Chi tiết tác phẩm
Trích từ: Nắng tháng Tám
Tác giả: William Faulkner
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Tái bản: tháng 7.2018
1
Ngồi bên bờ đường, đưa mắt dõi theo chiếc xe la đang leo dần lên đồi về phía nàng, Lena nghĩ, ‘Mình đến từ Alabama1: thiệt là một quãng đường xa. Lội bộ suốt từ Alabama đến tận đây. Ui cha, xa quá trời luôn!’, trong khi nghĩ dù lên đường chưa đầy một tháng mà mình đã đến được Mississippi2 rồi. Mình chưa hề đi xa nhà đến vậy. Mình chưa hề đi xa Doane’s Mill đến vậy, kể từ hồi mười hai tuổi tới nay.
Thuở đó nàng thậm chí chưa từng đặt chân đến Doane’s
Mill cho đến khi cả cha lẫn mẹ nàng chết đi, dù mỗi năm nàng vẫn vào thị
trấn sáu hay tám lần gì đó, vào ngày thứ bảy, ngồi trên chiếc xe la, mặc
chiếc áo đầm may sẵn mua bằng đường bưu điện, hai bàn chân trần đặt nằm
trên sàn xe còn đôi giày thì được gói kỹ trong giấy đặt trên ghế bên cạnh
nàng. Chỉ lúc xe đến thị trấn nàng mới xỏ chân mang giày. Khi lớn hơn, nàng
đòi cha cho ngừng xe ở ngoài rìa thị trấn, nàng bước xuống và đi bộ tiếp. Nàng
không nói với cha tại sao nàng muốn đi bộ thay vì ngồi lại trên xe. Ông nghĩ
là do những con đường phẳng phiu và do có những vỉa hè. Còn nàng thì tin là
khi thấy nàng đi bộ như thế, những người đi qua nàng sẽ nghĩ nàng cũng cư ngụ
trong thị trấn.
Nàng lên mười hai thì cha và mẹ nàng qua đời trong cùng một
mùa hè, trong ngôi nhà vách làm bằng thân gỗ tròn có ba phòng và một hành
lang, không có lưới chống muỗi ở cửa sổ, trong căn phòng được soi sáng bằng
một ngọn đèn dầu lửa đầy thiêu thân bay quanh, sàn nhà trần trụi thì trơn nhẵn
như đồ bạc cũ nhờ cọ xát nhiều với các bàn chân không. Nàng là đứa con nhỏ
tuổi nhất còn sống. Mẹ nàng chết đầu tiên. Bà nói, “Chăm sóc cha nghe”. Và
Lena đã làm theo. Rồi một ngày nọ, cha nàng nói, “Hãy đến Doane’s Mill với
McKinley nghe con. Sửa soạn trước đi, nó đến là sẵn sàng đó nghe.” Rồi ông
chết. McKinley, anh nàng, về nhà trong một chiếc xe la. Hai anh em chôn cất
cha, vào một buổi chiều, dưới một lùm cây phía sau ngôi nhà thờ đồng quê,
dựng một tấm ván thông thay cho bia đá. Sáng hôm sau nàng ra đi, có lẽ vào
lúc đó nàng không biết là mình sẽ đi xa mãi mãi, cùng với McKinley trên
chiếc xe la, nơi đến là Doane’s Mill. Anh nàng mượn cỗ xe đó và hứa trả lại
nó khi đêm xuống.
Anh nàng làm việc ở xưởng cưa. Tất cả đám đàn ông trong
làng đều làm việc ở xưởng cưa, hay làm cho nó. Người ta cưa xẻ những cây
thông. Xưởng đã hoạt động ở đó được bảy năm và trong vòng bảy năm nữa thì
cả rừng cây quanh vùng sẽ bị đốn ngã sạch bách. Vậy là vài bộ phận máy móc
và phần lớn đám thợ từng làm chạy xưởng cưa, từng sống nhờ nó hay vì nó, sẽ
được đưa lên các toa chở hàng và vận chuyển đi nơi khác. Nhưng một phần máy
móc khác sẽ được bỏ lại, vì người ta bao giờ cũng có thể mua được các bộ
phận thay thế tại chỗ mới bằng cách trả góp — những bánh xe chỉ còn trơ
cốt sắt bất động nổi lên giữa những đống gạch vụn và đám cỏ dại lởm chởm, đăm
đăm nhìn lên trời xanh với vẻ kinh ngạc tột cùng, và những nồi hơi lòi ruột
chỏng các ống han gỉ không còn phun khói với vẻ bướng bỉnh, sững sờ và bối
rối cùng lúc ngay giữa quang cảnh lỗ chỗ những gốc cây bị đẵn, một cảnh tan
hoang nặng nề, im ắng, đất đai bỏ hoang, từ từ bị xói lở thành những khe nước
ngầu đục, ứ đọng dưới những trận mưa dầm êm ả vào mùa thu và các cơn thịnh
nộ sấm sét vào những ngày xuân phân. Rồi tới lúc cái xóm nhỏ này, ngay vào
thời kỳ thịnh vượng nhất của nó mà đã không có tên trên danh bạ của Sở Bưu
điện, cuối cùng thì sẽ bị ngay cả những tên mua vét lúc nhúc chấy rận trên
người quên bẵng sau khi chúng phá đổ các nhà kho, nhà xưởng… để mang về đốt
trong các lò bếp nhà chúng, hay trong lò sưởi vào mùa đông.
Xóm có lẽ chỉ có năm gia đình khi Lena đặt chân đến. Một đường ray, một nhà ga, và mỗi ngày một lần có chuyến tàu lửa chở hàng lẫn khách chạy qua xóm, còi kéo đinh tai nhức óc. Tàu có thể bị chặn lại với một lá cờ đỏ nhưng thường thì nó hiện ra từ những ngọn đồi trụi cây một cách đột ngột như ma hiện hình và rền rĩ giống tiếng than khóc của mụ thần báo tử3 khi chạy ngang cái xóm nhỏ ơi là nhỏ này như một hạt chuỗi bị bỏ quên từ cái dây xâu bị đứt. Người anh lớn hơn nàng hai mươi tuổi. Nàng hầu như không nhớ đến anh chút nào trước khi nàng đến ở với anh. Anh sống trong căn nhà bằng gỗ thô, có bốn phòng, với bà vợ kiệt sức vì sinh đẻ quá nhiều. Mỗi năm thì có gần đến sáu tháng bà chị dâu này hoặc ở cữ hoặc nằm dưỡng bệnh. Trong suốt thời gian đó Lena làm mọi việc nhà và chăm sóc các đứa bé khác. Sau này nàng tự nhủ, ‘Mình nghĩ chính vì vậy mà bụng mình dính bầu nhanh quá cỡ!’
Chỗ ngủ của nàng là cái phòng dưới mái che nằm đằng
sau căn nhà. Nó có một cửa sổ nàng học được cách mở và đóng trong bóng
tối mà không gây ra tiếng động, dù nàng phải chia sẻ cái phòng dưới mái che
này, trước tiên với đứa cháu đầu, rồi thêm đứa cháu thứ hai, rồi cả ba đứa
cùng lúc.
Nàng ở được tám năm thì mới mở cánh cửa
sổ đó lần đầu tiên. Nàng đã mở nó chưa đến mười hai lần thì nhận ra là nàng
đáng lẽ không nên mở nó bao giờ. Nàng tự nhủ, ‘Thiệt đúng cái số mình!’
Bà chị dâu mách với người anh. Vậy là anh nhận ra thân hình nàng thay đổi, điều mà lẽ ra anh phải để ý từ lâu. Đó là một con người khắc nghiệt. Nỗi dịu dàng, lòng khoan dung và tuổi thanh xuân (anh mới bốn mươi tuổi) và gần như tất cả những thứ khác đã theo những giọt mồ hôi toát ra trên người mà biến mất, chỉ còn lại một thứ nghị lực bướng bỉnh và tuyệt vọng, và một di sản u ám từ niềm kiêu hãnh huyết thống. Anh xem nàng là đồ điếm. Anh buộc tội đúng chóc tên thủ phạm (khó gì đâu, những thanh niên độc thân hay Casanova4 “mạt cưa” thì thậm chí còn ít hơn các gia đình ở đây) nhưng nàng không muốn thừa nhận, dù chàng ta đã bỏ đi từ sáu tháng trước. Nàng chỉ lặp đi lặp lại một cách ương bướng, “Ảnh sẽ gọi cho mình. Ảnh đã nói ảnh sẽ gọi cho mình mà”; nàng tỏ ra kiên trì nhưng dễ tính đến độ cả tin, nhờ dựa vào sức mạnh tích tụ của niềm chung thủy sắt son và nhẫn nại mà những người trong gia đình Lucas Burch luôn tùy thuộc và tin tưởng, dù cho họ không có ý định sẽ hiện diện ở đó một khi sự chung thủy này trở nên cần thiết. Hai tuần sau nàng lại còn leo qua cửa sổ đó. Lần này thì hơi khó. ‘Eo ơi, giá như mấy tháng trước đó mà cũng khó như vầy thì bây giờ mình đâu phải leo qua cho cực tấm thân’, nàng nghĩ. Nàng hẳn có thể đi khỏi nhà qua cửa chính, ngay giữa ban ngày. Không một ai chặn nàng lại đâu. Nàng biết điều đó, có lẽ vậy. Nhưng nàng chọn ra đi vào ban đêm, qua cửa sổ. Nàng mang theo một cái quạt bằng lá cọ và một cái bọc nhỏ được cột lại gọn gàng trong chiếc khăn tay màu sáng. Nó chứa, giữa các thứ khác, ba mươi lăm xen5 bằng đồng năm và mười xen. Nàng mang giày của người anh, cái đôi mà anh đã cho nàng. Còn gần như mới vì chẳng ai chịu xỏ chúng vào mùa hè. Khi cảm thấy có bụi đường dưới đôi bàn chân, nàng tháo giày và cầm trên tay.
Nàng đã đi bộ như thế đến nay gần được bốn tuần lễ rồi.
Sau lưng nàng, bốn tuần lễ và cái cảm giác về cái gì xa xôi ấy kéo dài như một cái hành lang yên tĩnh được lát bằng
niềm tin lặng lẽ, chắc nịch, và đầy những giọng nói, những khuôn mặt không
tên nhưng tử tế: Lucas Burch? Tôi không
biết. Tôi không biết ai mang tên đó quanh đây. Con lộ này à? Nó dẫn đến
Pocahontas. Ờ, anh ta có thể ở dưới đấy. Có thể lắm. À, chiếc xe này đi xuống
miệt đó. Nó sẽ đưa cô đến đó; giờ đây, đằng sau nàng là một chuỗi ngày đêm
đều đặn, yên tĩnh nối đuôi nhau, lê thê và đơn điệu, những ngày, những đêm mà
nàng đã đi về phía trước trong những chiếc xe la vô danh giống hệt nhau và
thong thả như thể xuyên qua các biến dạng liên tiếp của những cái bánh
xe cọt kẹt và những đôi tai la cụp lại, giống cái gì đó chuyển động không
ngừng nhưng không tiến tới được, như thể đi vòng bên hông một cái vại.
Chiếc xe la leo đồi về phía nàng. Nàng qua mặt nó cách
đây một dặm phía dưới con lộ. Nó đậu bên vệ đường, các con la say ngủ với
cái ách còn trên cổ, đầu chúng chỉ về hướng mà nàng đang lầm lũi rảo bước.
Nàng đã thấy nó và cũng thấy hai tên đàn ông ngồi xổm bên cạnh một chuồng
ngựa đằng sau hàng rào. Nàng nhìn họ và chiếc xe, chỉ một lần: liếc một
cái nhưng thấy mọi thứ, nhanh gọn, trong trắng và thâm trầm. Nàng không dừng
bước; có thể là hai tên đàn ông phía sau hàng rào đã không thấy nàng nhìn họ
cùng chiếc xe la. Nàng cũng không ngoái đầu lại. Nàng chậm rãi tiếp tục đi
khuất mắt họ, giày cởi dây xung quanh mắt cá, cho đến khi nàng lên tới đỉnh
đồi cách đấy một dặm. Rồi nàng ngồi bệt xuống bên mép cái rãnh thoát
nước, để hai bàn chân trong cái rãnh lúc này cạn khô và lột giày. Một đỗi sau
nàng bắt đầu nghe tiếng chiếc xe la. Nàng nghe được một lát, rồi thấy nó
đang nặng nhọc leo đồi.
Thiếu dầu bôi trơn, và biến dạng vì mưa nắng, gỗ và sắt
thép của xe khi rung lắc chầm chậm thì kêu cọt kẹt, nghe khô giòn đến chói
tai kinh khủng: một loạt tiếng động nổ ra khô khốc, uể oải vang xa đến nửa
dặm xuyên qua sự tĩnh lặng nóng bức, đứng gió và đượm mùi nhựa thông của
buổi chiều tháng tám này. Mặc dù các con la dầm dãi cất bước như thể ở trong
tình trạng thôi miên ổn định và không mệt mỏi, chiếc xe hình như không tiến
tới được. Vì bánh xe quay cực kỳ chậm, nó có vẻ như bị treo lơ lửng mãi mãi
ở nửa chừng, như một hạt chuỗi tồi tàn trên sợi dây đỏ nhạt là con lộ. Và
cảnh tượng này thì thực đến mức mà, dù theo dõi nó, cặp mắt người ta không
thấy nó nữa khi thị giác và các giác quan khác nhập chung và trộn lẫn
trong sự ngầy ngật, như chính con lộ, với chuỗi ngày đêm yên tĩnh và đơn
điệu nối tiếp nhau, giống như sợi chỉ đo sẵn được quấn vào ống một lần nữa.
Nó thực đến mức mà cuối cùng người ta có thể tưởng rằng tiếng xe đó
dường như đến từ một vùng đất tầm thường, nhỏ nhoi, và bất chấp khoảng cách,
nó đến chậm chạp, kinh khủng và vô nghĩa, như thể nó là cái bóng ma đi
trước thân xác của chính mình cả nửa dặm đường. ‘Mình có thể nghe nó từ
xa đến vậy trước khi thấy nó’, Lena nghĩ. Nàng thấy mình đã di chuyển trên
đường, đã ngồi trong chiếc xe lần nữa, trong khi nghĩ rồi cứ
như thể là nó chở mình đi được nửa dặm ngay cả trước khi bước lên xe, ngay cả
trước khi xe đến chỗ mình đang chờ đây, và sau khi mình bước xuống xe, nó vẫn
còn chở mình bên trong thêm nửa dặm nữa. Nàng đợi, thậm chí không đưa mắt
dõi theo chiếc xe lúc này, trong khi các ý tưởng trong đầu nàng trở nên vu
vơ, êm ả và nhanh lẹ, đầy những giọng nói, những khuôn mặt không tên nhưng
tử tế: Lucas Burch? Cô nói cô đã đi tìm
ở Pocahontas à? Con lộ này sao? Nó chạy xuống Springvale đó. Chờ đây nghe. Có
chiếc xe sắp sửa qua đây sẽ đưa cô đi một đoạn đường vẫn trong khi nghĩ, ‘A, nếu Lucas
Burch đi tuốt lên Jefferson thì ảnh sẽ nghe mình đến ngay cả trước khi thấy
mình. Ảnh sẽ nghe được tiếng xe, nhưng ảnh sẽ không tài nào biết được. Vậy
là sẽ có ai đó đến trong tầm tai trước khi đến trong tầm mắt ảnh. Và lúc
đó thì ảnh sẽ thấy mình và ảnh sẽ phấn khởi. Vậy là ảnh sẽ thấy hai người
trước khi ảnh nhớ ra được.’
Ngồi bệt trong bóng mát, lưng tựa vào bức tường
chuồng ngựa của Winterbottom, Armstid và Winterbottom thấy nàng đi qua trên
đường. Hai người nhận ra tức khắc là nàng trẻ, có chửa và không phải là người
trong vùng. “Tao tự hỏi con nhỏ dính bầu đó ở đâu?” Winterbottom nói.
“Tao tự hỏi nó ễnh bụng bao lâu rồi?” Armstid nói.
“Tao cho là con nhỏ đi thăm ai phía dưới con lộ,”
Winterbottom nói.
“Tao không tin vậy. Nếu đúng thì tao đã nghe nói rồi.
Cũng đâu phải người vùng mình. Tao hẳn đã nghe nói rồi.”
“Tao cho là con nhỏ biết mình đi đâu,” Winterbottom nói.
“Qua cách đi đó, nó có vẻ biết mình đi đâu.”
“Không bao lâu nữa chắc nó sẽ có bạn đồng hành,” Armstid
nói. Người đàn bà đi xa dần, chậm chạp với gánh nặng căng ra trước bụng mà ai
thấy cũng biết. Cả hai tên đàn ông đều không thấy nàng liếc nhìn họ một lần
khi nàng đi ngang qua, trên người mặc chiếc áo đầm xanh bạc phếch và không
còn hình thù gì hết, tay mang một cái quạt bằng lá cọ và một bọc vải
nhỏ. “Nó không đến từ miệt nào gần đây đâu,” Armstid nói. “Theo cách đi
đó thì nó chắc đã lặn lội trên đường nhiều ngày rồi và chắc còn lội thêm một
đoạn đường dài nữa à nghe.”
“Chắc là con nhỏ đi thăm ai đó quanh miệt này,”
Winterbottom nói.
“Nếu vậy thì tao đã nghe
nói rồi,” Armstid nói.
Người đàn bà cứ bước đi. Không ngoảnh mặt nhìn lại. Nàng
ra khỏi tầm mắt khi lên đến đỉnh con đường dốc: bụng căng to, chậm chạp, kiên
quyết, không vội vã, không mệt mỏi, giống như buổi chiều đang dần dần tiến
tới. Nàng cũng ra khỏi câu chuyện của họ, có lẽ ra khỏi tâm trí họ nữa.
Bởi vì sau một lúc thì Armstid mở miệng nói cái chuyện mà hắn đến đây để
nói. Trước đó hắn đã có hai chuyến đi bằng xe la, năm dặm đường từ nhà
đến đây chớ ít sao, chỉ để ngồi xổm và khạc nhổ suốt ba tiếng đồng hồ
dưới bóng bức tường chuồng ngựa của Winterbottom, với sự dùng dằng chậm
rãi của những loại người như hắn luôn xem thì giờ là không đáng xu teng gì,
để mà nói cái chuyện đó. À, chính là để mặc cả cái máy xới đất của
Winterbottom mà tay này muốn bán. Rồi cuối cùng Armstid nhìn mặt trời và đưa
ra cái giá mà khi nằm trong giường ba đêm trước đây hắn đã quyết định đưa
ra. “Tao biết có một cái máy giống như của mày ở Jefferson mà tao có thể
mua với cái giá này,” hắn nói.
“Tao nghĩ mày nên mua nó đi thì hơn,” Winterbottom nói.
“Có vẻ rẻ mạt đó.”
“Hẳn vậy rồi,” Armstid nói. Hắn nhổ nước miếng. Hắn lại
nhìn mặt trời rồi đứng dậy. “Thôi được, giờ thì tao phải quay về nhà đây.”
Hắn leo lên xe của mình và đánh thức các con la. Hay
đúng hơn, hắn cho chúng di chuyển, bởi vì chỉ có dân da đen mới có thể biết
khi nào con la ngủ hay thức. Winterbottom đi theo hắn đến tận hàng rào, chống
cùi chỏ lên đó. “Đúng vậy đó,” Winterbottom nói. “Chắc là tao sẽ mua cái
máy xới đất mày vừa nói với cái giá đó. Nếu mày không lấy nó, tao là đồ
chó nếu tao không ba chân bốn cẳng xách đít đi mua nó. Và cái thằng cha
có cái máy đó, nó lại không có một cặp la để bán với giá khoảng năm
đô-la hay sao?”
“Hẳn vậy rồi,” Armstid nói. Hắn bỏ đi, chiếc xe bắt đầu
vang lên tiếng lọc cọc chậm chạp nuốt dần các dặm đường. Hắn không ngoái
đầu nhìn lại. Và hình như hắn cũng không nhìn về phía trước, vì hắn không thấy
người đàn bà ngồi ở cái rãnh bên vệ đường cho tới khi chiếc xe lên gần sát
đỉnh đồi. Vào lúc nhận ra cái áo đầm màu xanh, hắn không biết được là nàng
có bao giờ thấy chiếc xe la này không. Và hẳn không ai có thể biết là hắn
có bao giờ nhìn nàng không khi thấy hai người càng lúc càng gần nhau một cách
chậm chạp quá sức, có vẻ như không tiến tới chút nào, trong khi chiếc xe cứ
mải miết bò về phía nàng, nó thì được bao
bọc trong một vầng sáng uể oải và có thể chạm tới được của tình trạng ngủ
gà ngủ gật và của bụi đỏ mà trong đó những bàn chân cứng cáp của các con
la di chuyển như trong một giấc mơ, theo nhịp rời rạc của các bộ cương kêu
lách cách và của các đôi tai như tai thỏ rừng ve vẩy một cách mềm mại. Khi
hắn cho các con la dừng bước, chúng vẫn không ngủ mà cũng chẳng thức.
Bên dưới cái mũ che nắng màu xanh đã phai, giờ lại bạc
thêm bởi cái gì khác hơn là xà bông và nước giặt, nàng ngước lên nhìn hắn một
cách bình thản và dễ thương: khuôn mặt nàng trẻ, dễ gần, thẳng thắn, thân
thiện và lanh lợi. Nàng cứ ngồi yên. Bên dưới tấm áo đầm phai màu, cùng một
sắc xanh bạc phếch, thân thể bị biến dạng của nàng vẫn bất động. Quạt và
bọc vải đặt trên hai đùi. Nàng không mang tất dài. Hai bàn chân trần nghỉ
ngơi bên nhau trong cái rãnh cạn. Nằm trơ ra cạnh đó là đôi giày đàn ông
nặng nề và lấm bụi. Trên chiếc xe la đã ngừng, Armstid ngồi, lưng khòm và đôi
mắt nhợt nhạt. Hắn thấy chiếc quạt được viền kỹ lưỡng bằng cùng một màu xanh
bạc phếch như cái mũ che nắng và chiếc áo đầm.
“Đi xa đến đâu?” hắn
nói.
“Tôi cố đi thêm một quãng trước khi trời tối,” nàng nói.
Nàng đứng lên, đưa tay cầm đôi giày. Nàng leo lên mặt đường, cố ý chậm rãi, và
đến gần chiếc xe. Armstid không bước xuống để giúp nàng. Hắn chỉ giữ cỗ xe
đứng yên trong khi nàng nắm bánh xe mà trèo lên một cách nặng nhọc và đặt
đôi giày dưới ghế ngồi. Rồi xe chuyển bánh lại. “Cám ơn chú,” nàng nói.
“Lội bộ như vầy mệt thiệt.”
Armstid hình như không hề nhìn kỹ nàng. Vậy mà hắn đã thấy
nàng không đeo nhẫn cưới. Bây giờ hắn không nhìn nàng. Chiếc xe la lại vang
lên tiếng lọc cọc chậm chạp. “Từ xa đến phải không?” hắn nói.
Nàng thở ra. Đó không phải là tiếng thở dài mà đúng hơn
là tiếng thở ra thanh thản, như thể để diễn tả một nỗi kinh ngạc thầm lặng.
“Bây giờ nhìn lại thì trông như một quãng đường xa thiệt đó. Tôi đến từ
Alabama.” Nàng đáp.
“Từ Alabama thiệt sao? Với cái bụng ễnh như vầy sao? Gia
đình ở đâu?”
Nàng cũng không nhìn hắn. “Tôi cố sức đi gặp ảnh ở miệt
trên đó. Biết đâu chú biết ảnh. Ảnh tên là Lucas Burch. Ở miệt dưới đó
họ nói với tôi ảnh ở Jefferson, làm việc trong một xưởng bào.”
“Lucas Burch?” Giọng của Armstid gần như giống hệt
giọng nàng. Hai người ngồi bên cạnh nhau, trên chiếc ghế bị lõm xuống vì
các lò xo đã đứt. Hắn có thể thấy hai bàn tay nàng để trên đùi và gương mặt
nhìn nghiêng của nàng dưới cái mũ che nắng. Hắn thấy các thứ này từ khóe
mắt mình. Nàng có vẻ quan sát con lộ trải dần ra giữa những cái tai mềm
của các con la. “Và đã lội bộ suốt cả chặng đường dài như vầy, một thân một
mình, chỉ để lùng kiếm thằng chả sao?”
Nàng không mở miệng trả lời ngay. Một lát sau, nàng
nói: “Bà con cô bác tốt bụng lắm. Họ tốt bụng lắm, thiệt tình.”
“Đàn bà cũng vậy à?” Từ khóe mắt hắn quan sát gương mặt
nhìn nghiêng của nàng, nghĩ Mình không biết mụ Martha sắp sửa nói
gì trong khi nghĩ: ‘Chắc là mình biết rõ mụ
Martha sắp sửa nói gì rồi. Mình cho là đám đàn bà có thể tốt bụng mà không
thực sự có lòng trắc ẩn. Đám đàn ông bây giờ cũng vậy, có lẽ. Nhưng chỉ
có những mụ đàn bà xấu tính mới có thể tỏ ra tốt bụng với một người đàn bà
khác đang cần lòng trắc ẩn’. Hắn nghĩ tiếp
Đúng vậy, mình biết mà. Mình biết
y bon mụ Martha sắp nói gì đây
Nàng ngồi rất yên,
hơi dịch ra phía trước một chút, gương mặt nhìn nghiêng của nàng cũng rất
yên, và đôi má… “Thiệt lạ lùng,” nàng nói.
“Làm sao mà khi nhìn một cô gái trẻ lạ nước lạ cái lội bộ
trên đường với cái bụng bầu như cô đây, thiên hạ có thể biết được là thằng
chồng đã bỏ rơi cổ?” Nàng không cử động. Chiếc xe la giờ đây di chuyển theo
một thứ nhịp điệu nào đó. Bánh gỗ đã mòn và khô dầu nhập lại làm một với
buổi chiều chậm chạp, với con lộ, với hơi nóng. “Và cô định tìm thằng chả ở
miệt trên này à?”
Nàng không cử động. Nàng có vẻ quan sát con lộ, chậm rãi
hiện dần ra giữa những cái tai của các con la, và khoảng cách thì có lẽ
được tạc theo hình dạng con đường đi, rõ ràng vậy mà. “Tôi nghĩ tôi sẽ tìm ra
ảnh. Không khó lắm đâu. Ảnh sẽ ở chỗ nào mà nhiều người cùng nhau tụ họp,
cười giỡn với nhau. Ảnh thì giỏi đàn đúm lắm.”
Armstid buột miệng càu nhàu, giọng nghe thô lỗ và hung dữ. “La, đi tụi mày!” hắn nói; hắn tự nói với mình, nửa suy nghĩ trong đầu, nửa phát ra ở cửa miệng: ‘Tui nghĩ cô ta có lý. Chắc là thằng chả sẽ nhận ra là nó đã sai lầm thậm tệ khi nó dừng chân ở phía bên này Arkansas6, hay ngay cả Texas7.’
Mặt trời nghiêng dần, hiện chỉ còn độ một giờ ở trên đường
chân trời, trước khi bóng đêm mùa hè nhanh chóng buông xuống. Một đường làng
hiện ra, xuất phát từ con lộ nhưng còn im ắng hơn nó. “Đến rồi đó,”
Armstid nói.
Người đàn bà cử động ngay lập tức. Nàng khom người lấy đôi
giày. Và hình như nàng không muốn làm chậm trễ chiếc xe, dù chỉ vài giây ngắn
ngủi để xỏ giày. “Tôi thiệt bụng cám ơn chú,” nàng nói. “Đi được một đoạn
như vầy thiệt đỡ cho tôi quá.”
Chiếc xe ngừng lại lần nữa. Người đàn bà sửa soạn bước
xuống. “Ngay cả khi cô đến được cửa tiệm Varner trước khi trời tối thì cô
vẫn còn cách Jefferson đến mười hai dặm đó,” Armsitd nói.
Nàng luống cuống cầm cả đôi giày, cái bọc và chiếc quạt
bằng một tay, còn tay kia thì nắm cái gì đó để xuống xe. “Tôi đi tiếp thì
hơn,” nàng nói.
Armstid không chạm đến người nàng. “Cô đến qua đêm ở nhà
tui đi,” hắn nói. “Nhà có đàn bà mà… có một bà có thể… nếu cô… Đến cho
rồi nghe. Sáng mai tui sẽ chở cô đến cửa tiệm Varner rất sớm, rồi cô có
thể đi xe tiếp vào thành phố. Ngày thứ bảy nào cũng có người lên đó. Không
lẽ thằng chả sẽ thoát được tay cô vì cô ngủ lại một đêm ở đây à? Nếu như
thằng chả ở Jefferson thiệt thì chắc là thằng chả sẽ còn ở đó ngày mai
mà.”
Nàng ngồi yên, một tay nắm giữ các vật dụng của mình,
sẵn sàng xuống xe. Nàng nhìn thẳng phía trước, tới chỗ mà con lộ cong mình
rồi xa dần, với bóng tối đổ nghiêng trên mặt đường. “Tôi cho là tôi vẫn còn
vài ngày.”
“Hẳn vậy rồi. Cô hãy còn nhiều thì giờ lắm đó. Có điều
là bất cứ lúc nào từ nay cô cũng có thể rơi vào hoàn cảnh có thêm một bạn
đồng hành chưa thể tự mình bước đi được.”
Không chờ trả lời, hắn cho các con la cất bước. Chiếc xe
rẽ vào con đường làng đã lờ mờ tối. Người đàn bà ngồi thụt vào, tay vẫn cầm
chặt chiếc quạt, cái bọc vải, đôi giày.
“Tôi không muốn mang ơn,” nàng nói. “Tôi không muốn làm
phiền.”
“Hẳn vậy rồi,” Armstid nói. “Đến nhà với tui nghe.” Lần
đầu tiên các con la đi nhanh theo ý chúng. “Chúng có mùi bắp,” Armstid nói,
và nghĩ: ‘Nhờ đó mà ta nhận ra đàn bà. Và đàn bà, nó sẽ là kẻ đầu tiên nói
xấu một con đàn bà khác, nhưng lại không biết xấu hổ lượn lên lượn xuống
trước mặt thiên hạ bởi vì nó biết là người ta, nhất là đám đàn ông, sẽ chăm
lo cho nó. Phần nó thì nó chẳng quan tâm mẹ gì đến những con đàn bà khác.
Đâu có phải một con đàn bà đã đẩy nó vào cái hoàn cảnh rắc rối mà chính
nó cũng chẳng thèm lo nghĩ đến. Đúng quá cha rồi gì nữa. Cứ để cho một đứa
trong tụi nó lấy chồng hay có chửa mà không chồng, vậy là ngay tức khắc
người ta thấy nó lìa bỏ giống đàn bà, ra khỏi loài cái, và trải qua phần còn
lại của đời nó tìm cách gia nhập vào giống đàn ông. Đó là lý do tại sao
tụi nó hít thuốc lá bột, tại sao tụi nó hút thuốc lá, và tại sao tụi nó
đòi quyền bỏ phiếu.’
Khi chiếc xe đi ngang trước ngôi nhà về phía sân đất có
chuồng la, bà vợ hắn đứng ở cửa ra vào đưa mắt dõi theo nó. Hắn không nhìn về
phía bà ta; hắn không cần nhìn để biết là bà sẽ ở đó, là bà ở đó. ‘Đúng
rồi,’ hắn nghĩ với sự hối tiếc đượm vẻ mỉa mai trong khi đưa các con la
quẹo vào cánh cổng đã mở sẵn, ‘Mình biết y bon bả sắp nói gì rồi. Mình
biết y bon mà.’ Hắn dừng xe; hắn không cần nhìn để biết là bà vợ hắn đang ở
trong bếp — bả bây giờ không còn nhìn nữa, chỉ đợi thôi. Hắn dừng xe. “Cô
vào nhà đi,” hắn nói; hắn đã xuống xe rồi và người đàn bà trẻ bây giờ chậm
chạp leo xuống với sự thận trọng như thể nó xuất phát ngay từ bên trong
người nàng. “Khi cô gặp ai trong nhà, thì chính là Martha đó. Tui sẽ vào sau
khi cho mấy con la ăn uống đã.”
Hắn không nhìn nàng đi ngang qua sân, về phía nhà bếp.
Hắn không cần nhìn đâu. Nhưng hắn hình dung mình đi theo sau nàng từng bước,
cũng vào cửa bếp và đối mặt với bà vợ giờ đang nhìn cái cửa bếp y như bà đã nhìn trước đó, từ cửa ra vào, chiếc xe đi ngang.
‘Mình biết y bon bả sẽ nói gì rồi,’ hắn nghĩ.
Hắn tháo ách các con la, cho uống nước, dẫn vào chuồng và cho ăn. Rồi hắn ra ngoài cánh đồng, lùa các con bò cái về chuồng. Sau đó, hắn đi vào bếp. Bà vẫn còn đứng đó, một người đàn bà tóc muối tiêu với bộ mặt lạnh lùng, nghiêm khắc, nóng tính, trong vòng sáu năm mà đã đẻ cho hắn những năm đứa con và nuôi dưỡng chúng thành đàn ông và đàn bà. Bà đâu có ăn không ngồi rồi. Hắn không nhìn bà. Hắn đến bên bồn rửa bát, lấy xô nước đổ vào chậu rồi xăn tay áo. “Họ của cổ là Burch8”, hắn nói. “Ít ra đó là theo lời cổ, cái họ của thằng đực rựa mà cổ đang lùng kiếm. Lucas Burch. Ở miệt phía dưới con lộ, ai đó đã nói với cổ là thằng chả hiện đang ở Jefferson.” Quay lưng về phía vợ, hắn bắt đầu rửa ráy. “Cổ đến từ Alabama. Một mình lội bộ đến tận đây, cổ nói vậy đó.”
Bà Armstid không nhìn xung quanh mình. Bà đang bận rộn sửa soạn bàn ăn. “Con nhỏ này, sắp tới
đây, không sống một mình nữa trong một thời gian dài trước khi quay lại
Alabama,” bà nói.
“Thì thằng cha Burch đó cũng vậy thôi.” Hắn bận tay với
nước và xà bông ở bồn rửa bát. Và hắn có thể cảm thấy bà vợ đang nhìn hắn,
nhìn gáy và hai vai hắn dưới lớp áo sơ-mi xanh bạc màu vì mồ hôi. “Cổ nói
ai đó dưới chỗ lão Samson biểu là có thằng cha mang họ Burch hay gì đó làm
việc ở xưởng bào trên Jefferson.”
“Và con nhỏ trông mong tìm thấy thằng chả trên đó. Đang
ngồi chờ cục cưng của mình… với căn nhà sắm sửa sẵn đủ thứ đồ đạc!”
Hắn không thể biết, dựa theo giọng nói của bà, là lúc
này bà còn nhìn hắn hay không. Hắn lau tay với tấm khăn làm bằng bao đựng bột
mì cắt làm đôi.
“Có lẽ cổ sẽ tìm ra thằng chả. Và nếu thằng chả thực
sự muốn bỏ rơi cổ, tui cho rằng chẳng chóng thì chầy thằng chả sẽ nhận ra
là thằng chả đã phạm sai lầm do đã dừng chân quá sớm, trước khi đặt con sông
Mississippi cách trở giữa thằng chả và cổ.”
Và bây giờ hắn biết là bà đang nhìn hắn: người đàn bà tóc
muối tiêu, chẳng mập chẳng ốm, nghiệt ngã với đàn ông, làm việc cật lực, thô
lỗ và hung dữ trong cái áo đầm tiện lợi màu xám, hai tay chống nạnh, bộ mặt
trông giống như mấy tên tướng lãnh bại trận.
— Ôi, đàn ông các ông!
bà nói.
— Bà tính sao về chuyện này? Đuổi cổ ra ngoài à? Hay
có lẽ để cổ ngủ trong chuồng với mấy con la?
— Ôi, đàn ông các ông! bà nói.
Đám đàn ông trời đánh thánh vật các ông!
Họ cùng nhau vào nhà bếp, dù bà Armstid đi trước. Bà đi
thẳng tới cái bếp lò. Lena đứng ở gần cửa. Nàng đã dỡ mũ, mái tóc được
chải thẳng thớm. Ngay cả chiếc áo đầm màu xanh cũng trông tươi mát và nhẹ
nhàng hẳn ra. Nàng đứng xem trong khi bà Armstid ở bếp lò làm va đập các nắp
vung bằng kim loại vào nhau và huơ các thanh gỗ với sự hung dữ thô kệch của
đàn ông. “Cháu muốn giúp một tay,” Lena nói.
Bà Armstid không quay đầu lại. Bà cời lò một cách hung
hăng. “Mày cứ ở yên tại chỗ nghe. Bây giờ mà mày để cho cặp giò nghỉ ngơi thì
có lẽ mày sẽ không phải ngả lưng nằm đẻ sớm đâu.”
“Dì có tốt bụng thì hãy
để cháu giúp một tay.”
“Mày cứ ở yên tại chỗ đi. Tao làm việc này mỗi ngày ba lần
đến nay đã ba mươi năm rồi đó. Cái thời mà tao cần người ta giúp đã qua
rồi.”(Bà cứ làm liền tay ở cái bếp lò, không quay đầu lại). “Lão Armstid
nói họ mày là Burch?”
“Dạ đúng,” Lena đáp. Giọng nàng lúc này nghe khá trịnh
trọng nhưng từ tốn. Nàng ngồi yên, hai bàn tay bất động để trên đùi. Và bà
Armstid cũng không quay đầu lại. Bà vẫn còn bận rộn nơi cái bếp lò. Hình như
nó đòi hỏi sự chăm chú không tương xứng chút nào với sự hung hăng mà bà phô
trương để nhóm lửa. Hình như nó thu hút sự chú ý của bà chẳng kém gì một
cái đồng hồ đeo tay đắt tiền.
“Mày mang họ Burch
chưa?” bà Armstid nói.
Người đàn bà trẻ không trả lời ngay lập tức. Bà Armstid
bây giờ không cời lò nữa, nhưng vẫn quay lưng về phía Lena. Rồi bà quay mặt
lại. Hai người nhìn nhau, quan sát lẫn nhau, người này bỗng dưng trần trụi
dưới mắt người kia: người đàn bà trẻ ngồi trên ghế, đầu tóc gọn gàng, hai
bàn tay bất động trên đùi, và người đàn bà nhiều tuổi hơn đứng bên cạnh lò
bếp, người mới quay một nửa, cũng bất động nữa, với một lọn tóc rối bu màu
xám ở sau ót và một khuôn mặt tưởng như được tạc trong sa thạch. Rồi người
đàn bà trẻ hơn nói:
“Cháu đã không nói thật với dì. Họ cháu chưa phải là
Burch đâu. Tên và họ của cháu là Lena Grove.”
Hai người nhìn nhau. Giọng nói bà Armstid thì không lạnh,
không ấm. Nó chẳng là gì hết. “Vậy là mày muốn đuổi kịp thằng đó để mày có
thể mang họ Burch trước khi quá trễ. Có phải vậy không?”
Lena bây giờ hạ ánh mắt xuống, như thể quan sát hai bàn
tay đặt trên đùi. Giọng nàng êm ả, hơi lì lợm. Tuy nhiên, nó vẫn lộ vẻ bình
tâm. “Cháu không cho là cháu cần Lucas hứa này hứa nọ với cháu. Chỉ tình cờ
vì xui xẻo mà ảnh phải ra đi. Công việc làm ăn của ảnh lại không bao giờ
thuận buồm xuôi gió để ảnh quay lại tìm cháu như ảnh tính. Cháu nghĩ
giữa ảnh và cháu thì không cần hứa hẹn ngoài miệng làm gì. Khi ảnh biết ra
đêm ấy là ảnh phải ra đi, ảnh…”
“Biết ra đêm nào? Cái đêm mà mày nói với thằng chả về
cái thai trong bụng phải không?”
Lena không trả lời trong một lát. Vẻ mặt nàng thì bình
lặng như đá, nhưng không khô cứng. Có vẻ gan góc nhưng không phải là không
dịu dàng; nó phản chiếu một thứ ánh sáng nội tâm, bình thản, lặng lẽ và
dửng dưng quá đỗi. Bà Armstid nhìn nàng chằm chằm. Lena không nhìn người đàn
bà kia trong khi nói chuyện. “Người ta đã bảo ảnh là có thể ảnh phải ra
đi, trước cái chuyện đó lâu lắm. Nhưng ảnh lại không bao giờ chịu nói với
cháu sớm hơn vì ảnh không muốn làm cháu lo. Ngay khi ảnh biết là có thể
ảnh phải ra đi, ảnh hiểu hay nhất là ảnh nên ra đi, là ảnh có cơ may
thành công nhanh hơn ở nơi khác, nơi mà các cai thợ sẽ không tỏ ra khó chịu
với ảnh. Nhưng ảnh cứ chần chừ mãi. Nhưng rồi khi cháu bị chuyện này đây
thì bọn cháu không thể chần chừ được nữa. Tên cai thợ cứ tỏ ra khó chịu với
ảnh vì hắn không thích ảnh, vì Lucas thì trẻ trung, lúc nào cũng rất hiếu
động, và vì tên cai thợ muốn giựt việc của Lucas để cho một trong những đứa
em họ của hắn. Nhưng ảnh đã không muốn nói ra với cháu để cháu khỏi lo
lắng. Nhưng rồi khi cháu bị chuyện này đây thì bọn cháu không thể chờ thêm
được nữa. Chính cháu đã khuyên ảnh ra đi. Ảnh nói ảnh sẽ ở lại nếu cháu
muốn vậy, dù tên cai thợ có đối xử với ảnh đúng hay không. Nhưng cháu biểu
ảnh đi. Mặc dù vậy, ảnh không bao giờ muốn bỏ đi chút nào. Nhưng cháu cứ
biểu ảnh đi đi. Và chỉ cần báo tin cho cháu biết khi nào thì ảnh sẵn sàng
để cháu đến đoàn tụ với ảnh. Rồi công việc của ảnh lại không xuôi chèo
mát mái để ảnh cho gọi cháu đến như ảnh tính. Một thanh niên ra đi như
vậy, đến giữa đám người xa lạ thì cần thời gian để ổn định cuộc sống mà. Ảnh
đâu bao giờ biết tới chuyện này khi ảnh bỏ đi, tức là ảnh cần nhiều thời
gian để ổn định cuộc sống hơn ảnh tưởng. Nhất là đối với một thanh niên đầy
sức sống như Lucas, thích đàn đúm vui chơi với mọi người và mọi người cũng
thích ảnh lắm. Ảnh đã không biết là cần nhiều thời gian hơn ảnh tính, vì
ảnh trẻ trung và người ta cứ tìm theo ảnh vì ảnh luôn sẵn sàng cười đùa, đấu
hót, gây trở ngại cho công việc mặc dù ảnh không muốn, vì ảnh không bao giờ
muốn làm phật ý ai cả. Và cháu muốn ảnh cứ vui chơi cho thỏa chí một lần
cuối cùng, bởi vì một khi cưới nhau rồi thì không còn như trước nữa, đối với
đàn bà cũng như đối với thanh niên, trẻ trung và sôi nổi. Nó kéo dài lâu như vậy
đối với một anh trai trẻ đầy sức sống. Dì không nghĩ vậy sao?”
Bà Armstid không trả lời. Bà nhìn nàng ngồi trên ghế với
mái tóc mượt mà, hai bàn tay bất động trên đùi, khuôn mặt dịu dàng và thoáng
chút trầm ngâm. “Có thể là ảnh đã gửi tin cho cháu biết nhưng nó bị thất
lạc trên đường. Thiệt là một quãng đường xa, chỉ tính từ đây tới Alabama thôi
đó, và cháu vẫn chưa đến Jefferson. Cháu biểu ảnh cháu không trông mong
ảnh viết cho cháu vì thư từ là không phải việc ảnh làm giỏi. ‘Chừng nào
anh thấy sẵn sàng đón em thì anh nhờ ai đó báo cho em biết,’ cháu nói với
ảnh. ‘Em sẽ đợi’. Lúc đầu, sau khi ảnh bỏ đi, thì cháu cũng lo lắng đôi
chút, bởi vì cháu chưa mang họ Burch mà, và ông anh cháu và gia đình trong
nhà thì không biết rõ Lucas bằng cháu. Làm sao mà họ có thể biết chớ?” Từ từ trên khuôn mặt nàng hiện ra vẻ ngạc nhiên, dịu
dàng và rạng rỡ, như thể nàng vừa nghĩ tới điều gì đó mà nàng cũng không ý
thức là nàng không biết nó tới giờ. “Dì thấy đấy, làm sao mình có thể mong
họ biết được chớ? Nhưng trước tiên ảnh phải ổn định cuộc sống đã; chính
ảnh phải chịu đựng mọi thứ rắc rối khi sống giữa đám người xa lạ, và về
phần cháu thì không có gì phải bận tâm cả ngoài việc nằm nhà mà chờ đợi
trong khi ảnh gặp đủ thứ phiền phức và lôi thôi. Nhưng sau một thời gian
cháu thấy mình quá bận bịu chăm sóc đứa bé trong bụng cho đến khi nó ra
đời để mà lo lắng về chuyện cháu mang họ gì hay thiên hạ nghĩ gì. Chắc là
có chuyện gì không lường trước đã xảy ra, hay là ảnh cũng đã bắn tin và
cái tin đó thất lạc. Vậy là, một ngày nọ cháu chỉ việc quyết định không
chờ thêm nữa.”
“Làm sao mày biết đi về hướng nào khi mày mới lên đường?”
Lena nhìn hai bàn tay mình. Chúng bây giờ động đậy, mải mê
vân vê cái vạt áo đầm trong sự bối rối kéo dài. Đó không phải là sự
thiếu tự tin, sự bẽn lẽn. Hình như đó là cái phản xạ lơ đãng của chỉ một
bàn tay.
“Cháu cứ việc hỏi người này, người nọ thôi. Dì biết
đấy, Lucas là một chàng trai trẻ trung, đầy sinh lực, kết thân với người
khác dễ dàng và nhanh chóng, cho nên cháu biết là ảnh đi đến đâu thì
người ta đều nhớ đến ảnh. Vậy là cháu tiếp tục hỏi thăm. Và bà con cô bác
thiệt là tốt bụng. Và đúng y chang là cách đây hai hôm, trên đường đi, người
ta nói với cháu rằng ảnh đang ở Jefferson, làm việc ở xưởng bào.”
Bà Armstid quan sát khuôn mặt đang cúi xuống. Bà đứng
chống nạnh, ánh mắt nhìn Lena thì mang vẻ khinh bỉ lạnh lùng và vô cảm. “Và
mày tin rằng khi mày đến đó thì thằng chả có ở đó à? Cứ cho là thằng
chả bao giờ cũng ở đó đi. Mày tin rằng một khi biết mày ở trong cùng thành
phố với thằng chả thì thằng chả vẫn còn ở đó vào giờ mặt trời lặn hay
sao?”
Khuôn mặt cúi xuống của Lena có vẻ nghiêm trang và thanh
thản. Một bàn tay của nàng bây giờ ngừng cử động. Nó nằm im trên đùi nàng,
như thể đã chết ở đó. Giọng nói nàng có vẻ bình thản, nhỏ nhẹ và bướng
bỉnh. “Cháu cho là mọi người trong gia đình phải đoàn tụ khi đứa bé ra đời.
Nhất là đứa con đầu. Cháu tin là Chúa sẽ ra tay lo liệu việc đó.”
“Và tôi cho là Chúa buộc phải làm vậy,” bà Armstid nói
một cách dữ tợn, ác nghiệt. Armstid nằm trên giường, đầu gối lên cao một
chút, nhìn bà vợ qua tấm bảng chân giường, bà vẫn chưa thay đồ ngủ, đang
khom người dưới ánh sáng ngọn đèn đặt trên tủ com-mốt, hai tay lục lọi
trong cái ngăn kéo một cách hung hăng. Bà lấy ra một cái hộp kim loại và mở
nó bằng cái chìa khóa bà đeo ở cổ, rồi cầm lên một gói vải, mở và lấy ra
một con gà trống nhỏ bằng sứ có khe ở trên lưng. Những đồng tiền kêu xủng
xoẻng bên trong. Bà cầm và lật ngược rồi lắc nó dữ dội ở trên tủ com-mốt. Từ
khe lọt ra một cách khó khăn những đồng tiền ít ỏi. Armstid đưa mắt nhìn
theo bà từ giường.
“Bà muốn làm gì với cái tiền bán trứng của bà đêm hôm
khuya khoắc như vầy?” hắn nói.
“Tiền của tôi thì tôi thích làm gì thì làm.” Bà khom
người dưới ánh đèn, bộ mặt khắc nghiệt, cay đắng. “Chúa biết là chính tôi
đã cực khổ nuôi chúng. Còn ông thì chẳng đụng đến cái móng tay.”
“Hẳn vậy rồi,” hắn nói. “Tui cho là không có con nào, thằng nào trong cái xứ sở này dám tranh giành mấy con gà mái đó với bà, ngoài các con rắn và chồn túi9. Và cái ông nội gà trống này cũng vậy,” hắn nói.
Quả nhiên, bà bỗng dưng cúi người xuống, lột một chiếc
giày và quật mạnh một cú lên cái ống sứ khiến nó bể tan. Nằm tựa trên
giường, Armstid vẫn trơ mắt nhìn bà nhặt những đồng tiền còn lại giữa những
mảnh sứ vỡ và bỏ chúng chung với các đồng tiền khác vào trong một cái bao
rồi cột đi cột lại những ba bốn lần một cách căng thẳng và bực dọc.
“Ông cho con nhỏ đó cái này,” bà nói. “Và khi mặt trời
mọc, ông đóng cỗ xe và đưa nó đi từ đây. Đưa nó đến tận Jefferson, nếu
ông muốn.”
“Tui cho là ở cửa tiệm Varner cổ có thể tìm ra xe đi
tiếp,” hắn nói.
Bà Armstid đã dậy trước hừng đông và nấu bữa ăn sáng. Nó
được bày sẵn trên bàn lúc Armstid bước vào nhà sau khi vắt sữa bò.
“Đi kêu con nhỏ đến ăn,”
bà Armstid nói.
Khi Lena và hắn trở vào bếp, bà Armstid không còn đó nữa.
Lena đưa mắt nhìn quanh một lần, bước chân ngập ngừng ở ngưỡng cửa, vẻ mặt
sựng lại ngay trước khi nàng kịp cười, kịp thốt ra lời nào, những lời được sửa
soạn trước, Armstid chắc thế. Đôi môi tưởng chừng mở ra nhưng nàng không nói
gì cả.
“Ăn rồi đi,” Armstid nói. “Cô còn cả một đoạn đường dài
đó.”
Hắn nhìn nàng ăn, cũng với vẻ chững chạc lặng lẽ và thật
lòng mà nàng đã tỏ ra vào buổi ăn tối hôm qua. Nhưng lúc này thì sự chững chạc
đó bị thoái hóa vì trông nàng dè dặt một cách lễ độ và gần như kiểu cách
quá. Rồi hắn đưa cho nàng cái bao vải đã buộc chặt. Nàng cầm lấy, mặt lộ vẻ
hài lòng, ấm áp, dù không ngạc nhiên lắm.
“Sao! Dì ấy tốt bụng quá,” nàng nói. “Nhưng thiệt tình
tôi sẽ không cần đến. Tôi gần tới nơi rồi mà.”
“Tui cho là cô nên giữ lấy thì hơn. Cô chắc để ý thấy là
Martha không thích người khác làm trái ý bả lắm.”
“Dì ấy tốt bụng thiệt,” Lena nói. Nàng buộc bao tiền vào
cái bọc vải rồi đội mũ che nắng lên đầu. Chiếc xe la đang chờ. Khi họ đi
xuống con đường làng, nàng ngoái đầu nhìn lại ngôi nhà. “Thiệt là tốt bụng,
cả dì ấy, cả chú nữa,” nàng nói.
“Chỉ mình bả làm chuyện này thôi,” Armstid nói. “Tui
chẳng có công lao gì ráo.”
“Dù sao đi nữa cũng thiệt là tốt bụng. Chú nói dùm là tôi
gửi lời chào dì ấy nghe. Tôi tưởng gặp lại dì ấy sáng nay, nhưng…”
“Hẳn vậy rồi,” Armstid nói. “Bả chắc bận việc gì đó.
Tui sẽ nói lại.”
Hai người đến cửa tiệm Varner khi mặt trời vừa mọc.
Những người đàn ông ngồi bệt ở hàng hiên, khạc nhổ lên các bậc tam cấp cũ
mòn. Họ nhìn nàng bước xuống xe, chậm chạp và thận trọng, tay cầm cái bọc
vải và chiếc quạt. Armstid lại không làm gì để giúp nàng. Hắn nói to từ chỗ
đang ngồi trên xe: “Đây là bà Burch. Bả muốn đi Jefferson. Nếu có ai đi
đến đó thì làm ơn cho bả đi cùng.”
Hai chân nàng chạm mặt đất, trong đôi giày nặng nề lấm bụi.
Nàng ngước mắt nhìn Armstid, vẻ mặt thanh thản, hiền hậu. “Chú tốt bụng
thiệt,” nàng nói.
“Hẳn vậy rồi,” Armstid nói. “Bây giờ thì cô có thể đến
thành phố rồi đó.”
Hắn nhìn xuống nàng. Rồi hình như có một thời gian bất tận trôi qua trong khi hắn theo dõi cái lưỡi mày mò tìm chữ, đầu óc suy nghĩ thật nhanh và lặng lẽ, ý tưởng trốn đâu mất tiêu Con người. Tất cả mọi người. Nó sẽ khước từ cả trăm cơ hội để làm điều thiện chỉ cốt đổi lấy một cơ hội xía vào việc người khác mà không ai mở miệng yêu cầu. Nó sẽ bỏ qua và quên thấy các cơ may, các thời cơ để làm ra tiền tài, danh vọng và việc thiện, và đôi khi cả việc ác nữa. Nhưng nó sẽ không bao giờ bỏ qua một dịp nào để xía vào việc người khác Rồi lưỡi hắn tìm được chữ, hắn nghe chính mình nói ra, có lẽ cùng với nỗi ngạc nhiên như Lena: “Có điều tui sẽ không tin quá vào… không tin quá ở…” trong khi nghĩ Cổ không nghe mình nói đâu. Nếu mà cổ nghe được những chữ nghĩa như vầy thì cổ hẳn đã không leo xuống xe đâu, với cái bụng ễnh đó, với cái quạt đó và với cái bọc nhỏ đó, một thân một mình, lê bước đến một nơi hoàn toàn lạ nước lạ cái, đi tìm một thằng đực rựa mà cổ sẽ không bao giờ gặp lại và cổ đã gặp một lần là quá nhiều lắm rồi”— nếu có bao giờ cô quay lại miệt này, ngày mai hay thậm chí đêm nay…”
“Tôi cho là mọi sự sẽ ổn thôi,” nàng nói. “Họ biểu tôi
là ảnh ở đó mà.”
Hắn cho xe quành lại và ngược đường cũ về nhà, cặp mắt nhợt
nhạt, ngồi khòm lưng trên chiếc ghế lõm sâu, nghĩ, ‘Làm vậy thì hẳn là không
đi tới đâu. Giá như cổ nghe mình mở miệng nói ra điều này thì cổ sẽ không
tin chút nào, cổ đâu tin nó hơn tin những ý nghĩ cứ hiện ra dài dài xung
quanh cổ từ khi… Nay thì đã bốn tuần lễ rồi, cổ nói vậy. Cổ cũng sẽ không
cảm thấy nó hay tin nó lúc này. Và cổ ngồi đó, trên bậc cấp cao nhất ở
hàng hiên, hai bàn tay để trên đùi, và đám đàn ông ngồi bệt ở đó và khạc
nhổ xuống đường, gần bên cổ. Và cổ thậm chí không cần chờ bọn họ mở miệng
hỏi, cổ cứ khơi khơi kể trước. Tự ý kể cho bọn họ nghe về cái thằng tồi
tệ đó, như thể cổ chẳng bao giờ có cái gì đặc biệt trong quá khứ để che
giấu hay bày ra, ngay cả khi Jody Varner hay tên nào trong đám đó sẽ nói
với cổ là thằng cha làm trong xưởng cưa ở Jefferson có họ là Bunch chớ không
phải Burch. Và điều này thì cũng sẽ không làm cổ lo lắng chút nào. Mình cho là
cổ biết nhiều hơn cả Martha, như tối hôm qua cổ bảo Martha là việc nào đúng
thì sẽ được Chúa lo liệu để nó được thực hiện.’
Chỉ cần một hay hai câu hỏi là đủ. Rồi, ngồi trên bậc
cao nhất ở hàng hiên, quạt và bọc vải đặt trên đùi, Lena kể ra câu chuyện
của nàng thêm một lần nữa, với sự tóm tắt rõ ràng và kiên nhẫn của một đứa
bé nói dối, và đám đàn ông mặc quần yếm ngồi bệt bên cạnh im lặng nghe.
“Họ của thằng đó là Bunch,” Varner nói. “Nó làm việc
ở xưởng bào khoảng bảy năm nay. Làm sao cô biết là thằng cha Burch cũng ở
đó?”
Nàng đưa mắt nhìn ra con lộ, theo hướng đi về Jefferson.
Khuôn mặt nàng mang vẻ điềm tĩnh, chờ đợi, hơi thờ ơ nhưng không bối rối. “Tôi
tin là ảnh ở đó mà. Ở xưởng bào đó hay các xưởng nào khác. Lucas lúc nào
cũng thích cái gì mới, cái gì kích thích. Ảnh không bao giờ thích sống
yên lặng cả. Đó là lý do tại sao Doane’s Mill không bao giờ hợp với ảnh.
Lý do tại sao ảnh — hai đứa tụi tôi quyết định thay đổi, vì tiền bạc và
cái gì hứng thú.”
“Vì tiền bạc và cái gì hứng thú,” Varner nói. “Lucas
không phải thằng hỉ mũi chưa sạch đầu tiên vứt bỏ những gì nó được nuôi dạy
để làm và bỏ rơi những người tùy thuộc vào những gì nó làm, chỉ vì tiền bạc và
cái gì hứng thú đâu.”
Nhưng chắc là nàng không nghe. Nàng ngồi yên lặng trên bậc cao nhất của hàng hiên, nhìn con lộ từ từ lên dốc rồi quẹo, trống trải và xa dần, về phía Jefferson. Những tên đàn ông, ngồi bệt lưng dựa vào tường, nhìn khuôn mặt lặng lẽ và bình thản của nàng và nghĩ như Armstid đã nghĩ và như Varner nghĩ: là nàng đang nghĩ đến cái thằng vô lại đã “bỏ của chạy lấy người” ấy, để lại nàng cái bụng ễnh đó, cái thằng mà họ tin là nàng sẽ chẳng bao giờ gặp lại, có lẽ chỉ thấy được cái đít quần của nó khi bỏ chạy. ‘Hay trừ phi con nhỏ này nghĩ đến xưởng cưa Sloane hay xưởng Bone,’ Varner nghĩ. ‘Tôi cho là ngay cả một đứa con gái ngu ngốc không cần phải đi xa như đến tận bang Mississippi này để nhận ra là nơi chốn mà nó bỏ đi thì đâu khác gì hay không tệ hơn nơi chốn mà nó hiện đang có mặt. Ngay cả khi ở đó có một người anh phản đối đứa em gái mình ban đêm cứ lảng vảng ngoài đường,’ trong khi nghĩ lẽ ra mình nên làm như người anh đó; lẽ ra người cha cũng làm như vậy. Cô ta không có mẹ, bởi vì máu của người cha căm ghét, với lòng thương yêu và kiêu hãnh, nhưng máu người mẹ, với lòng căm ghét, thì thương yêu và chung sống.
Nàng chẳng nghĩ đến tất cả mấy điều này chút nào. Nàng
đang nghĩ đến những đồng tiền buộc trong cái bọc vải nằm dưới hai bàn tay
nàng. Nàng đang nhớ đến bữa ăn sáng, nàng nghĩ như thế nào nàng có thể vào
trong tiệm ngay lúc này và mua phó mát, bánh bích quy và ngay cả cá mòi
hộp, nếu nàng thích. Ở nhà Armstid, nàng chỉ uống một tách cà phê và ăn một
miếng bánh đậu bắp, có vậy thôi, dù Armstid ân cần mời nàng ăn thêm. ‘Mình
đã xực một cách lễ phép’, nàng nghĩ, hai bàn tay nằm trên cái bọc vải,
biết là nó chứa các đồng tiền được giấu kín, nhớ lại tách cà phê độc nhất
và chỉ một miếng bánh xa lạ mà nàng ăn cho phải phép, nàng nghĩ với một thứ
gì đó như niềm kiêu hãnh thanh thản: ‘Mình đã xực như một quý bà. Như một
quý bà trên đường đi chơi xa. Nhưng bây giờ thì mình cũng có thể mua cá mòi
hộp nữa nếu mình muốn vậy.’
Nên chi nàng có vẻ mơ màng, đưa mắt dõi theo con lộ bắt đầu lên dốc trong khi những tên đàn ông ngồi bệt vừa chậm rãi khạc nhổ vừa nhìn trộm nàng, họ tin là nàng đang suy nghĩ về thằng tình nhân và sự sinh nở đang đến gần, khi mà trong thực tế nàng chỉ đang tiến hành một trận đánh không có gì là gay gắt lắm với sự thận trọng trời cho đó đến từ cái trái đất xưa cũ này mà từ nó, do nó, với nó, nàng sống. Lần này, nàng thắng trận. Nàng đứng lên, và với những bước chân hơi vụng về, hơi cẩn thận, nàng đi xuyên qua một loạt cặp mắt đàn ông săm soi và bước vào trong cửa hàng; tên bán hàng theo sau. ‘Mình sắp sửa làm chuyện đó’, nàng nghĩ, ngay trong khi gọi mua phó mát và bánh quy; ‘Mình sắp sửa làm chuyện đó’, và nàng nói to: “Và một hộp cá mòi.” Nàng phát âm sour10-deens. “Hộp năm xen đó nghe.”
“Tụi tôi không có cá mòi năm xen,” tên bán hàng nói. “Chỉ có loại mười lăm xen thôi.” Hắn cũng phát âm sour-deens.
Nàng do dự. “Anh có đồ hộp gì mà năm xen không?”
“Không có gì cả, trừ hộp xi đánh giày. Tôi cho là không
phải thứ cô muốn. Có phải để ăn đâu!”
“Vậy thì tôi mua loại hộp mười lăm xen đó.” Nàng mở cái bọc vải và tháo giây buộc cái bao đựng
tiền. Phải khá lâu nàng mới mở được mấy cái nút thắt. Nhưng nàng tháo chúng
một cách kiên nhẫn, từng cái một. Nàng trả tiền rồi buộc lại cái bao và
cái bọc vải, và nhận đồ đã mua. Khi nàng trở ra ngoài hàng hiên thì đã có
một chiếc xe la đậu bên bậc tam cấp. Một người đàn ông ngồi sẵn trên đó.
“Xe này đi lên phố đó,” họ nói với nàng. “Thằng cha này
cho cô đi theo đó.”
Khuôn mặt nàng từ từ sáng ra, ấm áp và thanh thản.
“Sao! Các chú tốt bụng quá đi,” nàng
nói.
Chiếc xe di chuyển không ngừng nhưng chậm chạp, như thể ở
đây, trong nỗi cô đơn đầy ánh nắng của vùng đất mênh mông này, nó nằm
ngoài, vượt ra khỏi giới hạn của thời gian và mọi sự vội vã. Từ cửa tiệm
Varner đến Jefferson là mười hai dặm. “Mình tới Jefferson trước giờ ăn tối
chớ?” nàng nói.
Tên đánh xe nhổ nước
miếng. “Hên lắm thì…,” hắn nói.
Hình như hắn chẳng khi nào nhìn nàng, ngay cả lúc nàng leo
lên xe. Hình như nàng cũng chẳng khi nào nhìn hắn. Bây giờ nàng vẫn không nhìn
hắn: “Tôi cho là chú đi Jefferson thường lắm.”
Hắn nói: “Nhiều lần.” Chiếc xe vừa đi, vừa kêu cọt kẹt.
Các cánh đồng và các khu rừng nhỏ có vẻ như treo lơ lửng ở giữa chừng,
không thể lẩn tránh được. Chúng có vẻ tĩnh và động cùng lúc, và lẹ làng như
ảo ảnh. Tuy vậy, chiếc xe vẫn vượt qua chúng.
“Chú biết ai ở Jefferson
tên là Lucas Burch không?”
“Burch à?”
“Tôi đi lên đó để tìm
ảnh. Ảnh làm việc ở xưởng bào.”
“Không,” tên đánh xe nói. “Tui không biết là tui biết
nó. Nhưng chắc có rất nhiều người ở Jefferson mà tui không biết nữa. Chắc là
nó ở đó.”
“Tôi mong vậy, hẳn rồi. Thiệt tình, cứ đi đường mãi thì
chán quá.”
Tên đánh xe không nhìn nàng. “Cô từ xa đến đây tìm nó?”
“Từ Alabama đó chú. Thiệt là một quãng
đường xa.” Hắn không nhìn nàng. Giọng hắn khá hững hờ.
“Làm sao mà cha mẹ cô lại để cô ra đi với cái bụng như vầy
chớ?”
“Cha mẹ tôi chết rồi. Tôi sống với ông anh. Chính tôi
quyết định ra đi đó.”
“Hiểu rồi. Nó nhắn tin
biểu cô đến Jefferson chớ gì.”
Nàng không trả lời. Hắn có thể thấy gương mặt nhìn
nghiêng bình thản của nàng dưới mũ che nắng. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh,
chậm chạp, nằm ngoài thời gian. Những dặm đường bụi đỏ và thong dong trải dài
dưới các bàn chân cứng cáp của các con la, dưới các bánh xe kêu cọt kẹt
và răng rắc. Mặt trời giờ đây ở cao trên đầu họ; cái mũ che nắng đổ bóng
trên đùi nàng. Nàng ngước mắt nhìn lên mặt trời. “Đến lúc ăn trưa rồi đó
chú,” nàng nói. Hắn nhìn nàng từ khóe mắt khi nàng mở phó mát, bánh quy,
cá mòi và mời hắn.
“Tui không muốn ăn chút
nào,” hắn nói.
“Chú làm ơn ăn chung với
tôi cho vui.”
“Tui không muốn ăn. Cô cứ
tự nhiên đi.”
Nàng bắt đầu ăn. Nàng ăn từ từ và liên tục, đưa lưỡi liếm
dầu cá mòi béo ngậy dính ở đầu các ngón tay với một sự hứng thú chậm rãi
và trọn vẹn. Rồi nàng ngừng hẳn, một cách nhẹ nhàng, cái hàm giữ yên khi
đang nhai nửa chừng, miếng bánh quy đã cắn còn cầm trên tay và mặt nàng cúi
xuống một chút, đôi mắt đờ đẫn, như thể nàng đang nghe cái gì ở rất xa hay ở
rất gần đến độ nàng cảm thấy nó bên trong người nàng. Mặt nàng mất sắc, mất
sự nồng nhiệt và đủ đầy của máu huyết, và nàng ngồi yên, nghe và cảm
thấy quả đất ngàn đời xưa cũ và da diết, nhưng không sợ hãi hay hốt hoảng.
‘Hai đứa sinh đôi là ít nhất’, nàng tự nói với mình, không động đậy đôi môi,
không phát ra thành tiếng. Rồi sự co thắt qua đi. Nàng tiếp tục ăn. Chiếc
xe la đã không dừng lại. Thời gian đã không dừng lại. Chiếc xe lên tới đỉnh
ngọn đồi cuối cùng và họ thấy khói.
“Jefferson đó,” tên
đánh xe nói.
“Ủa, thật sao?” nàng nói. “Mình sắp tới nơi rồi hả?”
Lần này, chính người đàn ông không nghe. Hắn nhìn thẳng về
phía trước, xuyên qua thung lũng bên dưới, hướng về thành phố nằm ở triền
đồi đối diện. Nhìn theo ngọn roi hắn chỉ, nàng thấy hai cột khói: một cái
thì ở trên một ống khói lò sưởi lớn, dày đặc và nặng nề giống như khói than
đá, cái kia là một cột khói vàng lớn hình như thoát ra từ một khóm cây
cách phía bên kia thành phố một quãng. “Một cái nhà đang cháy đó,” tên
đánh xe nói. “Thấy không?”
Nhưng nàng, đến lượt mình, lại có vẻ không đang lắng nghe
và cũng không nghe. “Ôi trời, ôi trời,”
nàng nói. “Mình đi chưa đầy bốn tuần lễ mà bây giờ mình đã ở Jefferson rồi.
Ôi trời, ôi trời! Thân thể té ra cũng vượt qua được mọi thứ đó chớ.”
Chú thích:
- Một tiểu bang ở miền Nam nước Mỹ, thủ phủ là Montgomery – ND. Xin ghi thêm về cụm từ “Light in August”: ngoài nghĩa cụ thể là “ánh sáng tháng tám”, nó còn là một thành ngữ ở vùng quê miền Nam nước Mỹ, có nghĩa là trạng thái hay thời kỳ thai nghén (pregnancy), theo sách “The Oxford Companion to Twentieth-Century Literature in English”, trích dẫn bởi John P. Anderson trong cuốn “The poltergeist in William Faulkner’s Light in August”, Universal. Publishers, USA, 2002, trang 16 – ND.
- Một tiểu bang ở miền Nam nước Mỹ, nằm bên bờ đông sông Mississippi, cận kề bang Alabama, thủ phủ là Jackson – ND.
- Banshee: nữ thần có tiếng khóc than đặc biệt, được người ta tin là báo trước cái chết trong một gia đình – ND.
- Casanova (1725-1798), người thành Venice (Ý), nổi tiếng giỏi chinh phục đàn bà con gái – ND.
- Một đô-la Mỹ có 100 xen (cent) – ND.
- Một tiểu bang ở miền Nam nước Mỹ, nằm ở phía Tây sông Mississippi.
Bên kia sông là bang Mississippi – ND. - Một tiểu bang lớn, nằm ở phía Nam bang Arkansas và cũng ở phía Tây sông Mississippi – ND.
- Ngày trước ở Mỹ, cô gái khi lấy chồng thường phải đổi họ riêng của mình sang họ của chồng – ND.
- Possum (còn viết là opossum), một động vật nhỏ hơi giống con chồn, ở Mỹ hay Úc, sống trên cây và mang con trong một cái túi – ND.
- Viết là “sardines” (cá mòi). Từ “sour” có nghĩa là chua – ND.
-Còn tiếp-
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
1 Bình luận