Chuyện người cầm bút

Về thơ

Thơ với tôi là không khí của những buổi trưa ấy. Máy điều hòa chạy lặng lẽ, tĩnh tại và một ánh mắt dõi nhìn những dòng thơ. Thế giới rời rạc nhưng được kết nối.

Published

on

Tôi muốn viết về thơ vào những ngày đầu tiên của tuổi mới. Thực ra, tôi muốn viết về thơ vào những ngày cuối cùng của tuổi cũ. Chính xác hơn thì tôi muốn viết về thơ vào ngày 15.6 khi vừa viết xong hai bài thơ mới sau khoảng thời gian khá lâu không viết được dòng thơ nào thì ý tứ cho hai bài thơ ấy bất ngờ đến với tôi vào một ngày thứ sáu buồn bã, nhiều nước mắt và tôi viết một mạch là xong không những một mà hai bài. Điều này đối với tôi thật đặc biệt. Vì từ trước đến nay, tôi luôn viết thơ rất chậm, cũng giống như viết bất kì thứ gì khác, review về sách hay phim, truyện ngắn hay tiểu thuyết (đã quá lâu rồi tôi không viết tiểu thuyết, đã năm năm có chẵn). Tôi đã không thể viết được thơ một mạch trong vòng vài chục phút hay vài tiếng đồng hồ như bao người. Đa phần những bài thơ tôi viết nhanh thì mất một, hai ngày hay một tuần, lâu thì có khi mất cả tháng hoặc đến hai, ba tháng cũng có nếu tính từ lúc hình thành ý tưởng cho đến khi thận trọng viết một câu rồi hai câu, rồi gọt giũa lại câu từ, hình ảnh và rồi hoàn tất cả bài. Tôi viết thơ mà chậm như người ta viết truyện ngắn vậy, thế nên đến ngày nay, nhiều khi tôi vẫn còn phân vân không biết những gì mình viết ra có phải là thơ không, bởi lẽ dường như thơ là chỗ cho những khoảnh khắc và cảm xúc, hoặc suy tưởng trong những khoảnh khắc, một lát cắt thời gian ngắn gọn hơn là một dòng chảy chậm chạp, rề rà, trôi ngắc ngoải lâu lắc lâu lơ như thế. Càng ngày tôi càng làm mọi thứ một cách chậm chạp và trì hoãn. Chẳng hạn như những dòng này cũng là một ví dụ điển hình cho sự chậm chạp và trì hoãn ấy, lẽ ra tôi đã phải viết nó từ cách nay một tháng hơn, ngay lúc cảm xúc còn mãnh liệt, cuồng nhiệt, dữ dội, hân hoan và buồn bã rồi lại được giải phóng khỏi buồn bã sau khi viết hai bài thơ ấy. Nhưng tôi đã trì hoãn, để rồi bây giờ sau một tháng mới khởi sự viết lại, tôi giống như một người thấy cơm ngon, nóng hổi trước mặt lại không chịu ăn ngay, để khi nó nguội rồi lại dụng công hâm nóng mặc cho việc thưởng thức sự nguội lạnh đôi khi cũng là một cái hay, nó nhắc nhở ta về những điều đã mất nhưng không mất đi hoàn toàn đôi lúc còn tạo ra những cảm xúc ngang trái hơn là việc phải chịu cảnh nó vĩnh viễn không còn hiện diện nữa: cơm vẫn còn đó, nó không thay đổi về lượng, những phép tính về vật chất, nhưng nó thay đổi về tính, nó không còn nóng nữa, nó đã nguội, dù hâm nóng nó thì trạng thái nóng sau khi đã từng nguội lạnh vẫn rất khác so với cái nóng nguyên sơ ban đầu. Vậy nên, tôi không đoan chắc những gì tôi sắp viết dưới đây còn giữ được đầy đủ tinh chất của cái nóng trong hạt cơm vào tháng sáu ngày hôm ấy hay không; nhưng chí ít, tôi sẽ cố gắng tái tạo lại hình dạng vật chất của nó, hình dạng của bát cơm ấy, của thơ, của nỗi buồn, của bầu trời màu cam đỏ ngoài khung cửa sổ như muốn đốt cháy hết những tòa nhà nó bao trùm.

Vì sao tôi muốn viết về thơ?

Đơn giản vì tôi chợt nhận ra mình đã viết kha khá về sách, phim, nhạc, về việc viết, việc đọc, về ti tỉ những thứ vụn vặt tôi góp nhặt trong cuộc sống, nhưng hình như tôi chưa từng một lần nghiêm túc viết về thơ, về việc viết thơ của tôi, một lần trải lòng dông dài về nó thật sự theo kiểu cách của tôi. Trước đây, tôi chỉ viết vài ba phiến đoạn lắn ngắn về thơ vào khoảng năm 2012 khi đang buồn tình. Không hẳn là bây giờ, tôi đã có thêm những suy nghĩ mới, nghiêm túc hơn về thơ so với hồi đó. Có lẽ, tư duy trong thơ tôi vẫn vậy. Chỉ là đột nhiên tôi muốn hồi tưởng lại mối quan hệ giữa tôi và thơ, những gì chúng tôi đã trải qua cùng nhau để suy nghĩ về tương lai. Nếu không viết ra thì tôi sẽ khó lòng hệ thống được những suy nghĩ trong đầu mình.

Hồi học cấp hai và cấp ba, đôi lúc tôi cảm thấy mình thích viết thơ còn hơn cả truyện ngắn hay tiểu thuyết. Với suy nghĩ trẻ con khi đó thì lí do chỉ đơn giản là vì thơ viết nhanh, dễ, thiên về cảm xúc hơn so với hai thứ kia: vừa mất thời gian hơn, vừa khó hơn, vừa dụng công và tính toán nhiều hơn. Tôi vẫn còn nhớ vào những năm cuối cấp hai, tôi mua một loạt tuyển tập thơ in thành cuốn nhỏ do nhà xuất bản Đồng Nai làm, với những nhà thơ Việt Nam chủ yếu từ phong trào Thơ Mới. Tôi đọc say sưa và có những bài thích quá, còn cố gắng lẩm nhẩm đọc nhiều lần để học thuộc, không hiểu sao khi ấy tôi rất thích việc có thể đọc làu làu những bài thơ mình thích cho người khác nghe, tôi cũng thích hình ảnh một người tri thức hễ đụng đến nhà thơ nào là đều có thể trích dẫn ra vài câu thơ của nhà thơ đó, tôi cho rằng việc ấy rất ngầu và muốn mình cũng làm được. Thời ấy, tôi vẫn còn sến súa (có lẽ bây giờ vẫn vậy) và hay mơ mộng yêu đương nên một trong những bài thơ mà tôi thích nhất lúc chuyển giao giữa học cấp hai và cấp ba là bài Em gần gũi, em xa xôi của Tế Hanh. Không hiểu sao tôi lại thấy rất đồng cảm khi đọc bài này, có lẽ vì khi ấy tôi yêu đơn phương nhiều quá chăng.

Vào năm cấp ba, không nhớ rõ là lớp 10 hay 11, tôi làm thơ liên tục, kiểu thơ tình con cóc nhảy ra nhảy vào mà đến bây giờ đọc lại, tôi vẫn còn thấy xấu hổ, chỉ muốn độn thổ, không hiểu sao lúc ấy mình lại có thể viết như thế. Chính vì là thơ tình (có lẽ không thể gọi là thơ) nên tôi viết rất nhanh, chỉ cần có cảm xúc thì ào ào mấy chục phút là xong. Khi ấy, tôi không hề biết đến việc gọt giũa câu chữ, chọn từ cho thật kĩ, hình ảnh cho thật đắt, tôi chỉ viết theo cảm xúc và khi đọc lại thì sửa sao cho nghe có tí vần điệu là được. Tôi vẫn còn nhớ mình lấy một xấp giấy khổ A4 có kẻ sẵn hàng ngang đã ố vàng được kế thừa từ hai bà chị để viết lên đó những bài thơ tình sến súa bằng chữ viết tay nguệch ngoạc xấu xí của mình. Tôi viết có lẽ cũng khoảng vài chục bài với xấp giấy đó. Không phải khi ấy tôi không biết gõ máy tính, sự thực thì tôi đã viết thơ trên máy tính được một khoảng thời gian trước đó, nhưng tự tôi cũng nhận thấy chúng thật sự dở. Rồi tôi nghe nói rằng quay về viết tay có khi sẽ viết hay hơn vì khi viết tay, bạn được kết nối trực tiếp với những gì bạn viết, con chữ không phải đột nhiên hiện lên như nhảy xổ vào bạn trên màn hình trắng với con chuột nhấp nháy đằng sau, tôi nhớ rằng có ai đó đã nói viết tay như một dòng chảy, bạn tạo ra một dòng chảy xuyên suốt từ não xuống bàn tay, xuống những đầu ngón tay cầm bút, xuống cây bút, xuống ngòi bút, xuống những dòng mực, và những dòng mực truyền xuống những trang giấy, miên man, bất tận không ngừng. Chính sự liên tục và kết nối mật thiết này sẽ khiến cho bạn có khả năng xuất thần hơn khi viết bằng tay so với đánh máy, bạn dễ nảy ra những ý tưởng táo bạo hơn vì dòng chảy mạnh mẽ đó đôi khi sẽ cuốn trôi bạn đến những bến bờ bạn không thể ngờ tới. Vân vân và mây mây. Vì những lập luận hết sức thuyết phục đó, tôi cũng thử thay đổi một phen, trong vòng một, hai tháng viết liền tù tì mấy chục bài thơ bằng tay lên giấy. Tôi cố gắng không đọc lại chúng quá nhiều khi vừa viết xong để giữ cho bản thân sự bất ngờ trong tương lai khi đọc lại lúc nhập liệu vào máy tính. Và khi nhận thấy đã viết đủ nhiều, tôi quyết định đánh máy lại. Khoảnh khắc đó, tôi nhận ra một sự thật chua chát: dù đã viết tay, thơ tôi dở vẫn hoàn dở; thậm chí, có vẻ như vì chữ viết tay của tôi xấu quá, tôi khiến chính tôi mất đi cảm hứng, những bài thơ viết tay dường như còn dở tệ hơn so với những bài thơ đánh máy. Tôi vốn ghét sự xấu xí và nguệch ngoạc, tôi thích sự cẩn thận, chỉn chu, tươm tất, vì thế tôi ghét chữ viết của chính mình bởi nó luôn chỉ ra điều ngược lại. Vừa viết và vừa liên tục nhìn thấy thứ mình ghét mỗi lúc một xuất hiện dày đặc thêm có lẽ là nguyên nhân khiến tôi cảm thấy thơ viết tay của mình dở hơn thơ đánh máy. Chưa kể, vấn đề còn nhọc nhằn hơn khi giờ đây tôi phải rị mọ đọc lại những dòng chữ xấu xí của mình, cố đoán già đoán non ở một số chỗ xem tôi đã viết gì, và rồi phải nhập lại những dòng thơ chính mình cũng không thấy có gì thú vị. Nhưng tôi không thể bỏ phứt nó đi luôn mà không nhập, với bản tính cố hữu là một người thích sưu tầm, nhặt nhạnh, thích giữ lại hơn là vứt đi, tôi vẫn cứ gõ lại những gì chính tôi cũng không thích lắm, nỗi thất vọng của tôi, sự kì vọng hoài công. Trải nghiệm không mấy vui vẻ đó khiến tôi quyết định sau này, tôi sẽ đánh máy trong hầu hết các trường hợp có thể nếu không bị bắt buộc phải viết tay. Với nét chữ xấu xí của mình, tôi vừa khiến cho việc viết tay dở hơn đánh máy, vừa khiến cho mình mất thời gian nhiều hơn khi phải gõ lại những gì mình đã viết. Đương nhiên, đó chỉ là sự bao biện của tôi: viết dở là viết dở, chẳng liên quan gì đến tay hay máy, vấn đề nằm ở tư duy và trải nghiệm đọc, sự chịu khó tìm tòi học hỏi – đó là tất cả những thứ tôi đã thiếu vào năm cấp ba (bây giờ, cũng không hẳn là tôi đã có vẹn toàn những phẩm tính này mọi lúc, mọi nơi).

Tôi vẫn còn nhớ vào năm cấp hai, khi tôi cố gắng viết truyện, cố gắng viết sao cho hay và hấp dẫn, đồng thời cũng cố gắng cải thiện điểm văn lẹt đẹt năm phẩy mấy ở trường để không bị khống chế học sinh giỏi thì tôi đã rất thất vọng khi hai bà chị – những độc giả duy nhất của tôi lúc đó bảo truyện tôi chán, còn điểm văn trong trường thì chính thức biến tôi thành học sinh khá dù điểm trung bình các môn cộng lại là trên tám phẩy. Mọi thứ dường như khựng lại, ở yên một chỗ, không sao tiến triển được. Chị ba khi ấy khuyên tôi: “Muốn viết hay, trước hết em cần phải đọc nhiều đã. Không cần phải cố gắng viết quá nhiều đâu, cứ đọc nhiều rồi tự dưng một lúc nào đó sẽ viết hay.” Tôi biết lời khuyên này cũng chí lí (sau này thì tôi nhận ra rằng nó quá chính xác, đến nỗi gần như một thứ chân lí), nhưng không hiểu sao đứa tôi lúc đó lại không chịu nghe theo. Tôi đã ham viết hơn ham đọc. Tôi nhớ ngày ấy mình có thích một ca sĩ nào đó, và người ấy có nói câu này (chẳng biết có phải là Đàm Vĩnh Hưng không): “Hát hay không bằng hay hát.” Thế là tôi cũng đem câu ấy áp dụng y hệt vào việc viết: “Viết hay không bằng hay viết.” Đó giống như câu thần chú của tôi mỗi lần tôi buồn vì bị điểm văn kém, mỗi lần tôi nản lòng không muốn viết truyện nữa khi về nhà sau những giờ học hay trong suốt ba tháng hè lủi thủi một mình. Tôi đã niệm câu thần chú đó để trấn an mình, để tiếp tục viết những câu chuyện cứ đè nén trong đầu, những câu chuyện mà tôi nghĩ mình không thể không viết ra (ngày nay, khi đọc lại những truyện tôi đã viết hồi cấp hai, cấp ba và thậm chí là cấp một, tôi cảm thấy rất xấu hổ, tôi sẽ chỉ giữ lại nó cho riêng mình như một tập album lưu lại những hình ảnh về đời sống văn chương đã xa xưa của tôi). Nhưng đương nhiên, kì tích không thể xảy ra ngay trong những năm cấp ba ấy chỉ vì tôi cố gắng viết nhiều, cứ cắm đầu cắm cổ mà viết trong khi chẳng chịu đọc gì, chất dinh dưỡng nạp vào không đủ thì những gì xuất ra làm sao thơm ngon được. Giá mà lúc ấy, tôi có thể thay câu: “Viết hay không bằng hay viết” thành “Viết hay không bằng hay đọc” sớm hơn. Vào những năm đại học, khi tôi cố gắng dành thời gian để đọc nhiều hơn, kiềm nén ham muốn viết thì khi viết trở lại, tôi thấy kết quả thay đổi rõ rệt. Sự thay đổi đó đến với tôi thật bất ngờ. Tôi bỏ viết hẳn năm đầu đại học chỉ để đọc, rồi khi so sánh những gì mình vừa viết với những gì đã viết một năm trước đó, tôi gần như không tin được là lối viết của mình đã thay đổi nhiều như thế. Tôi có cảm giác giống như một kì tích, giống như một năm đã qua không hề tồn tại, nó chỉ là cái chớp mắt, đêm trước tôi vẫn còn viết rất ngô nghê, ngủ một giấc tỉnh dậy và thử viết thì chợt nhận ra sự ngô nghê đó đã bớt đi chút ít, theo một cách không ngờ tới, tôi bỗng dưng biết được mình sẽ viết như thế nào, sắp xếp câu chữ ra sao. Nhưng dù có cảm giác như thế, tôi biết nó không phải là một kì tích, nó là sự hồi đáp của văn chương khi tôi bỏ ra đủ cố gắng cần phải có để bước qua giai đoạn mới. Tôi nhận ra rằng cũng giống như viết, khi bạn đọc, thời gian trôi qua rất nhanh. Việc đọc dường như vừa kéo dài vừa rút ngắn lại dòng thời gian tự nhiên.

Chuyện ít đọc tạo ra một cục diện dở tệ với tôi những năm trung học: viết văn trong trường điểm kém, viết truyện dở và đương nhiên là viết thơ cũng dở. Việc chỉ đọc những nhà thơ tình viết theo thể thơ tự do trong phong trào Thơ Mới khiến định nghĩa của tôi về thơ bị bó hẹp đi rất nhiều. Tôi không biết cách triển khai một bài thơ như thế nào ngoài việc dùng thật nhiều tính từ mĩ miều để miêu tả cảm xúc rồi cường điệu nó lên. Đương nhiên, đến ngày nay tôi vẫn không cho rằng phong cách của Thơ Mới là như vậy. Chỉ đơn giản là lúc đó tôi không biết làm một bài thơ cũng cần chút tư duy lí trí, một ý nghĩ làm nền để bài thơ có thể đứng vững – hoặc có thể thơ không cần đứng vững, nó có thể điên cuồng nghiêng ngả chuệch choạc như một người lướt khướt say nhưng lối viết của tôi luôn cần giữ lại chút tỉnh táo, tôi không thể hoàn toàn điên nên khi chỉ viết theo cảm xúc thuần nhất, thơ của tôi dễ bị rơi vào trạng thái sến một cách vô duyên. Vào năm đầu đại học, sau khi dành hẳn một năm đọc sách (chỉ truyện ngắn và tiểu thuyết), tôi gần như bỏ hẳn viết thơ trong ba năm: 2008, 2009, 2010. Đơn giản vì khi ấy, truyện ngắn và tiểu thuyết khiến tôi thích thú hơn, tôi vẫn không đọc thơ đủ nhiều để biết cách viết một bài thơ.

Tôi không muốn viết chi tiết về năm 2011 dù chính năm ấy đã tạo ra sự biến chuyển lớn trong cách suy nghĩ của tôi về thơ, là năm tôi đã viết ra được một số bài thơ dù chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng sau này tôi không có cảm giác xấu hổ khi đọc lại. Đó là năm tôi đã gặp em. Trước khi gặp em, như một cơ duyên, tôi đã đọc hết toàn bộ khoảng trăm bài thơ em viết được đăng trên mạng. Nếu không gặp em năm đó, tôi nghĩ mình đã bỏ hẳn thơ vì trong suốt ba năm chỉ tập trung vào truyện ngắn và tiểu thuyết, tôi nhận thấy thơ không thú vị bằng hai thứ kia bởi tôi vẫn không biết cách triển khai thơ khác đi. Tôi đã nghĩ thơ không thật sự phù hợp với nhịp sống và cách tư duy của tôi – đến bây giờ tôi vẫn cho là như vậy. Nhưng mùa hè năm ấy, em đã chỉ tôi lối để thỉnh thoảng bước vào thơ, nhìn ngắm khung cảnh đẹp đẽ nơi ấy bằng Wislawa Szymborska, Joseph Brodsky, Charles Bukowski… và bằng chính em. Bỗng dưng tôi biết cách viết một bài thơ như thế nào dù việc ấy chỉ xảy ra đôi khi.

Năm 2012 có lẽ là năm tôi đọc thơ nhiều nhất tính cả đến thời điểm hiện tại. Đó là lúc em đã bỏ đi. Sau những trận khóc vào sáng sớm khi vừa tỉnh dậy, sau những lần cầu nguyện được gặp em trong mơ mỗi tối trước khi ngủ, đến tháng chín năm ấy, tôi quyết định gạt đi những ủ rũ tiêu cực để tìm em trong thơ, bằng cách đọc thơ theo tên tác giả từ A – Z như em đã có lần nói rằng đó là cách em đọc. Tôi tìm em thật tích cực như thế cũng là để lần cuối cùng chia tay em thật tích cực trong tư tưởng. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ấy, tôi tranh thủ đọc thơ vào những buổi trưa tĩnh lặng khi đèn đã tắt, khi mọi người đã ngủ, một không khí không khác gì buổi đêm được tạo dựng trong phòng. Thơ với tôi là không khí của những buổi trưa ấy. Máy điều hòa chạy lặng lẽ, tĩnh tại và một ánh mắt dõi nhìn những dòng thơ. Thế giới rời rạc nhưng được kết nối. Và quả thực, khi đọc nhiều ta có thể viết nhiều. Đó là khoảng thời gian tôi đã làm được điều tưởng chừng không thể: viết ba mươi bài thơ trong vòng một tháng. Đến nay, vẫn chưa khi nào tôi viết được thơ nhiều như thế.

Trong một ngày tháng sáu năm 2018, tôi nằm trên băng ghế dựng tạm từ ba chiếc ghế rời, tắt hết đèn vào lúc năm rưỡi hơn, dõi mắt nhìn ra khung cửa với bầu trời xanh vương chút xám, tiếng mưa rơi xối xả bên ngoài làm âm thanh nền cho cảnh tượng ấy. Tôi suy nghĩ về thơ trong sự cô tịch bình yên đó. Thế giới như đang phân mảnh khi tôi nằm trên ba chiếc ghế rời, ngoài kia là tiếng mưa rơi. Bỗng nhiên tôi có cảm giác thơ chính là như thế, là cảnh tượng này, không gian này, thời gian này, là tôi đang nằm đây. Thơ là một dòng chảy kết nối tất cả sự rời rạc lại với nhau. Như căn phòng những buổi trưa ấy. Như căn phòng buổi chiều mưa này. Nhưng không phải theo phương pháp cơ học. Cũng không phải theo cơ cấu cắt ghép như một môn thủ công nào đó. Và khả thể mới do thơ tạo ra từ những mảnh vụn cũng không hề vững chãi và thực tế, cũng không có tham vọng vững chãi hay thậm chí là trường tồn. Nó chờ đợi để tiếp tục được phân mảnh và tạo ra những mối liên kết khác: như cách những hạt mưa rơi độc lập nhưng hòa quyện vào nhau, như những chiếc ghế tuy có vẻ là cố định nhưng vị trí của chúng chỉ là tạm bợ, người ta có thể dễ dàng dịch chuyển chúng đến bất cứ nơi đâu, kết hợp chúng với bất cứ thứ gì để tạo ra những ngữ cảnh mới, những cách hiểu mới cho một cái ghế. Thơ cũng giống như thế. Nó ở đó nhưng không ở đó. Người ta thường nói một nửa sự thật không phải là sự thật, một nửa tình yêu không phải là tình yêu. Nhưng với tôi, một nửa thơ thì vẫn là thơ. Bởi lẽ khác với những thứ kia – những thứ đòi hỏi một sự vẹn toàn thì mới đích thực là nó, thơ chối bỏ sự toàn bích như một thể thống nhất. Bạn chỉ có thể nắm một phần và rồi hình dung thể thống nhất của nó theo cách nghĩ của bạn. Hình dáng một bài thơ tùy biến trong đầu mỗi người theo cách như thế. Chính sự nửa vời ấy là vẻ đẹp của thơ. Vẻ đẹp của nỗi mơ hồ mênh mông xa vắng.

Trong buổi chiều mưa đơn độc tưởng chừng như vô tận ấy, khi nằm trên những chiếc ghế rời và ngước nhìn bầu trời xanh xám ngoài kia, tôi đã viết những dòng-có-lẽ-là-thơ này:

“tôi thu mình trong màu xanh ô cửa sổ
nằm trên ba chiếc ghế xếp cạnh nhau
giang sơn nhỏ hình thành khi ngoài kia
tiếng mưa rơi tựa sóng vỗ
căn phòng này sẽ trôi cùng tôi đến đâu
giữa thành phố mười triệu dân này”

Vũ Lập Nhật

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Cafe sáng