Trà chiều

Bên nhau trọn đời – Trong dáng em cúi đầu

Tôi tình cờ biết em vào những ngày giữa tháng Một năm nay. Những ngày đó tôi đã bị dìm trong nỗi buồn như đang ở dưới đáy nước sâu bơ vơ không điểm tựa.

Published

on

Tôi muốn đọc Dostoevsky ngay tức khắc để thực hiện điều đã tự hứa với chính bản thân mình cách đây bốn năm. Tôi muốn đọc Dostoevsky để đỡ tủi hờn. Tôi muốn đọc Dostoevsky để tiến gần hơn đến điểm ảo ảnh không thể chạm vào được nữa. Tôi muốn Dostoevsky cho tôi câu trả lời của bốn năm vừa qua, của những gì tôi đang phải trải qua… Nhưng tôi không có sức lực để đọc Dostoevsky. Vẫn là những lí do như bốn năm trước: độ dài, cảm giác sợ hãi khi chạm phải một điều gì đó quá nặng nề, quá sâu… và giờ đây còn có thêm lí do nữa là sợ chạm phải vết thương ngày cũ. Thế là vào tháng Một, tôi vẫn chưa đọc Dostoevsky. Tôi chỉ biết lang thang trên News Feed của Facebook suốt ngày nhìn cuộc sống sinh động của mọi người trôi qua trước mắt. Và rồi tôi bắt gặp em. Tôi không nhớ hình ảnh đầu tiên của em mà mình nhìn thấy nhưng tôi nhớ được cảm giác lúc đó. Khi đang lướt trang vùn vụt qua những hình ảnh, tin tức, status, note… ngón tay lướt chuột của tôi đã dừng lại khi thấy hình em. Tôi dừng một lúc lâu để ngắm nhìn em. Rồi tôi lại click vào hình để có thể nhìn em gần hơn một chút, kĩ hơn một chút. Khuôn mặt khả ái này dường như có gì đó vừa thân quen lại vừa xa lạ. Em trông giống một người tôi đã biết từ lâu. Suy nghĩ một lúc, tôi mới nhận ra em có nét giống Gakky những lúc mặt cúi nghiêng hoặc cười mỉm. Tôi muốn xem phim em đóng để kiểm nghiệm điều này nhưng Bên nhau trọn đời là một phim truyền hình được chuyển thể từ tiểu thuyết ngôn tình mà tôi thì lại không mặn mà lắm với thể loại này. Chẳng lẽ chỉ vì muốn kiểm nghiệm một điều như thế mà mất thời gian xem hết 34 tập phim. Thế là sau khi phim chiếu, tôi chần chừ mãi hơn một tuần vẫn không xem. Tôi cố gắng dành thời gian đó để đọc sách nhưng rồi tôi phát hiện chữ không thể trôi vào đầu mình được nữa. Trong khi đó, hình ảnh em vẫn hiện trên News Feed của tôi, thỉnh thoảng tôi lại nghĩ đến em, đến ánh mắt buồn da diết đó… Vì sao ánh mắt ấy lại buồn như thế? Tôi bị cuốn hút bởi khuôn mặt buồn của em còn hơn cả khuôn mặt tươi cười.

Đến một ngày, khi không thể nào kiềm chế được nữa, tôi bắt đầu xem Bên nhau trọn đời tập 1. Tôi nghĩ rằng cứ thử xem tập 1 như thế nào và có thể là chỉ xem tập 1 thôi. Nhưng chỉ trong tập 1, tôi lại bắt gặp ánh mắt đó. Tôi cứ xem đi xem lại nhiều lần phân cảnh Mặc Sênh tình cờ gặp Dĩ Thâm ở siêu thị, ánh mắt em nhìn Dĩ Thâm lúc đó chứa thật nhiều cảm xúc: sững sờ, hoang mang, buồn bã, có chút gì đó chờ đợi, có chút gì đó sợ sệt vì lo lắng người ấy sẽ lạnh nhạt với mình, đồng thời cũng có chút gì đó là niềm vui nhỏ bé thoáng qua khi gặp lại người xưa. Tôi không biết làm sao em có thể diễn được ánh mắt như thế nếu như em không thật sự sống với nhân vật? Trong phim, có rất nhiều cảnh Mặc Sênh buồn bã; ở những phân đoạn như thế, ánh mắt buồn của em có thể giống nhau, có thể không giống nhau nhưng ánh mắt Mặc Sênh nhìn Dĩ Thâm trong lần đầu tiên gặp gỡ sau bảy năm xa cách thì tuyệt nhiên không giống với bất cứ ánh mắt buồn nào của Mặc Sênh sau này. Chính điều đó mà ánh mắt ấy càng quí giá, càng đáng trân trọng, là cảm xúc duy nhất thuộc về khoảnh khắc ấy. Và tôi có thể hiểu rằng em đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình vì quả thực đó chính là một cảnh quan trọng trong câu chuyện này, một khoảnh khắc đáng nhớ với cả hai nhân vật. Đó là lần đầu tiên, tôi thấy đầu em khẽ cúi xuống một chút. Khi Dĩ Thâm lạnh lùng lướt qua em, em không biết làm gì khác ngoài việc đó. Chỉ một cử chỉ nhỏ ấy thôi cũng cho tôi biết rằng em cô đơn, em buồn bã, em tự ti về bản thân mình đến nhường nào.

Và sau đó, tôi đã thấy em cúi đầu rất nhiều lần: những khi em gặp trắc trở trong công việc, những khi em bị sếp hay đồng nghiệp chỉ trích, những khi em bị Dĩ Thâm nạt… Không hiểu sao mỗi khi nhìn em cúi đầu tôi lại thấy… rất thích. Tôi chưa bao giờ thích nhìn thấy ai cúi đầu như vậy. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ thích nhìn bất cứ ai cúi đầu. Nói rằng mình luôn muốn nhìn thấy mọi người tươi cười, hạnh phúc thì nghe có vẻ giả tạo nhưng nếu xét đến việc thích nhìn thấy một cảm xúc tiêu cực nào đó thì trước đây, tôi nghĩ rằng mình thích nhìn thấy ai đó khóc. Tôi thích việc ấy không phải vì tôi thích khi nhìn ai đó buồn mà vì tôi thích khi biết người đó không cần phải kiềm chế cảm xúc lúc ở bên cạnh tôi, vì người đó đã tin tưởng cho tôi thấy lúc bản thân yếu đuối nhất, vì khi có thể nhìn thấy một ai đó khóc và đặc biệt là lúc thường người đó lại tỏ ra rất mạnh mẽ thì nghĩa là mối quan hệ giữa tôi và người đó đã trở nên thân thiết hơn. Vì những điều đó mà tôi thích khi có thể nhìn thấy một người khóc trước mặt tôi. Còn cúi đầu thì tôi đã từng nghĩ mình sẽ không thích. Đơn giản vì khi một ai đó cúi đầu nghĩa là người đó đang rất sợ hãi, rất tự ti, rất e dè, cũng có thể là rất buồn… Nhưng nỗi buồn khi cúi đầu rất khác với nỗi buồn khi khóc. Khi cúi đầu, dường như người ta đang muốn thu mình lại, muốn trốn tránh người đối diện, không muốn cho người đối diện thấy những cảm xúc của mình; trong khi khóc thì lại phơi bày hết tất cả nỗi buồn cho đối phương biết. Vậy nên, tôi không thích khi nhìn thấy người khác cúi đầu với mình những lúc buồn. Điều đó nghĩa là họ đang trốn tránh tôi hoặc tôi không thể cho họ cảm giác thoải mái để bộc lộ bản thân. Nhưng vì sao mỗi lần nhìn em cúi đầu, tôi lại cảm thấy thích đến như thế? Dường như dáng vẻ ấy đã chạm đến một điều gì đó sâu trong tâm trí tôi. Cách em cúi đầu dù với nguyên do gì, trong bất cứ trạng huống nào cũng đều không hề cho tôi cảm giác em là người yếu đuối. Có thể em đang là người yếu thế trước mặt mọi người do sự tự ti và cô độc nhưng yếu đuối thì không. Một chút cũng không. Ngược lại, tôi cảm nhận được sự mạnh mẽ sau chính cử chỉ có lẽ dễ bị đánh giá là yếu đuối ấy. Thực tế, tôi khá bất ngờ trước những hành động của em. Với kinh nghiệm xem phim thần tượng từ khoảng mười năm trước, tôi nhận thấy nhân vật nữ chính thường là những cô gái hiền lành, ngây thơ, vô tư, thẳng thắn. Những cô gái ấy nếu đặt trong hoàn cảnh của em thường sẽ phản ánh bằng cách nói thẳng những suy nghĩ của mình, những uất ức của mình mà không chút e dè sẽ làm mất lòng đối phương; nhờ chính sự vô tư đó, chẳng những đối phương không ghét mà ngược lại còn yêu mến. Đó là cách các cô gái ấy thu phục lòng người trong những bộ phim đó. Lúc đầu, trong dáng vẻ em cúi nhìn ấy, tôi đã lầm tưởng em cũng giống các cô gái ấy. Nhưng dần dần tôi phát hiện ra em không hề giống những cô gái ấy. Trong công việc, khi đồng nghiệp hay sếp chỉ trích em, bất kể là em đúng hay em sai, người ta có hiểu lầm hay không, phản ứng đầu tiên của em cũng đều là cúi đầu im lặng, không giải thích nhiều. Dáng vẻ đó không hoàn toàn là dáng vẻ của người yếu thế, tôi cảm nhận đó còn là dáng vẻ của người có trách nhiệm, người sẵn sàng nhận lỗi trong phạm vi công việc của mình cho dù lỗi ấy có thể đến từ nguyên nhân khách quan. Và quả thực, em đúng là như thế. Em không thẳng thắn nói ra những suy nghĩ của mình hay cố gắng tranh cãi lí lẽ khi bị chỉ trích nhưng em lặng lẽ tìm những giải pháp và làm nốt các phần việc còn thiếu sót. Tôi thật sự thích hình ảnh em những lúc đó. Quả thực, đó chính là hình ảnh của người trưởng thành đã trải qua nhiều mất mát trong cuộc đời: dù có những mặc cảm nhất định về bản thân nhưng lại là người điềm tĩnh, có thể kiểm soát tốt cảm xúc của mình, không tranh chấp lí lẽ những chuyện không đáng, biết nhu biết cương.

Dáng vẻ em cúi đầu trước bạn bè hay đồng nghiệp trong công ty cũng khác với dáng vẻ em cúi đầu trước Dĩ Thâm. Khi bị Dĩ Thâm nạt, em sẽ giật mình, có khi run bắn cả người lên và lúc cúi đầu thì hai vai sẽ so lại nhiều hơn, đầu cũng cúi sâu hơn. Nếu như dáng vẻ em cúi đầu trước đồng nghiệp giống như dáng vẻ của người trưởng thành sẵn sàng nhận lỗi, không thèm tranh chấp thì dáng vẻ em cúi đầu trước Dĩ Thâm lại giống dáng vẻ của một đứa trẻ sợ hãi khi biết mình đã phạm phải lỗi lầm rất lớn và đồng thời cũng có dáng vẻ cam chịu của người phụ nữ khi đứng trước người đàn ông mình yêu. Hai dáng vẻ cúi đầu đó rõ ràng khác nhau. Vì vậy, tôi không hề thấy nhàm chán khi nhìn em cúi đầu.

Em biết không, những ngày này tôi lại nhớ đến mùa hè cách đây mười mấy năm, mùa hè khi tôi học lớp 8. Tôi nhớ da diết mùa hè năm đó. Bây giờ, nếu có thể quay ngược thời gian thì tôi sẽ chọn mùa hè năm đó. Lúc ấy, tôi còn nhỏ, tôi còn khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, không chút bệnh tật, dù có một nỗi buồn rất lớn luôn đeo bám mỗi ngày nhưng tôi biết mình muốn làm điều gì và tôi say mê làm theo điều ấy mà chẳng hề bận tâm kết quả sẽ ra sao. Mùa hè năm ấy tôi đã học tiếng Trung cùng chị tôi trong một ngôi trường nằm cạnh nhà thờ. Tôi không bao giờ muốn quên không khí những buổi tối đi học đầu tiên, những bài giảng đầu tiên, những khái niệm đầu tiên về tiếng Quan Thoại, những nét bút đầu tiên tôi say sưa tập viết chữ Hán… Ở thời điểm đó, việc học tiếng Trung đã cứu rỗi tôi rất nhiều: mùa hè của tôi trở nên sinh động hơn, có gì đó để yêu da diết, có gì đó làm động lực để cố gắng. Tôi còn nhớ mỗi lần tập viết xong một trang giấy, tôi đều ngừng lại ngắm nhìn một chút trước khi qua trang mới và nghĩ rằng chữ Hán thật đẹp. Dù chỉ là ba tháng hè ngắn ngủi, tôi còn nhớ ngày đó mình đã yêu chữ Hán giống như một người bạn, một người tình, một người quan trọng mà chỉ cần mỗi ngày tôi có thể biết thêm chút gì về người đó là tôi rất vui, mỗi lần học thêm được chữ mới là tôi lại phấn khích vô cùng. Chữ Hán thật đẹp em nhỉ… Có lẽ cũng nhờ ba tháng hè chăm chỉ học tiếng Trung ấy mà sau này nhiều năm, khi bắt đầu học tiếng Nhật, tôi không quá bỡ ngỡ khi bắt đầu học những chữ Hán người Nhật sử dụng. Ngược lại, càng học tôi càng nhớ tiếng Trung vô cùng. Lúc bắt đầu học, mỗi lần bắt gặp một chữ quen thuộc tôi luôn nghĩ từ này trong tiếng Trung đọc như thế này, tại sao người Nhật lại đọc thành như thế này? Tôi mang tâm trạng đó khoảng một năm đầu tiên khi học tiếng Nhật và sau đó thì dần dần tôi mới hết tâm trạng này. Nguyên nhân tôi chỉ học tiếng Trung ba tháng là vì khi vào lại năm lớp 9, mẹ muốn tôi nghỉ học để tập trung ôn thi tốt nghiệp. Tôi đã luôn tự nhủ khi tốt nghiệp cấp 2, việc đầu tiên mình làm sẽ là tiếp tục học tiếng Trung. Nhưng rốt cuộc, tôi đã dừng lại cho đến bây giờ. Và ba tháng ngắn ngủi đó trở thành ba tháng duy nhất tôi học tiếng Trung. Cũng vì hối tiếc sự dở dang đó mà khi bắt đầu học tiếng Nhật, tôi đã quyết tâm phải học đến nơi đến chốn, không thể để có thêm một sự dang dở nào nữa.

Quay lại mùa hè năm nay.

Bây giờ, tôi đã khác với tôi của mùa hè năm lớp 8 rất nhiều. Tôi yếu đuối hơn, sức khỏe kém hơn, bệnh nhiều hơn, ngủ nhiều hơn, làm việc ít hơn, động não suy nghĩ cũng ít hơn, buồn nhiều hơn, tự ti nhiều hơn. Vậy nên, tôi cần nhiều nguồn năng lượng hơn, cần nhiều niềm an ủi hơn, cần nhiều sự ấm áp hơn. Và tôi đã tìm được em giữa tháng Một năm nay lúc tôi đang tuyệt vọng nhất. Khi xem phim của em, tôi đã phần nào có được điều tôi cần. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận ra nhờ ngắm nhìn em vào tháng Một, tôi đã có năng lượng để bắt đầu đọc Dostoevsky suốt từ tháng Hai đến tháng Năm: Lũ người quỉ ám, Là bóng hay là hình, Bút kí dưới hầm, Tội ác & Trừng phạt… Tôi đã muốn đọc nốt Anh em nhà Karamazov…, đọc hết tất cả những tác phẩm của Dostoevsky mà tôi có thể đọc bằng tiếng Việt trước sinh nhật năm nay. Nhưng cuối cùng, tôi đã không thực hiện được điều đó. Vẫn còn hai tác phẩm của Dostoevsky tôi chưa đọc. Tháng Sáu, tháng Bảy tôi đã mệt nhoài. Tôi đọc những quyển sách khác. Và tháng Tám thì tôi đổ gục hoàn toàn. Không còn một chút năng lượng để đọc sách nữa dù lòng rất muốn. Tôi lại nhớ đến em. Không chịu nổi nữa. Và tôi lại tự dễ dãi cho phép bản thân mình giải trí. Tôi biết rằng một khi tôi quyết định xem phim truyền hình giải trí, tôi sẽ trải qua những tâm trạng như thư giãn, say mê rồi sau đó là buồn bã, hối tiếc giá như mình đã dành thời gian đó để đọc sách hoặc nếu có xem phim thì cũng phải xem phim điện ảnh nghệ thuật cho đỡ tiếc. Nhưng trải qua tháng Một gian khó năm nay và tháng Hai đến tháng Năm miệt mài đọc Dostoevsky, tôi biết rằng có thể tôi sẽ chẳng học được gì khi xem một phim truyền hình giải trí nhưng tôi sẽ có được sự ấm áp, nguồn năng lượng tôi cần phải có để tiếp tục những điều tôi muốn làm. Có lẽ đó cũng là giá trị của một tác phẩm giải trí: nó khiến ta hoàn toàn thư giãn. Nhưng tôi sẽ cố gắng để bản thân mình không lún sâu vào sự dễ dãi như lúc trước nữa. Chỉ là mệt quá dừng chân nghỉ lại một lúc thôi. Nó là những trạm dừng của tôi, không phải bến đỗ. Tôi phải luôn ghi nhớ điều này. Và tôi sẽ lại đọc sách vào tháng Chín, những cuốn sách tôi đã muốn đọc từ lâu, những cuốn sách không phải cho tôi sự giải trí, thư giãn, cảm xúc mà là suy nghĩ, tra vấn, học hỏi. Chúng ta sẽ lại tạm chia tay nhau. Và năm sau chúng ta gặp lại.

Những ngày hè cuối cùng của năm nay đã gần kết thúc.

Trong dáng em cúi đầu, tôi thấy một nỗi buồn ấm áp, một hạnh phúc nhỏ bé đang khẽ rơi vào lòng mình.

Đường Đường… cảm ơn em vì đã đến.

Hết.

Freegene


Bài viết cùng chủ đề



Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng