Phía sau trang sách

Khi thiên hạ rao bán (và bẻ răng) tiểu thuyết dystopia

Dystopia đã chuyển từ phê bình chính trị công khai sang một hình thức giải trí giật gân và thương mại hóa – vậy chúng ta có thể làm gì?

Published

on

DYSTOPIA FOR SALE: HOW A COMMERCIALIZED GENRE LOST ITS TEETH
Brady Gerber

Khi Chuyện người tùy nữ của Hulu thắng giải Emmy, hạng mục Phim truyền hình xuất sắc năm 2017, người dẫn chương trình Bruce Miller đã mời Margaret Atwood – tác giả cuốn tiểu thuyết ra đời năm 1985 truyền cảm hứng cho bộ phim – lên sân khấu để nhận giải. Trong buổi tối hôm đó, loạt phim kể về nước Mỹ chế độ độc tài, cưỡng ép phụ nữ làm nô lệ cho mục đích sinh sản được ca ngợi không ngớt; sê-ri phim này còn giành thêm vài giải thưởng bổ sung và Hulu trở thành dịch vụ phim trực tuyến đầu tiên giành danh hiệu Emmy cao nhất. Đối với phần đông dân số Mỹ, Chuyện người tùy nữ đã tóm lược quang cảnh ảm đạm và đáng chán của thế giới năm 2017. Chiến thắng giải Emmy lần này biết đâu chừng đã xác nhận cảm giác rằng thời điểm này đang rất tồi tệ và người ta cần phải làm điều gì đó. Tuy nhiên, khoảnh khắc này thuộc về Hulu.

Tại hậu trường, Atwood đã nói chuyện với cánh phóng viên về chiến thắng của mình. “Đúc kết của tôi là đừng bao giờ nghĩ rằng viễn cảnh này sẽ không bao giờ trở thành sự thật. Chẳng có bất kỳ điều gì tồn tại trong sách vở mà con người chưa từng hiện thực hóa trong một thời điểm nào đó, tại một nơi nào đó.” Những bình luận của bà mang tính truyền cảm hứng nhưng lại khá mơ hồ. Và rồi Atwood, sau khi thảo luận về bộ phim Chuyện người tùy n do Volker Schlöndorff thực hiện năm 1990, bắt đầu liệt kê những phiên bản chuyển thể khác từ tiểu thuyết của mình:

“Nó đã được chuyển thành một vở ô-pê-ra, một vở ba-lê; và giờ đây đã trở thành một cuốn tiểu thuyết bằng tranh… Ngoài ra trên YouTube còn có một đoạn phim ngắn mang tên: ‘Rốt Cuộc Họ Đã Thực Hiện Một Chuyện Người Tùy Nữ Cho Đàn Ông’. Vì thế, câu chuyện thoát ra khỏi cái khung sẵn có. Mọi người đã gửi cho tôi những chú gà dệt kim mặc những trang phục hầu gái nho nhỏ, cùng với những bức ảnh về chó và mèo của họ [được hóa trang]. Nó ở đâu đó ngoài kia trên thế giới. Nó cũng trở thành chủ đề cho cuộc biểu tình đến cơ quan lập pháp tiểu bang. Bạn có thể nói rằng những người hầu gái đã trốn thoát. Họ ở ngoài kia. Nhưng họ sẽ lại đến với bạn một lần nữa trong phần hai!”

Khi Atwood kết thúc lời phát biểu với việc đề cập đến phần hai của loạt phim Chuyện người tùy n, dù có chút hóm hỉnh, nhưng đó không phải là điều tôi mong đợi. Với sự kiêu ngạo – hay ngây thơ – của bản thân, tôi đang trông chờ Atwood – người đã vẽ ra một tương lai đáng sợ nhưng cũng khả dĩ – sẽ đưa ra một lời kêu gọi hành động và cho tôi biết mình có thể làm gì để ngăn chặn viễn cảnh của bà trở thành hiện thực. Chẳng phải Atwood hẳn nên biết làm cách nào để ngăn chặn nó ư?

Tôi biết đáng nhẽ mình nên mừng cho Atwood. Chuyện người tùy n là cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và cần thiết, hiện đã tiếp cận với nhiều khán giả mới thông qua loạt phim truyền hình. Atwood xứng đáng được hưởng thành quả cần lao của mình và bà ấy chẳng nợ tôi điều gì cả. Tôi rất muốn tin rằng có ai đó xem chương trình này sẽ được thôi thúc hành động thay vì ngồi khắp nơi và đan những con gà dệt kim trong lúc chờ đợi phần hai và những điều tồi tệ sẽ xảy ra ở đó. Nhưng chúng ta đang sống trong thế giới của vô số màn hình. Dù muốn hay không, chúng ta vẫn không thể tránh được bộ phim. Việc chấp nhận hòa theo dòng chảy và theo dõi những diễn biến sắp tới hóa ra dễ dàng hơn nhiều.

*

Thành công gần đây của Chuyện người tùy n cũng như việc tác phẩm 1984 của George Orwell đã nhảy vọt trở lại danh sách bán chạy nhất, và sự bùng nổ của các tiêu đề nhai đi nhai lại rằng mọi thứ đột nhiên đang xảy ra “hơn bao giờ hết” hướng về một kết luận: chúng ta đang sống trong thời dystopia1 (không-tưởng-đen/ phản-địa-đàng).

Từ dystopia, trong thời kỳ nước Mỹ đang bị chia cắt về mặt chính trị, đã điềm nhiên thành mốt. Thành mốt, quá đà, và ngay lúc này bị lạm dụng.

“Thói bi quan nay trở nên thời thượng”, tờ Vulture tuyên bố vào tháng Tám trong danh sách 100 tác phẩm vĩ đại nhất thuộc thể loại hư cấu dystopia. Bất kể mối quan tâm lớn nhất của bạn là gì – mâu thuẫn chính trị, biến đổi khí hậu, người da màu và phụ nữ bị áp bức, sự phát triển không kiểm soát được của công nghệ – thì vẫn có một viễn cảnh tương lai ác mộng đang chờ đón bạn. Nếu bạn thực sự muốn nắm rõ tình hình, bạn có thể bao bọc bản thân với mọi kết cục ảm đạm tiềm tàng. Mọi người đều được phép tạo ra một dystopia của riêng mình; họ dễ dàng cá nhân hóa nó như một danh sách iTunes.

“Thói bi quan nay trở nên thời thượng”

Từng là phương tiện đầy tham vọng để chỉ trích xã hội và chính trị, nhưng giờ dystopia đã bị giáng xuống thành phổ ngữ có thể đắp vào bất cứ thứ gì để nghe có vẻ theo kịp thời đại. Tuy thế, từ này vẫn chưa biến thành hoàn toàn vô nghĩa; nó vẫn gợi lên một nỗi sợ nhất định – và nghệ thuật dystopia cao quý vẫn còn đang sinh sôi. Nhưng nó đã trở nên quá thừa mứa. Chúng ta đã biết có vô vàn lý do để sợ hãi, rằng chẳng có ai đơn độc hành động mà có thể thay đổi tương lai. Chúng ta đang bị bão hòa với dystopia.

Nhiều người thuộc thế hệ của tôi lần đầu định hình quan niệm về dystopia từ việc đọc 1984Thế giới mới tươi đẹp của Aldous Huxley ở trường. Chúng tôi trưởng thành với Big Brother2, và bây giờ chúng tôi lại trốn tránh vào những thế giới hư cấu đáng sợ khi mọi thứ trong đời thực bắt đầu giống với những viễn cảnh ấy. Khi những câu chuyện này (rất nhiều trong số đó chứa đựng lời phê bình chống tư bản hoặc chống chủ nghĩa tiêu thụ) ngày càng phổ biến, chắc chắn chúng sẽ được chuyển thể thành các chương trình truyền hình, điện ảnh, hoặc quảng cáo của Apple. Giống như việc mỗi năm chúng ta có một bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao mới cho đến khi ngày tận thế, chúng ta được nghe kể về những câu chuyện từa tựa dystopia mà mình đã học hết ngày này qua ngày khác vào năm nhất trong trường trung học, nhiều trong số đó đã được viết từ lâu và, như Angelica Jade Bastién chỉ ra, tuyền một màu trắng. Chúng ta đã thực sự mắc kẹt khi nhìn thế giới như tuổi-mười-lăm.

Dystopia từng là tiểu thuyết của sự phản kháng,” chuyên gia sử học Jill Lepore đã viết cho tờ New Yorker vào tháng 6, “[bây giờ] nó trở thành tiểu thuyết của sự quy phục, về một thế kỷ 21 không đáng tin cậy, cô đơn và ủ rủ, tiểu thuyết của những tin giả và chiến tranh thông tin, tiểu thuyết về sự bất lực và vô vọng.” Lepore tiếp tục:

“[Dystopia] không thể vẽ nên một tương lai tốt hơn, và nó không yêu cầu bất cứ ai phải bận tâm nghĩ cách tạo ra một tương lai như thế. Nó nuôi dưỡng sự bất bình và phẫn nộ; nó không kêu gọi sự can đảm; nó thấy rằng hèn nhát là đủ. Lời khuyên duy nhất của nó là: Hãy tuyệt vọng nhiều hơn. Nó hấp dẫn cả cánh tả và cánh hữu, bởi vì, sau tất cả, nó chẳng mấy khi đòi hỏi về mặt văn chương, chính trị hay trí tưởng tượng của đạo đức mà chỉ yêu cầu bạn tận hưởng sự bầu bạn của những người có chung nỗi sợ về tương lai với bạn.”

Theo quan điểm của Lepore, hiện nay chúng ta khơi gợi lại dystopia là để trốn tránh chứ không phải để phản kháng.

Nhưng Hollywood, quan tâm nhiều đến việc trung thành với thương hiệu hơn là tạo ra những suy nghĩ tiến bộ, họ muốn khiến ta tin rằng chiến thắng của một chương trình bình đẳng giới kiểu dystopia hẳn nhiên chính là một đổi thay ý nghĩa.

Đặc biệt với Chuyện người tùy nữ, khi những người biểu tình hóa trang thành hầu gái và diễu hành khắp các tòa thủ phủ của bang, đôi lúc, ngoài ý nghĩa phản kháng thì việc đó lại tình cờ quảng cáo miễn phí cho Hulu. Thực tế, cuộc biểu tình hầu gái trọng yếu đầu tiên là một chương trình quảng cáo của Hulu theo đúng nghĩa đen. “Chúng tôi không hề cố tạo ra một tuyên bố chính trị,” một trong những người đứng đầu bộ phận marketing của Hulu cho hay đương lúc cuộc biểu tình diễn ra vào cuối năm ngoái tại SXSW3.

Trong một quốc gia đầy những kẻ đam mê chính trị, việc bênh vực nghệ thuật dystopia nay trở thành lựa chọn hàng đầu cho những ai muốn thể hiện lập trường chính trị mà không cần thật sự làm bất cứ điều gì. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận rằng mình đang sống trong dystopia, vậy đã quá muộn rồi. Cuộc đời chỉ phỏng theo nghệ thuật thôi.

Đây không phải là một lời kêu gọi ngừng đọc văn học dystopia. Thế giới cần các nhà văn như George Orwell và Margaret Atwood để đặt ra những câu hỏi khó về quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nhưng như thế là chưa đủ. Chúng ta cũng cần tưởng tượng một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân, không đơn giản với tư cách là người tiêu dùng – dẫu tiêu dùng nghệ thuật hay văn học – mà như một công dân.

*

Dystopia là từ trái nghĩa của utopia4, thuật ngữ do Sir Thomas More miêu tả một trạng thái hư cấu hoàn hảo dùng làm tiêu đề bản châm biếm chính trị cổ điển năm 1516 của ông. Utopia, ở dạng ban đầu, nghĩa đen là “không đâu cả”. Nếu utopia là lý tưởng không thể đạt được, thì dystopia đi ngược lại: cơn ác mộng không thể tiến tới. Năm 1868, nhà triết học và kinh tế học người Anh John Stuart Mill đã xác nhận định nghĩa này khi ông trở thành người đầu tiên sử dụng dystopia như một từ riêng biệt.Trong bài phát biểu tại Quốc hội để chỉ trích sự cai trị của người Anh ở Ireland, Mill đã tuyên bố: “Nếu gọi [những người cai trị này] là utopia thì quá khen ngợi rồi. Phải gọi họ là dystopia… vì những gì họ tỏ vẻ ủng hộ là quá tồi tệ để được hiện thực hóa.”

Các tài liệu dystopia đầu tiên đều dựa trên quan điểm của More và Mill, và trong khi bản đồ thế giới ngày càng mở rộng, họ dùng khoảng cách địa lý để tạo ra những nơi chốn không thể chạm tới và không mong đợi. Những dystopia hư cấu đầu tiên là những địa điểm cụ thể hiện hữu song song với thế giới thực của tác giả, như hòn đảo kỳ lạ trong Gulliver du ký của Jonathan Swift, vùng đất Darwinian hữu danh vô thực ở Erewhon của Samuel Butler, hay nền văn minh tương lai của H.G. Wells trong bước nhảy thời đại tại Cỗ máy thời gian. Sức mạnh của những tác phẩm đầu tiên là chúng cho thấy sự tương phản rõ rệt giữa bản thân thế giới thời bấy giờ và thế giới như nó có thể trở thành. Lemuel Gulliver đã phiêu lưu đến nhiều nơi khác nhau như Lilliput, nhưng anh ta luôn quay trở lại nước Anh thời hiện đại để suy ngẫm về những gì anh ta đã thấy và nó làm thay đổi thế giới quan của mình như thế nào. Người đọc có thể không đồng ý với kết luận của Swift, nhưng ông đã đưa ra một lời phê bình rõ ràng.

Vào đầu thế kỷ 20, những tiến bộ công nghệ (máy bay của anh em nhà Wright, xe hơi đầu tiên của Ford, tín hiệu vô tuyến xuyên Đại Tây Dương của Marconi) và Chủ Nghĩa Tân Đế Quốc khiến thế giới trở nên nhỏ hơn và phức tạp hơn, đầy tiềm năng và ít tiền lệ. Những câu chuyện mới phải được viết nên, vì vậy thế hệ các nhà văn tiếp theo của dystopia sẽ hướng về tương lai để chỉ trích và chạy trốn thế giới hiện đại. Từ The Machine Stops của E. M. Forster (con người chỉ biết dựa vào máy móc để nói chuyện với nhau), đến tiểu thuyết Chúng tôi của Yevgeny Zamyatin (tất cả bị kiểm soát và không hề có tự do) và cuối cùng là Thế giới mới tươi đẹp (chúng ta sống trong một khuôn khổ sẵn có), những câu chuyện này không còn là sự châm biếm chính trị thời cuộc mà là những dự đoán táo bạo về “chuyện gì sẽ xảy ra”. Người đọc được trao quyền để rút ra những điểm tương đồng giữa tác phẩm và thực tế để xác thực xem những câu-chuyện-tương-lai-xa có phải là cảnh báo nghiêm trọng hay chỉ là những câu chuyện ngớ ngẩn.

Khi Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, và rõ ràng rằng giờ đây thế giới có thể kết thúc chỉ với một cú bấm nút, thì những câu chuyện mới cần phải được viết ra. 1984, xuất bản năm 1949, đã kết thúc “thời kỳ hoàng kim” dystopia nghệ thuật, trước khi các nhà văn chuyển trọng tâm sang bối cảnh tận thế kịch tính thời Chiến tranh Lạnh. Làn sóng mới trong văn chương dystopia – bao gồm 451 độ F của Ray Bradbury, I Have No Mouth and I Must Scream của Harlan Ellison, và The Girl Who Was Plugged In của Alice Sheldon – bắt đầu có cảm giác như là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng sến súa, mặc cho nhiều tác phẩm đa dạng và đầy thách thức ra đời, như là Neuromancer của William Gibson (khai sinh ra cyberpunk), A Clockwork Orange của Anthony Burgess (phong cách Orwell với niềm hân hoan phản văn hóa), và, tất nhiên, Chuyện người tùy nữ (một câu chuyện ảm đạm về kỳ thị nữ giới trong một thể loại quá ư đực tính). Vào cuối những năm 80, dystopia đã phát triển từ một thể loại cá biệt nghiêm ngặt trở nên phổ biến, tuy thế vẫn có tác dụng cải biên cho bất kỳ tiểu thuyết nào muốn tiên đoán về một tương lai chết chóc.

Một bước tiến đáng kể của dystopia, tuy thế, đã xảy ra không chỉ trong sách mà trên cả màn hình. Bộ phim dystopia vĩ đại đầu tiên là Metropolis (1927) của đạo diễn Fritz Lang, nhưng bắt đầu từ những năm 70, một số tiểu thuyết về dystopia đã được chuyển thể thành phim rất có sức ảnh hưởng, nổi bật nhất là A Clockwork OrangeNgười máy có mơ về cừu điện không? của Philip K. Dick (đổi tên thành Blade Runner). Ngoài ra còn có những câu chuyện mới về dystopia như THX 1138 (tác phẩm đầu tay của đạo diễn George Lucas), Born in Flames của Lizzie Borden và Brazil của Terry Gilliamine. Trên màn hình, tương lai vẫn ảm đạm, nhưng giờ đây nó đang bùng nổ, chải chuốt và có thể được tiêu thụ trong khoảng hai giờ.

Quả bom dystopia lớn kế tiếp tập trung ở trẻ em và thanh thiếu niên. Cuốn tiểu thuyết Người truyền ký ức (1993) của Lois Lowry đã trở thành một trong những tiểu thuyết dystopia nổi tiếng đầu tiên viết cho khán giả trẻ với nhân vật chính là một cậu thanh niên, và nó đã mở ra cánh cửa cho vô số tiểu thuyết dystopia dành cho giới trẻ – có lẽ đạt đến đỉnh cao khi cuốn tiểu thuyết Đấu trường sinh tử năm 2008 của Suzanne Collins được chuyển nhượng truyền thông (tương tự với nhiều cuốn sách ăn theo). Đối với người lớn, thì dystopia tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên màn hình hơn là trên trang giấy. (Battle Royale của Koushun Takami và Mãi đừng xa tôi của Kazuo Ishiguro là hai ngoại lệ đáng chú ý).

Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt, nhưng thế giới vẫn đang chán nản, và xuất hiện nhiều dystopia mới có nội dung giống hệt nhau – thoát ly khỏi cái đáng chán ấy. Các bộ phim như bản chuyển thể Ghost in the Shell của Mamoru Oshii, Strange Days của Kathryn Bigelow, và The Matrix của Wachowskis xảy ra trong tương lai gần với sự thấu-hiểu-hết-thảy, kiểm-soát-hết-thảy những công dân bất-lực-hết-thảy. Trong sự toàn cầu hóa thế kỷ 21, cái tương lai gần đôi khi rất buồn cười (Idiocracy của Mike Jugle) nhưng thường thì nó chỉ ảm đạm (bản chuyển thể của Alfonson Cuarón từ Children of Men của P. D. James, District 9 của Neill Blomkamp và Snowpiercer của Bong Joon-ho).

Và TV giờ đây, nhắm chừng là phương tiện ảnh hưởng hơn cả bởi lãnh địa trực tuyến mới mẻ, dần trở thành nơi trú ngụ cho nguyên tác hay bản làm mới của những câu chuyện dystopia. Chuyện người tùy nữ sẽ trở lại với phần hai, sắp tới là 451 độ F trên HBO, và chúng sẽ chiếm suất cạnh bên một loạt những chương trình dystopia mới và chuyển thể và các chương trình tiên đoán cổ điển khác và các bộ phim sẽ được quảng bá kịp thời, lặp đi lặp lại.

*

Dystopia đã chuyển từ phê bình chính trị công khai sang một hình thức giải trí giật gân và thương mại hóa – vậy chúng ta có thể làm gì? Thật sự là rất nhiều.

Vào đoạn cuối 451 độ F, nhân vật chính của Bradbury, Montag tìm thấy một nhóm những người mê sách đang lưu vong nhưng đã ghi nhớ những cuốn sách; họ chờ đợi xã hội cũ chấm dứt để có thể xây dựng lại thế giới bằng trí tuệ của văn học. Điều này thực sự đến, và Montag trở lại với những người yêu sách để xây dựng một thế giới mới. Đây là một cách gọn ghẽ để hoàn thành một cuốn sách, nhưng chúng ta không cần chờ đợi thế giới kết thúc để tạo ra một sự thay đổi có ý nghĩa.

Mặc dù thế giới cần những nhà văn – những người đặt ra những câu hỏi khó và thách thức những giải pháp sơ sài, nhưng thế giới cũng cần những phóng viên phát ngôn cho những người không thể lên tiếng hoặc tiếng nói bị phớt lờ. Thế giới cần các tổ chức 350.org, Trung tâm Luật Giffords, RAINN và các chương trình tình nguyện để mở rộng việc giáo dục công dân. Thế giới cần chúng ta bỏ phiếu, đặc biệt ở quy mô nhỏ lẻ, nhưng ta cũng phải đứng sau sắp xếp những căn nguyên cụ thể và kêu gọi hành động. Thế giới cần chúng ta có những hành động tạo ra thay đổi nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn thay vì từ bỏ khi mọi thứ thay đổi quá nhanh. Thế giới cần chúng ta cố gắng hơn, và thông minh hơn.

Những khoảnh khắc hy vọng hiếm hoi trong dystopia thường ám chỉ rằng để  cứu vãn tương lai, tất cả phụ thuộc vào nhân vật chính – người phải bất chấp những tỷ lệ bất khả thi để đánh bại kẻ xấu trong cuộc đấu một mất một còn. Trong thực tế, tiến bộ là công việc của nhiều cá nhân có đầu óc nhưng không hoàn hảo; họ muốn cải thiện cuộc sống của chính mình và người khác, theo những cách khác nhau. Điện đàm với các vị thượng nghị sĩ chẳng thú bằng việc F5 danh sách chờ xem trên Netflix hay trông quyến rũ lộng lẫy như khi mang trên mình cái huy hiệu “Time’s Up”. Học cách để hành động chính xác là khó khăn, rất áp lực, và thường làm ta thất vọng. Nhưng nó hoàn toàn xứng đáng.

Hết.

Hoài Ân dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Brady Gerber, đăng tại Literary Hub.

Chú thích:

  1. Dystopia (phản-địa-đàng) là từ chỉ một cộng đồng hoặc xã hội tiêu cực đến đáng sợ. Những đặc điểm thường gặp tại dystopia là nhân tính bị đánh mất, chính quyền bạo ngược chuyên chế, thảm họa môi trường hoặc những đặc trưng khác của một xã hội đang xuống dốc đến bến bờ diệt vong.
  2. Big Brother là nhân vật giả tưởng trong tác phẩm 1984 của George Orwell, là lãnh đạo của chế độ độc tài Oceania.
  3. SXSW (South by Southwest) là một chương trình hội nghị điện ảnh, truyền thông tương tác và lễ hội âm nhạc tổ chức thường niên vào tháng Ba tại Texas, Hoa Kỳ.
  4. Utopia là một cộng đồng hoặc xã hội gần lý tưởng hoặc hoàn hảo trên mọi mặt.

Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng