Phía sau trang sách

Chiếc xe đạp mất cắp: Quá khứ quên lãng dưới điêu tàn của sắt

Một số chuyện từng xảy ra sẽ lưu lại ở đâu đó trong món đồ, giống như hạt giống vậy.

Published

on

Trung Quốc, với phần lãnh thổ to lớn, vốn từ lâu trở thành đất nước của những nghĩa địa: “nghĩa địa xe đạp”, “nghĩa địa xe máy” hay “nghĩa địa ô tô”. Sau các chính sách cấm cửa đi liền với động thái siết chặt quản lý, bong bóng của nền kinh tế chia sẻ sụp đổ một cách không thể lường trước. Và nếu vào ngày nào đó, người thân của ta mất tích cùng chiếc xe đạp thì biết tìm đâu dấu tích của một trong hơn 23.000 chiếc xe ở bãi nghĩa địa của riêng một thành phố?

Dời ngược thời gian trở lại cơn bĩ cực sau thời Hậu đệ nhị Thế chiến, Wu Ming-Yi (Ngô Minh Ích) bằng một chuỗi dài khoan sâu đã viết nên câu chuyện độc đáo, lồng lộng và tràn đầy xúc cảm về thời đoạn kéo dài hơn một thế kỷ với chiếc xe đạp – chiếc xe đạp bị mất cắp trong cuộc đời của một ai đó.

Cuốn sách xoay quanh câu chuyện của nhân vật “tôi” trên hành trình đi tìm lại bóng dáng người cha chỉ qua đầu mối duy nhất là chiếc xe đạp ông mang theo vào ngày ông biến mất mãi mãi. Càng đáng nói hơn, đây không hẳn là lần đầu tiên chiếc xe đạp bị mất cắp. Qua một lịch sử trải dài đằng đẵng từ thời Đệ nhị Thế chiến đến khi Internet phổ cập và mọi ứng dụng trên nền tảng xã hội phát triển, những câu chuyện đời, chuyện người được khắc họa tựu trung vào điểm gốc là chiếc xe đạp. Ở đó ta có thể bắt gặp đời sống Đài Loan cả những năm trước, trong và sau cuộc chiến, những hậu chấn tâm lý ảnh hưởng đến cả một thế hệ đi vào chiến tranh. Từ đó, lịch sử gian khó mà đầy biến động của Đài Loan hiện lên, khắc rõ; để con người và mọi sinh vật khác đều trở nên nhỏ bé trước số mệnh.

Chiếc xe đạp sống đời lận đận như một con người

Điểm gốc của mọi phối cảnh đều tựu trung về chiếc xe đạp. Việc mượn vật thể rồi từ đó khắc họa nên diễn tiến câu chuyện không hẳn là hiếm trong văn chương châu Á. Nếu ta từng bắt gặp Mạc Ngôn trong Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời) với hình tượng mông – vú, thì ở đây, Ngô Minh Ích dùng chiếc xe đạp có dây cu-roa để nối những vòng lịch sử như bánh đằng trước, và vòng đời ở bánh phía sau; bằng sức mạnh vận mệnh để đạp cho xe chuyển động. Cả hai câu chuyện song hành cùng nhau (bi, tiếng Latin), nối nhau như những vòng tròn (kyklos, tiếng Hy Lạp) gắn kết vào nhau, làm nên sự vận động theo hình tròn luân hồi của thời gian và những kiếp người.

Nếu câu chuyện không mở đầu bằng cảnh bé gái chạy vụt lên chiếc xe đạp về nhà khi cánh đồng vừa bị san phẳng, nếu chiếc xe đạp Khổng Minh của nhân vật chính không mất đến tận bốn lần, thì câu chuyện của tiểu thuyết này đã trở nên rất khác. Vì bối rối mượn chiếc xe đạp của một người Nhật mà bọn cảnh sát trói đầu gông cổ không nghe giải thích; vì đem cho đứa con gái khi lỡ đẻ quá nhiều để chờ một mụn con trai, vì chở cu cậu rong ruổi khám bệnh hay hồi hộp vui mừng khi đi xem điểm – mà chiếc xe đạp sống đời lận đận như một con người.

Chiếc xe đứng đó, chứng nhân cho rất nhiều điều, cho phong tục cổ hủ, cho bối cảnh chiến tranh, cho tình cảm trìu mến. Chiếc xe chứng kiến tình cảm cha con vốn thường khó nói, về một cậu bé khi nhỏ rất hay bệnh vặt, về một người cha sung sướng xem điểm cho đứa con trai, về cô gái nhỏ ngồi sau A Vân những chiều tan làm ở xưởng cánh bướm… Xe đạp ở đó lướt đi trong từng tầng gió khác nhau, có tầng tha thiết yêu đương là thế, nhưng cũng có tầng vô cùng muốn quên.

Hơn thế, đó là chiến tranh với chiếc xe đạp là phương tiện mới. Là đơn vị hành quân Bánh xe bạc không lốp lần đầu xuất hiện trong cuộc hành quân xẻ rừng xuyên Myanmar, là quân đoàn Hoa cúc những tối trăng treo, là Basuya chôn chiếc xe đạp ở ngôi làng nọ mà sau này lão Trâu lại một lần nữa khai quật nó lên. Chiếc xe ở đó và là chứng nhân cho những thời đoạn vô cùng biến động. Những chiếc xe đạp không lốp còn như một dấu gạch nối để con người ta tìm về quá khứ, về thời đã qua, thúc đẩy khai quật những gì từng là, dẫn đến công cuộc đi tìm người cha của nhân vật tôi hay quá trình về lại con đường hành quân đi xuyên Miến Điện bằng chiếc xe đạp của Abbas nơi cha cậu một thời chiến đấu.

Dễ thấy xe đạp đóng vai trò quan trọng trong dòng chảy thời gian. Nó ở đó gạn lọc đầy đủ những thứ trôi qua mắt lưới, gìn giữ những thứ còn lại dù cho nhỏ nhất. Xe đạp chứa trong nó không chỉ lịch sử, mà còn con người, phong tục, tập quán, quê hương, nguồn cội và ti tỉ hàng hà thứ khác. Nó như di chỉ, nó như xác ướp; để từ đó niên đại được hoàn về đúng thực tế. Rằng nếu bạn nghe ai đấy gọi xe tự quay, thì người ấy nhất định chịu nền giáo dục của Nhật, nếu gọi ngựa sắt hoặc xe Khổng Minh thì tiếng mẹ đẻ của anh ta là tiếng Đài, nếu gọi xe đơn hay xe tự hành thì rất có khả năng người này đến từ miền Nam Trung Quốc hay xem xét tỉ mỉ tình trạng hoen gỉ của từng chiếc xe, sẽ có thể phát hiện ra điều kiện khí hậu của một số vùng, thói quen của chủ xe hay cảnh ngộ của chiếc xe.

Chiếc xe đạp của thời hậu chiến tranh

Thông qua chính hình tượng ấy, Ngô Minh Ích tiếp tục triển khai để cho ta thấy còn gì ẩn sâu dưới những điêu tàn của vật liệu sắt. Ở đó, con người sau thời hậu chiến trở nên cuồng loạn và mất kiểm soát. Nếu trong Bên dòng sông Hằng, Endo Shusaku viết lại chính cái dằn vặt của nhân vật Kiguchi khi lỡ một lần ăn thịt đồng loại lúc quân Đồng Minh nắm thế thượng phong ở rừng Mã Lai; thì trong Chiếc xe đạp mất cắp, đó là Basuya tự đâm vào tai vì tiếng vo ve cứ tồn tại mãi dẫn đến bi kịch tự tử bằng khí gas, là đội trưởng Mục cứ bị ám ảnh mãi leo lên cây rồi đến khi té chết. Và liệu đó có phải là nguyên nhân người cha bỏ đi, khi ông cũng góp phần sang Nhật lắp máy bay phục vụ chiến tranh? Khó mà có thể giải thích được gì. Nhưng trên hết, bằng hình tượng chiếc xe đạp, bằng khoảng dài lịch sử, Ngô Minh Ích phần nào cho thấy con người nhỏ bé và yếu ớt đến mức độ nào trước cuồng nộ, hoang dại và giết chóc lẫn nhau.

Vấn đề sinh thái mới mẻ, thú vị và chiếm một dấu ấn quan trọng trong toàn tiểu thuyết làm nên cái cuốn hút cho người đọc. Mượn sở thú Maruyama những ngày cận chiến, những con voi vốn từng tham gia cuộc chiến nay trở về đây với môi trường nuôi nhốt, những con khỉ vốn quen tự do từ lâu, nay đứng lặng mình trước tấm màn sắt. Những con voi to lớn ấy vốn tổn thương từ lâu, chịu những ám ảnh từ bom đạn, pháo súng; bị con người thúc ép không có đường lui, hoang mang đứng trên chiếc thuyền, đi trên cỏ, trên đường nhựa hay hàng vạn dặm đường để còn mãi ám ảnh trong chúng một thời chiến tranh. Đến khi quân Đồng minh ập vào, vì sự an toàn của cư dân, chúng lại bị bắn, bỏ đói hay thậm chí xẻo thịt cho những viên chức cấp cao. Tối ấy, voi mơ thấy trong tử cung của mình có một voi con, nó ở trong đó đầm đìa máu, trên mình găm đầy mảnh bom vỡ. Voi thò vòi vào âm đạo móc nó ra, đó là cách duy nhất có thể cứu vớt nó. Voi con vẫn chưa hoàn toàn thành hình lấy vòi của nó móc lấy vòi voi mẹ, nhưng vì dùng sức quá mạnh, thông đạo lại quá hẹp, voi con được móc ra đã ngạt thở, còn âm hộ của voi mẹ thì bị mảnh bom rạch chi chít vết thương.

Những động vật ấy bị lột trần hết mức ở thời chiến tranh, chúng không được sống đúng với tự do và chết đi tuân theo số mệnh. Ngô Minh Ích ngoài một nhà văn còn là họa sĩ. Việc đưa voi, khỉ và cây cối lên bìa cuốn sách chứng tỏ những sinh vật này chiếm phần nào đó quan trọng trong ông. Những ngày này, khi văn chương sinh thái có một vị thế vô cùng mạnh mẽ bằng tiếng nói và những khẩu hiệu ngầm, Ngô Minh Ích chứng tỏ góc nhìn sâu sát thời đại, tiệm cận thế giới mà hài hòa với tự nhiên. Thú vật trong tác phẩm ông chịu nhiều bất công, cây cối trong cuốn sách này vừa hiền hòa bao dung lại vừa thống thiết bi thảm. Một góc nhìn mới, thức thời, hiện đại và tràn ngập tình cảm.

Về nghệ thuật viết, Ngô Minh Ích kết hợp hài hòa giữa lối viết tuần tự, đảo ngược thời gian, truyện lồng trong truyện và những phân đoạn hiện thực – kỳ ảo vô cùng đắt giá. Chi tiết đầu truyện khi Abbas đi lặn cùng lão Trâu và những ảo ảnh huyền diệu nơi cửa sông, hình tượng con sáo đá chết hiện thân cho sỹ quan Nhật hay cơn mơ của con voi mẹ giữa những lằn ranh lửa đạn… Tất cả cho thấy một lối viết mới giữa những ảo ảnh song song, với ý nghĩa vô cùng gợi mở, tỏa ra nhiều hướng. Chẳng hạn đường hầm ánh sáng mà Abbas và lão Trâu cùng nhau lặn xuống, liệu có liên quan gì đến hình tượng loài mối ở phía sau sách? Khả năng chịu mất nước của mối rất thấp, bọn chúng nhất định phải có nước, nên dù có chết bao nhiêu mạng mối, bỏ ra bao nhiêu thời gian, bọn chúng chắc chắn sẽ đào xuống tiếp bằng bất kể giá nào, đây là trời định, là bản năng. Rằng rốt cuộc con người cũng không hơn gì loài côn trùng ấy, nhỏ bé, xót xa, lao theo cái chết theo đúng bản năng, vì tự giết nhau, thèm khát vật chất?

Nhưng cũng không hẳn cuốn sách này không chứa điểm yếu. Ngoài những nổi bật phía trên, việc dùng phần lớn thời lượng kể về cuộc chiến không quá thú vị. Một góc nhìn, một giọng kể, không đa dạng và gây nhàm chán với hằng hà những cột mốc thời gian. Hơn thế nữa, cách diễn tiến cốt truyện của Ngô Minh Ích vẫn còn hơi thô và chưa tinh tế. Đơn cử chi tiết trao đổi email với những nội dung không rõ nguồn cơn không biết ai gửi, chúng không thực tế và gợi nhớ lại sự lỗi thời. Một sự cục bộ châu Á, một sự sến súa thường thấy là những điểm yếu lẽ ra có thể tinh giảm nếu đào sâu hơn. Nhưng vượt lên trên hết, Chiếc xe đạp mất cắp vẫn là một tiểu thuyết hay, gợi mở và sừng sững giá trị hiện sinh.

Tạm kết

Với Chiếc xe đạp mất cắp, bằng những đẹp đẽ – xấu xa, đen tối – tươi sáng, trường đoạn mất mát – bài ca hy vọng lồng trong phong cách viết điềm tĩnh và kiểm soát tốt cốt truyện, những chi tiết hiện thực – kỳ ảo ấn tượng, Ngô Minh Ích đã làm nên một lịch sử Đài Loan qua nhiều biến động trong hơn 100 năm và số phận con người sau thời Hậu chiến. Ở đó con người có thể ngu ngốc, chết vị tỵ hiềm, tự giết lẫn nhau như loài mối chúa lao đầu xuống nước; nhưng song song cùng đó, hy vọng cũng được nhân lên, vẻ đẹp mãi mãi trường tồn, trong bầu trời u ám sẽ luôn hiện lên tia sáng soi rọi một điều gì đó từ trong tâm thức. Khúc chiết, điềm tĩnh mà sâu lắng, Chiếc xe đạp mất cắp như loại đĩa nhạc làm từ chất bài tiết của cánh kiến đỏ, tinh than, trộn với hoàng thổ; mà cũng có người gọi đó là chiếc đĩa than.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng