Phía sau trang sách

Tôi đọc lại Rừng Na Uy

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ.

Published

on

Tôi đọc lại Rừng Na Uy ở tuổi 25. Cách đây năm năm, tôi đọc quyển sách lần đầu chỉ vì vài dòng chia sẻ của anh Phan Xine. Khi ấy bộ phim chuyển thể của Trần Anh Hùng vừa ra mắt. Anh viết, đại loại như ước gì có thể đọc quyển sách vào năm mười tám, đôi mươi, để rồi có cơ hội đọc lại ở tuổi 24, 25. Tôi vẫn còn cơ hội ấy nên không muốn lỡ mất.

Khi ấy, ấn tượng để lại không quá đặc biệt. Đa phần là vừa bị kích thích vừa thấy sượng sạo với các đoạn miêu tả tình dục, có lẽ do lớp nền văn học còn hạn chế. Không phải vì chưa từng đọc những thứ tương tự, thậm chí còn loang lỗ và ghê tởm hơn (có lẽ nên dùng từ này) trong quyển Song song của Vũ Đình Giang. Nhưng tình dục trong Rừng Na Uy là thứ gì đó quá sức chịu đựng, hoặc quá bao trùm và lấn át hết những cảm xúc khác.

Tôi nhớ trong lớp đại học có rất nhiều bạn yêu mến quyển sách này. Có một bạn luôn lấy nick trên mạng là Midori, vì yêu mến tính cách và cách sống của cô. Đôi khi các cuộc trò chuyện dẫn về quyển sách, và thường là lời khen ngợi. Bản thân tôi thấy nó chỉn chu, nhưng không hề chạm vào được cảm xúc riêng. Tôi tự hỏi những lời khen đó là thật, hay vì người ta đã mặc định rằng Rừng Na Uy là tuyệt phẩm nên khen hùa vào, và cho đó là thời thượng? Tôi không biết. Năm đó, tôi cũng không xem bộ phim.

Dù vậy, lúc nào trên kệ sách (hoặc khi chưa có kệ là chồng sách) của tôi cũng có một quyển Rừng Na Uy. Không vì lý do đặc biệt nào. Nếu mất, hay cho bạn bè mượn mà quên mất là ai (tôi chỉ mới có thói quen giữ sách hơn một năm nay), tôi sẽ mua lại nếu thấy trong nhà sách.

Chủ Nhật vừa rồi, tôi dành một ngày để đọc Rừng Na Uy từ đầu đến cuối. Ở tuổi 25 này. Tôi có cảm giác như vừa đọc nó lần đầu tiên. Rất dễ đoán rằng, nó hay hơn rất nhiều so với lần đọc trước. Nó chạm vào tôi dễ dàng như thở, và khiến tôi nhận ra nhiều điều. Dưới đây là những cảm nhận.

– Tôi đã hiểu điều anh Phan Xine muốn nói trong những dòng chia sẻ đó. Rừng Na Uy giống như chiếc máy ảnh. Khi ta đọc nó ở tuổi 20, nó lưu giữ hình ảnh ta trong đó, ngây ngô và khờ khạo. Khi đọc lại ở tuổi 25, không phải ta gặp lại các nhân vật hay câu chuyện, mà gặp lại chính mình. Nó hình thành hai đầu mốc để ta có thể nhìn lại và nhận ra đã thay đổi nhiều như thế nào.

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Lớp nền đó không hẳn là kiến thức hay óc phân tích, mà còn là trải nghiệm cuộc sống. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ. Tôi xúc động ngay từ cảnh Naoko và Toru đốt nến mừng sinh nhật trong phòng cô, và nói về việc sống đi sống lại giữa tuổi 18 và 19 trước khi cô vỡ òa. Tôi đã chẳng mảy may để ý ở lần đọc trước. Tiếng lòng của các nhân vật đã chạm được vào tôi, hoặc tôi chạm được vào họ, tôi hiểu họ, từ đó đồng cảm và phần nào đó, hiểu hơn chính mình.

– Tôi bắt đầu nghe The Beatles khoảng năm 21 hay 22 tuổi, hoàn toàn tự nhiên. Trước đó, khi còn bé, tôi đã từng nghe họ và có phần thất vọng về giai điệu và lời hát. Bẵng đi một thời gian, tôi xem bộ phim nhạc kịch Across The Universe, bạn có thể thấy ngay từ tên gọi, sử dụng tất cả các bản nhạc của họ. Tôi ngạc nhiên vì thấy khác hẳn những gì mình từng nghe trước đó. Tôi tìm lại và lần này, hoàn toàn đắm chìm vào thế giới đó. Tôi tìm nghe nhiều hơn, và lạ lùng là, những giai điệu từng nhàm chán bỗng trở nên đầy màu sắc, có không khí riêng.

Lần này, tôi có thể hiểu được tất cả, và thấy thật thú vị với những liên hệ và lối so sánh mà Rừng Na Uy dành cho các bài hát The Beatles. Đều là những bài tôi yêu thích. Như Michelle là cảm giác “đang ở trên đồng cỏ dưới làn mưa nhè nhẹ”, hay bản Rừng Na Uy chủ đề để miêu tả sự cô độc lạnh lẽo mà Naoko phải chịu đựng. Cả nơi cô chọn cũng là một cánh rừng âm u, tôi biết, vì gần nhất với không gian mà Rừng Na Uy tạo ra. Nhiều lần tôi muốn hét lên “Đúng là thế đấy!”. Ngoài ra, Haruki còn gợi đến rất nhiều bộ phim cũ, mà tôi đều đã xem, như The Graduate. Nhờ đó, tôi cảm thấy được sự gần gũi, và đọc quyển sách với sự thú vị cực kỳ.

– Gần đây nhất, những người bạn của tôi có nhắc về quyển sách và một người miêu tả là quyển sách rất “dễ thương”. Một bạn khác phản đối, nói rằng có thể dùng nhiều tính từ để nói về Rừng Na Uy, nhưng chưa bao giờ nghĩa là “dễ thương.” Trịnh Lữ dùng từ chính xác hơn, là “dí dỏm”. Nghĩa là sự hài hước khéo léo và tinh tế, và không làm hỏng mất không khí chung. Tôi để ý, và nhận ra ngay khi nào sự “dí dỏm” đó xuất hiện, không chỉ ở riêng Midori. Naoko cũng khá dí dỏm khi lầm bầm “Chơi gái suốt mà,” và cả những từ ngữ lựa chọn cho các phép miêu tả. Dễ thấy rằng ta phải bật cười nhiều lần, hơi kỳ quặc so với nội dung quyển sách, khi đọc nó.

Lần trước, tôi đọc mà bỏ qua rất nhiều đoạn miêu tả cảnh, vì thấy khá mệt mỏi. Lần này tôi đọc từng từ từng chữ một. Năm năm qua, tôi đã đọc rất nhiều sách của Haruki, kể cả những quyển có dung lượng khá đồ sộ như Kafka hay Biên niên ký, tôi đã quen với lối miêu tả của ông. Quyển xuất sắc nhất, và có ảnh hưởng một phần đến văn phong của tôi là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và nơi tận cùng thế giới. Tuy nhiên, Rừng Na Uy nằm ở nơi nào đó khác, tách biệt hẳn với các quyển sách khác. Lúc nào cũng như có một màn sương bàng bạc lẫn giữa các câu chữ, và các lối so sánh. Tôi rất thích cách dùng từ, như đoạn văn cuối “cái im lặng của tất cả các làn mưa bụi trên khắp thế gian đang rơi xuống tất cả các sân cỏ mới xén trên khắp thế gian.” Không quyển sách nào của ông có lại lối dùng từ như thế, ngay cả quyển có nội dung ký ức rất gần là Tazaki Tsukuru. Nó lóng lánh theo một cách riêng.

– Tình dục trở thành thứ yếu trong lần đọc này. Khi đọc gần hết, tôi mới nhận ra mình chẳng thèm để ý gì đến những cảnh miêu tả tình dục nữa, nó trở nên thật bình thường, hoặc bình dị. Tôi không rõ là do mình đã đọc nhiều quyển sách với nội dung tương tự, hay lối miêu tả của Haruki đã trở nên dễ chịu hơn. Hoặc có thể vì nó hòa quyện hẳn vào nội dung, vào các nhân vật và tính cách của họ để trở nên dễ chịu. Không còn là cảm giác gây sốc như trước đây, thậm chí tôi quên hẳn để chú ý vào những cảnh khác. Tôi yêu mến khi Midori và Toru ở trên sân thượng cửa hàng tạp hóa và hôn nhau dưới cơn mưa, rồi sau đó cuộn tròn trong chăn hỏi về lũ kiến, hơn là các đụng chạm sau đó. Tôi để ý đến góc nhìn từ phía sau lên Naoko, lên bờ vai cô và một phần tai lộ ra, hơn là những miêu tả tay hay môi. Thật lạ lùng.

– Thứ đọng lại trong tôi nhiều nhất, quả thật, là tiếng lòng tự nhiên giản dị, như Trịnh Lữ đã miêu tả. Rừng Na Uy không đồ sộ như dung lượng hay ấn tượng ban đầu, nó ngắn gọn, ít sự kiện, và đi về chiều sâu hơn là độ dài. Tôi có thể thấy đôi chỗ lộp chộp, hoặc khập khiễng, nhưng nó vẫn nằm trong một tổng thể xúc động và mênh mang. Làm sao ông có thể bắt được tuổi trẻ ở độ tuổi 35, 36 khi viết quyển sách này? Nhưng nghĩ lại, những nhà biên kịch viết nên câu chuyện trong Buzzer Beat còn lớn tuổi hơn, đã ngoài 50. Tuổi trẻ ở trong lòng họ, không ở độ tuổi, và việc thể hiện được nó nằm ở tài năng và kỹ năng, nhiều hơn ở việc đang ở trong nó. Haruki từng muốn viết ở độ tuổi 22, 23, nhưng ông bỏ ngang vì chẳng có gì để viết, không trải nghiệm và không kỹ năng. Tôi có thể hiểu nỗi bức bối của việc có một câu chuyện nhưng không làm cách nào để thể hiện nó theo đúng như mình mong muốn, như thể chạy đua mà trên mình mang một lớp giáp nặng, hoặc muốn viết bằng ngôn ngữ khác. Đúng như lời bạn Nh từng nói, viết không phải chuyện ngày một ngày hai, và chính Haruki đã bảo nên sống thật chân thành trước đã.

Tôi có thể cảm thấy từ trong tâm can mình gần như cảm xúc và tình cảm của các nhân vật, với mối liên hệ gần gũi, dù cho chưa từng sống ở những năm 60 hay trải qua những hoàn cảnh tương tự. Từng cái riêng của Naoko, Toru và Midori cũng chỉ là cái chung của biết bao nhiêu thế hệ trẻ, chung gốc rễ là nỗi cô đơn và hoang mang của tuổi trưởng thành và việc thích nghi với nó, với việc lớn lên. Khi nhìn lại ở tuổi 25 này, tôi thấy rằng cái chốt để gỡ bỏ, hay chiếc chìa khóa, hay bất kỳ tên gọi nào về thứ động lực để khiến con người trưởng thành, là nỗi đau. Tình yêu lớn và nỗi đau lớn, gắn bó với nhau như thể thống nhất, như sống và chết, chỉ khi họ học được cách để bước tiếp cùng với nó, chấp nhận nó cũng như chấp nhận bản thân cùng sự bất toàn, cũng như sự bất toàn của mọi thứ trên đời, họ mới có thể sống tiếp thật trọn vẹn. Muôn đời chẳng phải là thế sao? Và trong số những người bước đi, sẽ luôn có những người ở lại, như Naoko. Cái thắt lòng của Rừng Na Uy, cũng như vẻ đẹp của nó, là việc chấp nhận nhưng không bao giờ hiểu nguyên do nào, không thể hiểu được vì sao, cũng như không thể thay đổi, chúng ta không thể làm được gì khác ngoài việc tiếp tục sống, và yêu, và tiếp tục đối diện với nỗi mất mát sẽ diễn ra suốt cuộc đời còn lại. Điều đẹp đẽ nằm ở tấm lòng muốn sống, và muốn yêu, một cách chân thành.

Cuối cùng, tôi xem lại một vài cảnh phim Rừng Na Uy, tôi đã thử xem cách đây vài năm mà không thể xem hết, hoặc không muốn xem hết. Đó là cảnh Naoko và Toru trong ngày sinh nhật lần thứ 20. Mọi thứ đều có vẻ phù hợp và đúng không khí, căn phòng, cách trang trí, màu phim, cơn mưa, nhưng chẳng thể nào mang đến được cảm giác đó, chính là thất bại của phim. Có lẽ là ở nhân vật, vẫn chỉ là những con người cố gắng vào vai những Naoko và Toru, hoặc sẽ chẳng có nhân vật nào thay thế nổi hình ảnh của họ từ tâm trí người đã đọc qua quyển sách. Hoặc có thể ở cách tiếp cận và góc quay, tôi cảm nhận không khí đó còn nhiều hơn ở cảnh trong lớp chăn phim Mr. Nobody, hay Let The Right One In, hay Groundhog Day, là cảm giác về sự đụng chạm giữa các tâm hồn, nhẹ nhàng, ấm áp và cũng đớn đau. Việc thể hiện nó bằng ngôn ngữ hình ảnh gần như là việc không thể. Vì thế nên, nói rằng điện ảnh là thể loại mới nhất và vượt trội nhất cũng đúng, nhưng hơn hẳn hoàn toàn các thể loại nghệ thuật khác là khập khiễng rồi. Điện ảnh cũng có những giới hạn không thể vượt qua, hay chưa thể vượt qua. Đó là điều khiến cho mỗi loại nghệ thuật đều có vị trí và sức hút riêng, cho đến tận bây giờ.

Chỉ có một điều tôi chưa hiểu ở lần đọc này, là việc Toru cảm thấy rung động trước Hatsumi, cái khuấy động mà cậu gọi là “đánh thức bản ngã”, tôi vẫn chưa hiểu được cảm xúc ấy là thế nào. Có lẽ là một sự để dành, cho năm năm sau nữa. Nếu tôi còn sống.

Hết.

Phương Nam


Muôn màu của Haruki Murakami





1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng