, ‘Nhiều năm về trước’, và ‘Ở một nơi nào đó xa xôi’, - như trong những chuyện cổ tích mà thứ Sáu nào cô giáo cũng đọc cho cả lớp nghe.

Bọn thú thủy tinh không chớp mắt. Chúng không hề cười. Chúng không bao giờ nhướng một bên mày hay nghiêng đầu khi lắng nghe. Chúng không gật đầu đồng tình hay giậm chân xuống đất phản đối. Chúng không đặt câu hỏi. Chúng dường như không muốn biết bất cứ thứ gì. Tôi trở nên chán ngấy việc nói chuyện với chúng và cảm thấy rằng nếu bị phơi dưới nắng quá lâu, chúng có thể vỡ tan.

Tôi kéo căng gấu áo phông và nhấc bọn chúng khỏi gờ cửa sổ, đặt từng con vào chiếc áo đóng giả cánh buồm của mình. Khi đem chúng về tủ, tôi có thể cảm thấy những cái chân khẳng khiu của chúng chọc vào người mình qua lần vải áo. Tôi sẽ sắp xếp bọn thú theo thứ tự cao, thấp, cao, y hệt như mẹ bác Mel đã xếp chúng cho bác lúc đầu. Tôi đóng lại cửa chiếc tủ kính trưng bày với bọn thú thủy tinh đang nhìn về phía trước. Chúng không hề nhớ tôi là ai. Khi tôi trốn trong khoảng trống nhỏ giữa chiếc tủ và bức tường, chúng không một lần quay đầu lại hay ấn mặt vào cửa tủ kính để tìm tôi. Các chú không biết rằng không phải con bướm, mà đúng hơn là bọn thú thủy tinh mới không có hồn vía.

Con bướm nằm trong túi áo ấn vào người tôi khi tôi đi xung quanh văn phòng bác Mel. Tôi thích sức nặng của nó. Tôi thích nó như tôi thích đứng tại khu vườn sau nhà, mắt nhắm và hai tay đút vào túi, trong lúc từ từ quay mặt về phía mặt trời. Màu sắc của con bướm lúc tôi giơ nó lên chỗ ánh sáng giống như mùi vị mặt trời vào những ngày đó, khi tôi đứng tại khu vườn sau nhà và thè lưỡi ra.

Một chiều thứ Sáu nọ của tháng Mười Hai, một tuần trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, tôi đã cố gắng giải thoát cho con bướm. Kết cục là bác Mel bảo cha con tôi và bốn người chú thu dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Ba nói đó không phải lỗi của tôi, cũng chẳng phải lỗi của ai hết. Ba bảo chuyện thường tình ấy mà.

Ngày hôm đó tôi đã kể cho bọn thú thủy tinh nghe về giấc mơ đêm hôm trước của mình. Trong mơ, tôi đánh cắp một trong những tấm biển báo băng qua đường từ người cầm biển ở trường và mang về nhà bác Mel. Tôi kéo lê tấm biển xuôi theo hành lang dài và dựng đứng nó lên như cột buồm một con tàu. Ba và bốn chú đang ngủ. Tôi đánh thức họ dậy và bảo họ trèo lên trên tấm biển. Tôi cột họ vào thân trụ để họ không rơi ra; trong lúc họ đứng chờ, tôi chạy từ phòng này sang phòng khác và bật lên toàn bộ vòi nước trong nhà.

Tôi kể cho bọn chúng nghe rằng dòng nước cuồn cuộn trong giấc mơ đã nhấc cha con tôi và bốn chú ra khỏi nhà, xuống năm bậc thang, đi vào phố, ngang qua trường tôi học và khu chơi bi-a của các chú, rồi vượt quá những toà chung cư in hệt nhau mà bên trong có những căn phòng trắng loá. Khi chúng tôi giong buồm qua những con đường trên tấm biển báo, tôi giơ cái đĩa thủy tinh giống như chiếc kính viễn vọng lên mắt và qua cơ thể con bướm, tôi thấy Má đang đứng trên một bãi biển xa xăm.

Bọn thú thủy tinh kiên nhẫn lắng nghe nhưng không có ý kiến gì về giấc mơ của tôi. Tôi nhấc chúng khỏi bậu cửa sổ và mang trở về chiếc tủ trưng bày. Tôi đóng tủ lại rồi leo lên chiếc ghế xoay bọc da của bác Mel và cứ thế xoay vòng tròn. Tôi xoay người đến hoa mắt trong lúc nhớ lại khuôn mặt Má trong giấc mơ và cố nghĩ cách giải thoát con bướm của tôi khỏi chiếc đĩa thủy tinh.

Khi ghế ngừng quay, tôi để ý thấy mấy mảnh kính vỡ trên ngăn dưới cùng của một kệ sách gần tủ trưng bày. Tôi leo xuống chiếc ghế xoay và đi lại chỗ tủ sách. Con bướm đang nằm trong túi và nó trì áo tôi xuống khi tôi khom mình nghiên cứu những mảnh kính vỡ. Đó là một khung ảnh.

Khung kính đã vỡ tan nhưng bức ảnh bên dưới trông còn nguyên vẹn. Bác Mel và mẹ mình thời còn trẻ đang mỉm cười qua lớp kính vỡ. Vòng tay của họ quanh người nhau khá là chặt và tôi cảm thấy ôm như vậy thì thật khó thở, nhưng họ có vẻ thích điều đó. Mũi họ hồng hào và bóng lưỡng. Răng bà lão hồi đó sáng và đều một cách khó tin, còn những lọn tóc xoăn của bác Mel thì rực lên trong nắng. Tôi thấy hai mẹ con bác trông rất khoẻ khoắn.

Giống như cha con tôi, mẹ con bác Mel đang đứng ở một nơi đầy tuyết và tựa người vào chiếc xe hơi xanh dương. Trên nền tuyết thấp thoáng một cái bóng, hẳn là nó thuộc về người chụp ảnh.

Mắt tôi liếc lên cái tẩu thuốc nằm nghiêng trong tủ kính, trong nõ tẩu vẫn còn nhét vài sợi thuốc lá.

Tôi đứng dậy khỏi bức ảnh và nhìn quanh phòng, nó có cảm giác thật đông đúc. Trên các kệ nhồi nhét những chồng giấy lộn xộn, còn trên sàn la liệt những thùng sách đầy một nửa trong những tư thế kỳ quặc vì bị đẩy tới đẩy lui trong lúc bác Mel đi lại xung quanh. Những chiếc thùng rỗng thì bị dựng đứng lên.

Mắt tôi quét qua bốn bức tường trong văn phòng bác Mel trước khi đậu lại ở khoảng trống giữa tủ kính trưng bày và bức tường gần cửa. Tôi đi đến đó và dùng tay đo đạc nó, đầu tiên ấn một lòng bàn tay vào tường rồi đến lòng bàn tay kia.

Vẫn dán mắt vào khoảng trống, tôi lùi người khỏi bức tường cho đến khi đứng cạnh cái bàn ở giữa phòng. Tôi lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo và giữ nó trong lòng bàn tay khum lại. Tôi lắc nhẹ nó và cảm nhận sức nặng của nó trong tay mình.

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Trái tim tôi đang đập và sẽ không chịu im lặng. Tôi giang cánh tay giơ chiếc đĩa ra xa, lắc đầu, rồi đưa nó về lại gần tai.

Ở đó có một tiếng động mơ hồ, như một bức màn nhẹ tênh, hầu như trong suốt đang khẽ lay động lao xao trên cửa sổ.

Tôi siết chặt những ngón tay quanh chiếc đĩa, giang cánh tay ra sau xa hết mức có thể, nhắm vào giữa khoảng trống nhỏ có bề ngang bằng ba gang tay đó, tôi dứ người lấy đà và vung cánh tay về trước, làm chiếc đĩa bay vèo.

Chiếc đĩa bay nhanh và mạnh nhưng không đáp xuống nơi tôi đã dự định mà đâm xuyên qua cửa tủ kính trưng bày. Đầu gối của bọn thú thủy tinh oằn xuống. Khi chúng ngã, một số con mất đầu trong khi cơ thể những con khác gãy làm đôi. Cơ thể vỡ vụn của một số con đã bảo vệ những con khác khỏi cảnh nát bấy hoàn toàn. Một số con nằm nghiêng và nhìn ra ngoài cửa sổ.

Chiếc đĩa đập vào phần sau tủ, dội vào đám đồ sứ trước khi bắn ngược trở lại phòng. Văn phòng bác Mel bị lấp đầy trong những âm thanh mà bọn thú tạo ra.

Ba và các chú giật tung cánh cửa.

Tôi đang xoay tròn trên ghế, mắt quét khắp trần để tìm con bướm.

“Xườ-xườ/xườ-xườ”.
“Xì-tốp!/Xì-tốp!”
“Xườ-xườ /xườ-xườ”.
“Xì-tốp!”

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Điều gì kìm hãm chúng ta?

Từ chốn công sở truyền thống đến các công ty khởi nghiệp hiện đại, những người giỏi nhất sẽ nhận được phần thưởng khổng lồ, trong khi những người chỉ kém họ một chút thì nhận phần tầm thường hơn nhiều.

Published

on

By

Trích từ: Think Big
Tác giả: Tiến sĩ Grace Lordan
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Mơ lớn thì dễ, nhưng biến chúng thành hiện thực thì lại khó. Định hướng công việc ngày nay rất phức tạp, và các kỹ năng chúng ta cần có thì luôn thay đổi chóng mặt. Những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ và quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng đang định hình những loại công việc đặc thù trong từng giai đoạn nào đó. Ngày càng nhiều người trong chúng ta nhận thấy nơi mình làm việc giống như một đấu trường mà “người thắng được tất”. Từ chốn công sở truyền thống đến các công ty khởi nghiệp hiện đại, những người giỏi nhất sẽ nhận được phần thưởng khổng lồ, trong khi những người chỉ kém họ một chút thì nhận phần tầm thường hơn nhiều.

Phấn đấu đến vạch đích cụ thể nào đó là một hành trình mệt mỏi, tuy nhiên mọi thứ sẽ còn tồi tệ hơn nếu bạn làm việc chăm chỉ nhưng không có phương hướng hoặc mục tiêu trong đầu. Để thành công, nhiều người trong chúng ta hy sinh cả việc chăm lo cho bản thân. Chúng ta bỏ lỡ các sự kiện gia đình, lờ đi các buổi khám sức khỏe, quên béng các dịp đặc biệt và nhiều điều khác nữa. Nếu chấp nhận đánh liều với sức khỏe và hạnh phúc, vậy chắc hẳn chúng ta phải được khen thưởng tương xứng với tầm ảnh hưởng, kỹ năng, năng lực và tài năng của mình chứ? Nếu không, những rủi ro mà chúng ta đang gánh đâu có được đền bù xứng đáng.

Thế là chúng ta nỗ lực và nâng cao kỹ năng của mình. Những kỹ năng mới này tạo ra một điều tuyệt vời nào đó: Nghiên cứu đột phá, chiến lược sáng tạo hoặc một sản phẩm giúp mọi người đều được hưởng lợi. Và rồi chúng ta cũng được tưởng thưởng hậu hĩnh. Đúng chứ?

Thật không may, quá trình xác định ai nhận phần thưởng gì, và tại sao lại thế lại không mấy chính xác và thường không công bằng. Những sản phẩm mới mẻ tuyệt vời vẫn thất bại hằng ngày, những tài năng thực sự không được chú ý, những đổi mới có giá trị bị gạt sang một bên. Những thiên kiến nhận thức thường là lý do khiến ý tưởng của chúng ta lung lay và sự nghiệp bị đình trệ. Chúng có thể ảnh hưởng đến bạn và sự nghiệp của bạn hết lần này đến lần khác, hay thậm chí tác động trắng trợn đến mức khiến bạn phát khóc. Thật khó chịu khi những người có ảnh hưởng đến sự nghiệp của bạn lại bộc lộ những điểm mù khiến tiến trình ấy thêm dài hơn – thậm chí là tệ hơn – và kém thú vị hơn. Bạn thấy nản chí khi những câu chuyện kiểu “ở đây thì phải làm thế” cản trở những ý tưởng đổi mới của mình, hoặc lãng phí thời gian vào những cuộc thảo luận liên tu bất tận nảy sinh bởi tệ quan liêu, cứng nhắc, và thói vận động hành lang. Bạn cảm thấy bực bội khi chứng kiến thiên kiến cản trở tiến trình sự nghiệp của những người thông minh phi thường chỉ vì họ không học ở những ngôi trường hàng đầu, không có mạng lưới quan hệ phù hợp hoặc không có ngoại hình hợp nhãn.

Nhưng thiên kiến nhận thức không chỉ liên quan đến các đối tượng xung quanh – ảnh hưởng của những thiên kiến đó không gói gọn trong hành động (hay hành vi thụ động) của người khác. Tự chúng ta cũng có những thiên kiến nhận thức kìm hãm chính mình.

Bạn nghĩ mình là người ra quyết định tốt. Bạn luôn suy nghĩ kỹ lưỡng về những lựa chọn đưa ra. Bạn không cho phép cảm xúc lấn lướt lý trí. Bạn khá logic, đúng chứ?

Sai rồi.

Khoa học hành vi khẳng định rằng, trong hầu hết thời gian, việc ra quyết định của chúng ta thường xuyên bị cản trở bởi thiên kiến và điểm mù nhận thức, bất kể chúng ta đã cân nhắc thấu đáo đến đâu. Chúng ta tin rằng bản thân đang hành động có mục đích trong khi sự thực không phải như vậy. Chúng ta không lý trí như mình tưởng đâu.

Làm thế nào mà những thiên kiến nhận thức lại kìm hãm chúng ta trong công việc? Để tôi lấy ví dụ nhé, với những ai đang làm việc trong công ty lớn, hãy tự hỏi bản thân tại sao bạn không định tự đề bạt mình vào năm tới. Có phải vì bạn không đáp ứng được hết các yêu cầu đề ra, hay vì (trong hầu hết các trường hợp) các tiêu chí thăng chức không rõ ràng và bạn muốn đảm bảo rằng mình vượt trội hơn hẳn những tiêu chí đó?

Thử lùi lại một bước nào. Quyết định lý trí lúc này là gì đây?

Nếu là người lý trí, tôi muốn nhận được những lợi ích từ việc thăng chức càng sớm càng tốt. Tôi muốn có thêm thu nhập, địa vị, và không muốn mất thì giờ vào những việc lặt vặt nữa. Trong trường hợp các tiêu chí không rõ ràng, vậy chẳng phải tôi càng nên nhắm đến việc thăng chức sớm hơn sao? Tôi nên nắm lấy cơ hội mới phải chứ?

Nhưng có lẽ tôi đang quá áp lực với cái giá phải trả khi bị từ chối.

Nếu bạn thấy chuyện này giống với tình huống của mình thì đó là vì thiên kiến nhận thức đang kìm hãm bạn đấy. Bạn đang đánh giá quá cao cái giá của việc bị từ chối (cảm giác đau đớn, xấu hổ, v.v.) và đánh giá quá thấp lợi ích của khả năng thành công.

Đối với hầu hết mọi người, nỗi lo sợ bị từ chối khủng khiếp đến nỗi chúng ta không dám ra quyết định thường xuyên, điều đáng lẽ chúng ta nên làm. Chúng ta lo mình bị chối bỏ, lo đến mức không dám nghĩ đến việc đối mặt với điều đó. Tuy nhiên, trải nghiệm thực tế của việc bị từ chối không tệ như chúng ta nghĩ. Và chưa kể sau cơn mưa trời còn sáng hơn nữa mà. Với tôi, sau mỗi lần bị từ chối, thường tôi sẽ ngồi nhấm nháp một ly vang đỏ thượng hạng cùng một ít sôcôla để động viên bản thân trước khi thử lại lần nữa. Điều quan trọng hơn cả là, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều từ việc cố gắng và thất bại. Đó chính là kinh nghiệm sống, không chỉ từ bản thân việc cố gắng và thất bại, mà còn là việc rút kinh nghiệm từ đó.

Để tôi nêu một ví dụ khác nhé. Bạn ghét công việc hiện tại và mơ ước thành lập một doanh nghiệp? Có thể bạn đang ấp ủ ý tưởng về một sản phẩm tuyệt vời, nhưng lại toát mồ hôi lạnh khi nghĩ đến viễn cảnh không còn nhận được khoản lương tháng đều đặn nữa. Thế là bạn tiếp tục ngày ngày đi làm, và mơ hồ lo lắng niềm đam mê thực sự đang lướt qua mình.

Đây có phải là suy nghĩ lý trí? Bạn có nhìn nhận quyết định này theo kiểu được ăn cả ngã về không? Bạn có đánh giá thấp cái giá phải trả của sự hối tiếc? Bạn có tính đến cái giá của những câu “giá mà” khi đã 80 tuổi mà vẫn chưa theo đuổi ước mơ của mình? Bạn thấy không, tự chúng ta cũng có những thiên kiến nhận thức kìm hãm chính mình. Trên thực tế, với hầu hết mọi người, đây là vấn đề mấu chốt. Nếu soi xét bản thân công bằng, tôi sẽ đặt cược ở tỉ lệ 80 (do tôi): 20 (do người khác). Tôi bị mắc kẹt với các dự án quá lâu khi đáng lý tôi phải dẹp bỏ chúng đi. Điều này khiến tôi trở thành nạn nhân của ảo tưởng chi phí chìm, đó là xu hướng tiếp tục thực hiện dự án chỉ vì tiếc các nguồn lực đã đầu tư trước đó. Tôi cũng đã đánh giá thấp thời gian cần thiết để thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản và trở thành nạn nhân của ảo tưởng lên kế hoạch, thứ sẽ ngóc đầu vùng dậy khi chúng ta tin rằng các mục tiêu mình theo đuổi sẽ luôn diễn ra trong tình huống khả quan nhất. Ở nhiều giai đoạn trong sự nghiệp, tôi còn cảm thấy mình hệt một kẻ giả tạo khi cố gắng thể hiện bản thân, mặc dù tôi có đủ bằng cấp và kinh nghiệm để có thể tự tin nêu ra quan điểm. Điều đó nói lên một điều là, ngay cả những người nhận thức được hội chứng kẻ mạo nhận cũng dễ dàng rơi vào cái bẫy này. Tôi cũng đã trì hoãn rất nhiều lần (kể cả việc viết cuốn sách này), để tránh cảm giác đau thấu tâm can khi thất bại hoặc bị từ chối.

Bản thân chúng ta là một phần nguyên nhân khiến cho tiến trình sự nghiệp bị kéo dài, bị va vấp, chững lại, đảo ngược và thậm chí lao tới mép vực rất nhiều lần. Khi nhận ra thực tế đó, chúng ta sẽ cảm thấy như được giải phóng. Việc thừa nhận nhiều khả năng chính những thiên kiến của bản thân đang kìm hãm chúng ta sẽ cho phép chúng ta trở nên chủ động hơn. Nếu nhìn vào tỉ lệ ở trên, tôi có thể kiểm soát đến 80% những thiên kiến nhận thức đó, điều ấy sẽ tác động rất lớn đến việc sự nghiệp của tôi tiến triển như thế nào. Và điều ấy cũng đúng với bạn – mặc dù tỉ lệ của bạn có thể khác hơn chút.

Kể từ hôm nay, tôi muốn bạn kiểm soát hành trình sự nghiệp của mình và áp dụng những hiểu biết khoa học hành vi để xác định và theo đuổi mục tiêu mới tương ứng với việc nghĩ lớn, hoặc vượt qua vạch đích và hiện thực hóa giấc mơ đã ấp ủ lâu nay.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng