Phía sau trang sách

Tứ Thư: Bốn cuốn sách cấm về bản tính con người

Published

on

Có người đặt câu hỏi: “Sách cấm có đáng đọc không?” Vừa có mà lại vừa không. Có vì nó xâm nhập vào những góc khuất sâu nhất của bản chất con người, bởi nếu không phải vì cái góc khuất đó, thì người ta đã chẳng cấm cuốn sách ấy.

Sự cấm ngay bản thân nó đã chứa đựng một bí mật, và con người – loài sinh vật tò mò bậc nhất – thật không nên bỏ qua cơ hội khám phá. Nhưng tại sao lại không nên? Cũng bởi chính vẻ ngoài đầy cám dỗ của bí mật, nó mị hoặc con người, nó thôi thúc chúng ta úp mặt vào mà soi, và giữa cơn mê, không ít người sẽ như anh chàng Narcissus kia, tìm đến ảo ảnh chính mình mà chẳng thể nào thoát ra được. Trong Tứ Thư, Diêm Liên Khoa cân bằng hai yếu tố này một cách hoàn hảo. Ông tạo ra một câu chuyện siêu thực đến hoang đường nơi tất cả đắm mình trong nỗi dằn vặt tất yếu của thời đại, nơi tất cả đi giữa hai lựa chọn nhớ và quên, chấp nhận và chối bỏ.

1. Kẻ sĩ hóa phàm phu

Tứ Thư vốn là bốn trước tác kinh điển của Nho học Trung Hoa, cùng với Ngũ Kinh làm thành cột trụ của Nho Giáo. Với tầm vóc lớn lao như thế, không có gì lạ khi nó trở thành kim chỉ nam cho bao đời kẻ sĩ. Nhưng Diêm Liên Khoa chủ trương viết một Tứ Thư hoàn toàn khác, đối lập với bộ sách kinh điển kia. Trong Tứ Thư của mình, ông ghi chép tỉ mẩn những việc làm, hành động, suy ngẫm của kẻ sĩ thời mạt thế chuyển ngược trở lại thành sách, thành một phản Tứ Thư. Và ở trung tâm của sự biến đổi ấy, không khó đoán, đó là những kẻ sĩ.

Lấy bối cảnh Cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc những năm 60, 70 của thế kỷ trước, những người trí thức buộc phải rời khỏi thành thị tới những trại tập trung dọc bên bờ Hoàng Hà để tiến hành “giáo dục mới.” Họ bị đàn áp, bóc lột nặng nề tưởng chừng như tái hiện lại quang cảnh của chế độ thực dân hơn trăm năm trước, và thậm chí còn tệ hơn. Họ không những phải chịu đựng sự dày vò về thể chất, mà thứ làm họ kiệt lực nhanh nhất chính là sự vò xé tinh thần. Mọi sách vở, nếu không phải nói về công cuộc lập quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đều bị cấm. Văn chương không, tôn giáo không, khoa học không, âm nhạc không, y học cũng không. Tất tần tật cái gì có liên quan đến phương Tây đều là phản động. Chính sách “giáo dục mới” bỗng chốc biến đất nước Trung Hoa năm ngàn năm văn hiến trở về con số 0 tròn trĩnh, tựa như xưa kia những bộ lạc man di phương Bắc xóa sổ nền văn minh Hy-La. Song ở Trung Quốc, mọi chuyện được đẩy đến cùng cực – nhổ cỏ phải nhổ tận gốc – và thời Phục Hưng không hề có cơ hội ở đất nước này. Trong cái đêm trường tăm tối vô tận ấy, người trí thức bị lột sạch tất cả, gột bỏ hết những thứ làm nên con người trí thức của họ, để rồi phơi ra trên mình mỗi người chỉ còn lại hai tay hai chân phục vụ cho gieo trồng bừa cấy – vốn là công việc của nông dân, hay “long trời lở đất, đại luyện gang thép” – vốn chỉ dành cho công nhân. Từ những kẻ sĩ rường cột của cả quốc gia, chỉ sau một thời gian ngắn họ nhanh chóng khoác lên mình bộ đồng phục mới: trở thành phàm phu. Môi trường thi đua ái quốc trong trại cải tạo nhanh chóng làm bừng lên ngọn lửa phàm phu trong họ: “Năm bông hoa nhỏ đổi được một bông hoa nhỡ, năm bông hoa nhỡ đổi một ngôi sao năm cánh, năm ngôi sao năm cánh là các ông được về nhà.”

Đứng ở bình diện người quan sát, chúng ta dễ dàng nhận ra phương cách nhà cầm quyền tước đoạt lương tri con người: bằng cách tước đoạt đi tư tưởng. Không có tư tưởng, chúng ta chẳng khác nào bầy cừu trong chuồng, ngày ngày nhìn đồng loại mất mạng, đêm đêm chỉ biết nỉ non khóc thầm. Không có tư tưởng, chúng ta từ bỏ nền văn minh tốn hàng ngàn năm xây dựng để trở về với xã hội mông muội nguyên thủy, sống trong hỗn loạn khi mỗi người tự thỏa mãn dục vọng của mình. Đừng lầm tưởng, đó đâu phải tự do, đó chỉ là phiên bản phóng chiếu của sở thú, một cái sở thú con người. Tự do dưới những nguyên tắc, tự do được cấp trên chỉ dẫn, tự do làm những việc mình bị ép buộc, kẻ thống trị bóp méo chúng thành những thứ tự do dị dạng. Và người trí thức – những người hiểu rõ cái sự ngụy biện, sự mị hoặc đó nhất – tất yếu sẽ bị thanh trừng đầu tiên. Muốn thắng phải bắt được tướng địch, đánh rắn phải đánh vào đầu, người Trung Quốc, đặc biệt những kẻ thống trị am hiểu điều đó hơn ai hết, rằng một khi “cải tạo” tận gốc tầng lớp trí thức, nghiễm nhiên sẽ không còn ai dám chống đối nữa, không còn ai dám nghi ngờ sự tự do nữa. Ở bình diện người quan sát, chúng ta mới nhận thấy một trăm hai mươi lăm bông hoa đó ghê gớm đến mức nào. Kẻ thống trị tạo ra một phần thưởng tưởng tượng treo tít trên tận trời xanh hòng dẫn dụ những người trí thức. Tất nhiên, kẻ sĩ chân chính chẳng bao giờ bị lợi nhỏ thuyết phục. Nhưng phàm phu thì ngược lại, phàm phu hám lợi, vì lợi có thể dẫm đạp lên người khác. Để đẩy nhanh công cuộc phàm phu hóa kẻ sĩ, nhà cầm quyền sử dụng một phương cách cổ xưa, cách mà Chúa Trời từng sử dụng với thành Babylon: đó là trao cho họ đầy đủ nguyên vật liệu để xây tháp Babel nhằm chạm tới phần thưởng. Chuyện gì đến cũng đã đến, sự hỗn loạn tất yếu xảy ra. Vì là ý tưởng của Chúa, lẽ dĩ nhiên không ai thoát được, hoặc chủ tâm hoặc vô tình bị kéo vào. Một khi đã bước một chân vào rồi thì không thể rút ra được nữa. Tháp Babel cứ thế cao dần lên, và tình người ngày càng đi xuống, cho đến lúc ai đó chợt nhận ra, như ông nhà văn chẳng hạn, thì chẳng còn gì cứu chuộc được nữa. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh anh chàng thí nghiệm ngày đêm rình mò ông học giả và cô nhạc sĩ, cốt để bắt tại trận họ gian dâm với nhau, nhằm lãnh mười, hai mươi bông hoa nhỏ. Hình ảnh ấy đau đớn thay lại là hình ảnh phổ quát của cả khu trại. Một trăm hai mươi lăm bông hoa tưởng chừng như con số khổng lồ, là việc bất khả thi không thể thực hiện được, nhưng trên thực tế chuyện lại trái ngược hẳn: một trăm hai mươi lăm bông hoa là con số vừa đủ để người ta bán đi lương tri của mình.

2. Phàm phu hóa kẻ sĩ

Người Trung Quốc có thuyết âm dương rất hay, mà Diêm Liên Khoa lồng ghép rất mực tài tình. Cả cuốn Tứ Thư là một Thái cực đồ thống nhất với mở đầu bằng cách nhại lại những câu trong Sáng thế ký và kết thúc với sự lặp lại của mở đầu: từ hư không xuất hiện tất cả (khu trại, tội nhân, giáo dục mới, hoa đỏ,…) rồi tất cả lại trở về hư không (những người đói khát chạy trốn khỏi nơi cư trú gặp nhau). Nổi lên trên khung cảnh xám xịt đó là hai đặc trưng rõ nét: 

Thứ nhất, có âm ắt hẳn có dương. Đã có kẻ sĩ tất có phàm phu, kẻ sĩ hóa phàm phu thì lẽ đương nhiên phàm phu phải hóa kẻ sĩ. Con Trời sinh ra chính là như thế. Nó có cái tố chất đặc trưng cho kẻ phàm phu: không biết gì. Kẻ như nó, đáng lý ra cả đời được hưởng những đặc ân đó, được sống sung sướng tự do theo ý mình – cũng là theo ý nhà cầm quyền. Nhưng bất hạnh thay, Con Trời lại được giao cho quyền lực, được đưa lên làm quản lý khu trại cải tạo. Bi kịch của nó nằm ở đó. Nó bỗng nhiên từ kẻ không biết gì trở nên biết tất cả, từ kẻ chỉ biết hám lợi chuyển thành kẻ háo danh, và từ phàm phu hóa thân thành kẻ sĩ. Con Trời bị nào là giấy khen, nào là bông hoa đỏ mị hoặc. Nó mong muốn được lên tỉnh, lên thủ đô, muốn gặp cấp trên, gặp cấp trên của cấp trên, gặp cấp trên cao nhất nhất. Nó muốn được xoa đầu và tuyên dương. Đặc biệt, nó thà mất mạng chứ không mất danh, và khi chết nó muốn chết như một anh hùng, người đổ về phía trước. Tuyền là những biểu hiện háo danh, bị danh hão làm cho mờ mắt, chạy theo danh hão mà quên đi bản chất thật của mình. Con Trời chạy, chạy mãi như thế về phía cái chết, và kéo theo lắm kẻ lầm than. Thế nhưng than ôi, người như nó nhiều vô kể xiết. Con Trời là ví dụ tuyệt vời để nhìn nhận giới cầm quyền hữu danh vô thực – những kẻ không biết gì nhưng nắm tất cả trong tay, những kẻ dễ bị ngộ độc, bị sốc bởi danh hão – nhất là trong một xã hội đi đến hồi mạt kỳ như Tứ Thư.

Thứ hai, thịnh cực tất suy. Hết âm lại đến dương, hết dương lại đến âm. Tại thời điểm đen tối nhất của Nạn Đói Lớn, khi người phải ăn cỏ cây, ăn đất, thậm chí ăn thịt người chết mà sống, thì cũng chính lúc đó, có những kẻ phàm phu tìm lại được căn tính kẻ sĩ của mình. Tôi đang muốn tới ông nhà văn. Ông ta là mẫu người để ta nhìn nhận sự rộng lớn trong bản tính người: thời xây tháp Babel, nhà văn là tên gián điệp đê hèn ghi chép lại mọi sự báo về cấp trên lĩnh hoa đỏ, rồi chính ông ta là kẻ thực sự đã tố cáo học giả và nhạc sĩ gian dâm – biểu hiện của kẻ gian hèn như Tần Cối, thế nhưng ông ta cũng là kẻ hối lỗi đến cùng cực, khi cắt thịt đùi của mình nấu cho học giả và nhạc sĩ để tạ tội – một việc mà tưởng chừng chỉ có bậc đại sĩ như Giới Tử Thôi mới làm. Bản tính con người rộng lớn thế đấy, nó rộng hơn tất thảy những gì chúng ta chiêm nghiệm qua vẻ bề ngoài. Bản tính người đến từ nơi sâu thẳm mỗi cá nhân, không phải trái tim cũng không phải khối óc, nó không thực sự hữu hình, nó đi giữa tồn tại và không tồn tại: vào những lúc không ngờ nhất nó sẽ xuất hiện và vào những hồi rõ ràng nhất nó đột nhiên biến mất. Sự nhìn nhận đúng mực về bản tính người rất quan trọng, giúp chúng ta thâm nhập vào quyển cuối cùng trong Tứ Thư: Thần thoại Sisyphus mới.

3. Kiếp người

Thần thoại Sisyphus mới là quyển cuối cùng trong Tứ Thư, giống một bản tổng kết ngắn lại toàn bộ những chuyện xảy ra cuối cuốn sách, đồng thời nó cũng hiện diện tại khắp mọi ngõ ngách. Với phần cuối này, Diêm Liên Khoa muốn kể một câu chuyện mới, một góc nhìn mới về bi kịch của Sisyphus dưới thế giới quan của ông học giả. Nếu như Albert Camus dùng hình ảnh Sisyphus để đặt ra câu hỏi về tính sống còn của con người thì ông học giả, cũng dùng Sisyphus để tiếp cận những suy tư của chính ông, của những tội nhân cùng khu, nhằm làm sáng tỏ bản chất điên rồ của thời đại mà ông đang sống. Thời ông đang sống – thời Cách mạng Văn hóa – khi người ta chạy theo cơn mê của lòng đố kị, sự nghi hoặc, lòng tham và danh hão thì câu hỏi về sự tồn tại càng trở nên cấp thiết. Ông học giả không muốn như Camus, chỉ mải ngày đêm lăn đá lên đỉnh núi để rồi gần tới đỉnh thì lại tuột dốc lăn xuống, sự vô nghĩa của cuộc sống đó làm ông không chấp nhận được, nhất là khi ông đã trải qua cơn thập tử nhất sinh của Nạn Đói Lớn (hay ít nhất ông vẫn sống đến cuối truyện). Ông học giả, hay Diêm Liên Khoa, muốn chọn một cách tiếp cận khác để tạo ra cái kết khác. Ngọn núi của Sisyphus – hay cũng chính là một trăm hai mươi lăm bông hoa đỏ – trên sườn núi ấy đột nhiên có một đứa trẻ, và sự tồn tại của đứa trẻ cùng cái hành động ngắm nhìn đứa trẻ làm cho Sisyphus biết mình vẫn đang còn sống, biết rằng cuộc sống của mình còn có nghĩa. Tôi cho rằng đứa trẻ kia không ai khác ngoài cô nhạc sĩ người tình của ông học giả (có thể lắm chứ, khi người ta sống vì tình yêu). Nhưng rồi các vị thần (mà cũng có thể là cấp trên lắm chứ), biết được chuyện tình vụng trộm của hai người, biết được trong cơn đọa đày lăn đá (mà cũng có thể là trồng tiểu mạch hay luyện gang thép), tội nhân của họ vẫn được hưởng niềm vui, coi đó như lạc thú thì tức giận không chấp nhận được. Họ bèn chuyển Sisyphus đến một ngọn núi mới, lăn đá từ đỉnh xuống chân núi và khi hòn đá sắp xuống tới chân núi thì bật ngược trở lại với trọng lực ngược. Ông học giả cũng trải qua tình cảnh tương tự, thay vì đấu tranh giành những bông hoa chuyển thành đấu tranh để giữ mạng sống trong Nạn Đói Lớn. Lúc này, những phi lý cuộc đời bỗng chốc trở ngược đầu càng thêm phi lý tợn, và ông học giả lại phải tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Ông không bao giờ trông thấy đứa trẻ nào nữa, đứa trẻ hiện sinh của ông đã bị nạn đói làm cho chết tươi. Mất đi chỗ dựa làm ông tuyệt vọng, ông càng tuyệt vọng bao nhiêu thì các vị thần cấp trên của ông càng sảng khoái bấy nhiêu. Cuối cùng, ông đã nghĩ ra điều mà các vị thần không ngờ tới: ông bấu víu vào chính cơn tuyệt vọng ấy, rồi tưởng tượng ra những đứa trẻ, ra những khu làng. Câu chuyện của ông là câu chuyện của “sự thích nghi”. Kiếp người là sự thích nghi vô hạn: khi đã thích nghi với tuyệt vọng, chúng ta bèn tạo ra hy vọng. Chúng ta cứ đi từ ngọn núi này sang ngọn núi khác như thế, bất kể các vị thần có trừng phạt bằng cách nào, thì họ cũng chẳng thể ngăn trí óc ta, ngăn sự thích nghi của ta lại. Tạo ra hy vọng từ tuyệt vọng, tạo ra một sự phi lý để đối chọi lại một phi lý khác trong một xã hội phi lý là cách ông học giả giữ cho mình tồn tại. Và sự tồn tại của ông, hay của Sisyphus, hay của chính chúng ta, là thứ duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời này.

Hết.

3V

Ảnh: Tao Đàn


Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng