Phía sau trang sách

The Memory Police: Nét bút Á Đông giữa cảnh dystopia tăm tối

Published

on

“Điều tồi tệ nhất của việc giữ những ký ức không phải là nỗi đau, mà là sự cô độc. Ký ức cần phải được chia sẻ.”

– Người truyền ký ức, Lois Lowry

“Khi tôi lang thang qua những khoảnh rừng của ký ức, những tấm ảnh là thứ la bàn đáng tin cậy nhất. Nhưng thời gian cứ thế tiếp diễn. Thật tệ khi đánh mất chiếc la bàn ấy, nhưng tôi không còn sức lực nào để kháng cự sự tan biến kia.”

– The Memory Police, Yōko Ogawa

Đầu tiên, nói thật lòng thì tôi vốn được Bookish mời tham gia bài viết bàn tròn xoay quanh giải International Booker 2020 cùng minh. từ đầu những ngày tháng 4. Tôi nhận lời và tiến hành đọc danh sách rút gọn, từ cuốn đầu tiên là Tyll đến cuối cùng, sát ngày trao giải, là The Adventures of China Iron. Nhưng đại dịch kéo dãn buổi trao giải và bẵng ba tháng sau đến ngày hôm kia, khi nghe được thông tin trao giải; tôi, minh. và Bookish không trở tay kịp, và bài viết bàn tròn rơi vào quên lãng.

Nhưng để hỏi tôi có chuẩn bị trả lời bài phỏng vấn ấy không, thì câu trả lời là có, và tôi mong được hỏi đến câu nào nhất, thì là, dự đoán của tôi cuốn nào sẽ thắng? Lại trần tình một điều tiếp đến, tôi hy vọng đó là The Memory Police (tạm dịch Cảnh sát ký ức). Đối với tôi, người đọc Yōko Ogawa lần đầu, nhận thấy cuốn sách này đẹp, và hẵng buồn. Bà có thể nhẹ nhàng, tình cảm, phảng phất một nét buồn cô động của Banana Yoshimoto; nhưng cũng có lúc lạnh căm, bất động, mang nét của Murakami trong mỗi phân đoạn câu chuyện. Yōko Ogawa đánh gục tôi bằng cốt truyện, bằng cảm quan và sự tinh tế, nhưng bà cũng khắc sâu vào tôi nhát dao của cái buồn bãng lãng, bò trườn nhẹ nhàng như một con rắn chà xát trên da.

Yōko Ogawa. Ảnh: Kanpai!

Đứng trước thế giới tan hoang vào những ngày này, các tiểu thuyết hậu tận thế – phản địa đàng như đang bước lên một ngôi vị mới chưa từng chiếm giữ từ trước đến nay. Nếu trước đó con người ta vẫn sống dửng dưng với thời đại mình, khi tiểu thuyết khoa học kỳ ảo có đôi ba lúc bị gọi với danh ba xu, còn phản địa đàng như kiểu văn chương của thời mạt thế. Nhưng nhận thức mới đã không đến trễ, và ngay sau nó là những sinh vật nhỏ bé li ti nhưng sức công phá vô cùng mãnh liệt. Chúng ta từng há hốc mồm với thế dystopia của Lois Lowry trong Người truyền ký ức hay Chuyện người tùy nữ của Margaret Atwood; chúng ta cũng từng bất ngờ khi 28 của Jeong You-Jeong, Tro tàn sắc đỏ của Pyun Hye-Young hay Mùi Adam của Jean-Christophe Rufin lại thật trùng khớp trong những ngày này. Điều đó càng chứng tỏ tiểu thuyết phản địa đàng không đáng được gọi với danh mạt thế, dù theo bất kỳ nghĩa nào – dự đoán tương lai, nhìn nhận hiện tại.

Ra mắt vào năm 1994, The Memory Police của Yōko Ogawa thật sự là tiếng vọng lớn vào trong thế giới ta đang sống. Và tiếng vọng ấy đi theo hiệu ứng Doppler như càng vọng xa ra khỏi hai bờ vách ngăn ngôn ngữ. Với sự chuyển ngữ đầy mượt mà của Stephen Snyder, Cảnh sát ký ức lại một lần nữa sống dậy. Rõ ràng sau ngần ấy năm, giá trị của nó không hề cũ. Sự tinh tế của Yōko Ogawa đã xây nên một tiểu thuyết chấn động nhưng cũng đầy hy vọng. Cuốn sách là bản hòa thanh của nhiều cung bậc, qua đó ta sẽ nhận ra những điều ẩn sâu vẫn còn giấu kín dưới tầng tầng lớp lớp chữ nghĩa văn chương.

*

Mượn tóm tắt từ minh., The Memory Police là câu chuyện của nữ tiểu thuyết gia sống trên hòn đảo không tên, nơi ký ức được xem như một mối hiểm nguy. Cứ cách một khoảng thời gian, một thứ gì đó sẽ lại biến mất và rơi vào quên lãng. Từ đây, cảnh sát ký ức nghiên cứu và phát triển khả năng nhận biết những ai kháng lại sự tan biến bằng cách phân tích chuỗi gene, và đây là lúc những người bình thường phải chạy trốn sự truy bắt. Cô nhận che giấu R – biên tập viên, người hiệu chỉnh tiểu thuyết của mình, vì anh là một con người “hoàn toàn” – nghĩa rằng vô cảm trước mọi sự biến mất. Cũng trong lúc đó, thế giới ngoài kia mọi sự dần đổi thay. Từ loài chim biến mất, cho đến hoa hồng, trái cây, tấm ảnh, lịch bàn, tiểu thuyết, chân trái, tay phải,… và cuối cùng là tất cả.

Với tiểu thuyết này, Yōko Ogawa đã xây dựng hai tuyến nhân vật song song nhau và cũng đồng thời trái ngược nhau. Một bên là toán cảnh sát mà nhiệm vụ đầu tiên […] là củng cố sự tan biến, và một bên là những dân làng ngây thơ không thể kháng cự. Hai tuyến nhân vật luôn tồn tại trong mọi cuốn sách phản địa đàng, đại diện cho hai vai vế đối nghịch trong một xã hội: trên – dưới, thống trị – bị trị, quyền lực – nghèo khổ… Giữa hai tầng lớp ấy không có thứ gì khác gắn kết họ ngoài nỗi sợ và lòng căm thù. Nếu cảnh sát ký ức là lũ chó săn mà mùi hương duy nhất đánh động được chúng là những vật thể đáng lẽ phải quên, thì người dân sống trên hòn đảo ấy chỉ như những con mèo đói lả rách rưới chực chờ đứng đợi răng nanh móng vuốt quào ập xuống mình. Họ phải cẩn trọng từng li từng tí, không được mua nhiều bánh mì hơn số lượng thành viên trong gia đình cần hay thậm chí những cái bóng cử động sau tấm màn; và từ đó, như nữ tiểu thuyết gia bộc lộ: tôi cảm thấy, một lần nữa, nỗi lo lắng đã bén rễ sâu trong trái tim mình đã từ rất lâu rồi.

Dĩ nhiên, trong cộng đồng những người dân làng ấy, hai phe tiếp theo lại được chia ra, một bên bình thường – cam chịu và một bên đột biến – vực lên. Nếu trong Người truyền ký ức, Jonas là cậu bé được cộng đồng chọn bằng vẻ đặc biệt của mình, thì trong Cảnh sát ký ức, người ấy là R – người chưa từng quên bất cứ thứ gì. Nếu lũ chó săn đại diện cho cái ác, cho nỗi diệt vong; thì R tồn tại ở đó như thứ chân thật, như niềm hy vọng còn sót lại sau cùng. Mượn tính cách của từng nhân vật, Yōko Ogawa như muốn thể hiện sâu hơn nhân sinh quan của mình nói riêng, và của châu Á – phương Đông nói chung: trận chiến giữa cái ác và cái lành, giữa cam chịu và diệt vong, giữa mưu kế và chân thật.

Ở đó ta thấy cái ác luôn chiếm ưu thế. Như thể một vài chi tiết mà Yōko Ogawa cố gắng khắc họa: nội thất của nơi trụ sở làm việc, chiếc xe chở đi mất người mẹ của nữ nhà văn hay chi tiết chân trái của bọn cảnh sát không biến đi mất trong khi người khác thì mất. Cũng từ đó, hình tượng một anh hùng được khắc họa – người được chọn và duy nhất bước ra ngoài đó, cứu lấy thế giới. Có chăng là với Yōko Ogawa, bà đã không xây dựng một kiểu truyện trẻ con màu hồng như thế. Cái thiện vẫn là thiểu số và luôn lẩn trốn. Họ là những que diêm đứng tách rời nhau, chỉ đợi đến lúc tàn cuộc để cháy một lần rồi thôi. Từ đó một nhân sinh quan vô cùng châu Á như dần hiện lên, giữa hai đối cực của thiện và ác, bị hút vào nhau, gắn kết với nhau.

*

Và mối quan hệ giữa mỗi con người trong tiểu thuyết này được bà nhân lên như cách ít nhiều cho thấy còn đó là niềm hy vọng. Bỏ qua chính thế đối đầu giữa bọn cảnh sát và những người dân; mỗi một người họ đều chứa trong mình một niềm tin yêu vô cùng dai dẳng. Họ sống một đời yếu thế không hề dễ dàng, thế nhưng giữa họ là niềm tin yêu vô cùng thiền định. Ta dễ nhận thấy thể như ông lão và cô nhà văn, giữa người bán cá – ông làm ô cùng với lão già, gia đình cách biệt với người thanh niên mà họ che giấu, hay nữ nhà văn và chú chó Don… Tất cả ở mỗi người họ là sự hiện diện như cách chứng minh hy vọng vẫn còn. Một niềm hy vọng tươi sáng lạc quan.

Ở đó mượn nhân vật R, những điều Yōko Ogawa mong muốn truyền tải đến với người đọc đã được truyền đi một cách dễ dàng. Bằng sự ủi an nữ nhà văn những ngày cuối cùng, anh như nói với người đọc về sự khó khăn, về nỗi căm hờn, về hy vọng mới: Em có thể nghĩ rằng ký ức chính nó sẽ biến tan dần mỗi khi có sự tan biến nào đó, nhưng không phải thế. Chúng chỉ lướt qua nơi một cái hồ ánh sáng không thể chạm đến. Tất cả những gì em phải làm là khuấy đôi tay mình vào đấy để nắm lấy thứ gì có thể. Vài thứ sẽ mang ra ánh sáng từ đó.

*

Ngoài ra, với nghệ thuật truyện lồng trong truyện, Yōko Ogawa cũng khéo léo lồng ghép vào đó niềm tin về niềm hy vọng cuối cùng bà muốn truyền tải. Câu chuyện về cô gái câm và anh đánh máy, về sự chờ đợi và nỗi ngục tù, về sự luân hồi và tương lai mới. Dường như, Yōko Ogawa đang xây nên thế liên tục, tuần hoàn của con rắn Ouroboros, khi cái kết của câu chuyện này rồi thành mở đầu cho câu chuyện sau, hoặc giả là sự ngược lại. Cả hai câu chuyện lồng ghép trong nhau, móc nối vào nhau, che chắn lẫn nhau và hút cạn nhau như một nhập nhằng của cái kết mở. Tuy kết thúc truyện là một cái kết không thể mở hơn, nhưng Yōko Ogawa đã đủ tinh tế để hướng người ta đến nỗi hy vọng – một nét đặc trưng vô cùng Nhật Bản ở các tác gia nữ.

Cảnh sát ký ức, mượn một nhan đề của Kawabata Yasunari để nói về nó – là một cuốn tiểu thuyết rất “đẹp và buồn”. Đẹp về nỗi hy vọng cuối cùng, về những con người tồn tại trong đây; nhưng buồn vì một đời sống đã quá khó khăn, vì sự đứt lìa của mối gắn kết, vì một tưởng tượng 20 năm trước rồi đây sẽ rất có thể trở thành hiện thực. Yōko Ogawa bằng sự nhạy cảm vô cùng tinh tế đã khắc họa nên bức tranh tỏ vẻ u sầu nhưng được phủ lên lớp men đầy màu hy vọng. Và cũng bởi thế, Cảnh sát ký ức thật sự là cuốn sách hay, dẫu bao thời gian đã trôi vút qua, nhưng tiếng vọng ấy sẽ mãi còn lại. Biết đâu ngày tháng nào đó, chính tiếng vọng ấy lại một lần nữa ào qua không gian; tuy không chiến thắng lần này, nhưng mãi còn lại trên từng giá kệ, trong những tâm tưởng, và trong chúng ta. Rất đẹp và buồn.

Hết.


Bài viết có những phân đoạn chứa ý kiến từ minh. bởi trong quá trình làm việc chung để chuẩn bị cho bàn tròn International Booker 2020, việc lắng nghe & tiếp thu thụ động là không tránh khỏi. Cám ơn minh. đã cho phép sử dụng những phân đoạn này.

Ảnh đầu bài: Books & Bao

*

The International Booker Prize 2020




Đọc tất cả bài viết của bí


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng