Phía sau trang sách

Những đại lộ vành đai: Trường ca quên lãng của Patrick Modiano

Nếu bạn may mắn được sống ở Paris trong tuổi thanh xuân, thì cho dù có đi đâu trong suốt đường đời còn lại, Paris vẫn ở trong bạn, bởi Paris là một cuộc hội hè miên man. – Ernest Hemingway

Published

on

Đây không phải là cuốn sách đầu tiên trong năm tôi đọc của Patrick Modiano. Như Murakami từng nói, nếu ta đọc những gì người khác cũng đọc – hẳn nhiên ta chỉ có thể tư duy như những người ấy; thế nên khi một tên tuổi lớn như Modiano liên tục được dịch và xuất bản mới, tôi không mấy mặn mà. Lần cầm Quảng trường ngôi sao để đọc hẳn nhiên như một sự tình cờ, và cũng hẳn nhiên, tôi không thể đọc hết. Hơn phân nửa cuốn sách dìm tôi vào làn sương của những rời rạc, của những gì không gắn kết vào nhau, và thế là bỏ cuộc. Đến khi cầm lên Những đại lộ vành đai, đó lại là một sự trùng hợp khác. Với cuốn sách này, những gì là Modiano nhất vẫn hiển hiện vượt lên, về sự rời rạc, cái thiếu gắn kết và quan trọng nhất là sự quên lãng – những cụm từ vẫn thường được nhắc đến mỗi khi ám chỉ phong cách Modiano, và một mặt nào đó, ít nhiều tôi cũng thấm nhuần qua trải nghiệm này.

Những đại lộ vành đai kể về hành trình tìm lại căn cước người cha của Serge sau 10 năm cách biệt bởi những bi kịch không thể nói ngáng đường mối quan hệ giữa họ. Nhịp sống diễn ra trong những chiều tối ở ngôi làng vùng Seine-et-Marne ven rừng Fontainebleau đung đưa đậm chất Pháp; trong khi ngoài kia, chính trị cũng đang biến động, và phong trào bài trừ Do Thái đang đến đỉnh điểm. Trong những nhập nhoạng hơi người và mùi ký ức, Serge lắp ghép những mảnh đời gắn liền với cha mình, để từ đó một bản thể yếm thế hiện ra, trong vỏ bọc của quên lãng, của mất kết nối, và còn gì khác ngoài những rình rập chực chờ nhảy xổ vào trong người đọc?


Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Những đại lộ vành đai.

CÁC NHÂN VẬT

Sự lãng quên có lẽ là mùi vị được nhận thức rõ ràng nhất khi đọc văn chương của Modiano. Trong cuốn tiểu thuyết này, mùi hương ấy len lỏi ám khói vào trong từng con người, cảnh vật và cách bài trí. Sống động nhất trong những chi tiết kể trên là hội các nhân vật mà Serge cố gắng tiếp xúc để tìm kiếm những dẻ xương sườn còn lại của cha mình. Nhóm người ấy là tập hợp những kẻ bị tước mất vị thế, những kẻ nhan nhản sống nhung nhúc ngoài lề xã hội. Tất cả chỉ là giả tạm với những vỏ bọc họ tự dựng ra. Modiano vẫn như thường lệ, không đưa ra một manh mối chắc chắn nào. Ông phủ người đọc bằng lớp lụa của cái hư vô, của sự không chắc chắn; để từ đó thế chênh vênh của các nhân vật bộc lộ, dần dần chuyển hóa thành cái bấp bênh trong mỗi người đọc.  

Murraille, Marcheret, Maud Gallas, Sylviane Quimphe,… tất cả những người trong hội quán ấy tập hợp như bức tranh thu nhỏ của xã hội Paris phù hoa. Murraille – nhân chứng lão luyện của trò tống tiền và quỹ đen, toát ra đủ mùi nguy hiểm. Marcheret – cựu lính lê dương, một kẻ bỏ đi không hơn không kém. Sylviane – người đàn bà ăn bám, sống dựa như ký sinh trùng trong khi Maud Gallas ở đó như kẻ thoát y mua vui trong những quán rượu quầy bar. Nổi bật lên trên là lão mập, một Nam tước Chaval Deyckecaire nào đó, với sự vô cảm đặc trưng Ottoman, phủ phục, kính sợ và run rẩy trước mọi diễn biến. Ông bối rối, bạc nhược và sẽ là nhân vật đáng quên nhất nếu không trở thành mắt xích quan trọng trong câu chuyện của Serge.

Nếu trong Nàng tóc đỏ, Orhan Pamuk dựng lên thế giằng co của những bản ngã cha con giết chết lẫn nhau đậm tính sử thi và sự trơ trơ của Thổ Nhĩ Kỳ; thì ở đây, với Những đại lộ vành đai, câu chuyện ấy lại một lần nữa xuất hiện trở lại, và được gọi dưới tên, như Serge vẫn thường bảo “trường đoạn đau đớn ở trạm tàu điện ngầm George – V”. Cái kết bi thảm ấy diễn ra trong ngày những cảm xúc bối rối gạt chân lẫn nhau để ông một khắc nào đó đẩy cậu con trai vừa đỗ cậu tú vào dưới những bánh xe của gầm tàu hỏa. Động cơ của cú đẩy ấy đến nay vẫn chưa xác định. Liệu đó là sự ganh đua với học vấn của đứa con ông luôn tự hào, trong khi bản thân bất lực với bản cải tạo tuyến đường sắt La Petite Ceinture; hay liệu ông thấy một sao chép DNA thất bại nào đó ở người con trai, mà ở đó ông gợi cho cậu cách giả bút tự của các nhà văn để bán giá cao hơn như Melissa McCarthy một lần nào đó hóa thân trong Can you ever forgive me? Hay một lý giải khác, là cách xỏa bỏ hình ảnh yếm thế, bất lực khi bị hành hung ở chợ tem, ở nhà Pessac và sự thất bát trong lần chơi cổ phiếu từ những công ty phá sản hoặc dẹp tiệm từ lâu?

Không ai biết rõ, ngay cả Serge, và cũng chẳng phải chuyến hành trình của cậu cũng chính là chuyến đi tìm câu trả lời ấy? Nhưng rốt cuộc, sau hằng hà những khó khăn, sau việc viết truyện khiêu dâm, làm đĩ đực, làm bạn tâm tình của một kẻ nghiện rượu và một chuyên gia tống tiền […], lặn ngụp trong bầu không khí xói mòn tinh thần và sức khỏe, đồng hành với những kẻ vô lại, ngày qua ngày để mắt đến bố không ngơi nghỉ; thì kết quả cuối cùng cậu có được không gì hơn chính hình ảnh rất đáng lãng quên ấy, việc bố cậu cùng hội cùng thuyền với đám du thủ du thực ở quầy bar và phớt lờ một cách triệt để đứa con duy nhất của mình.

Modiano tiếp tục phủ một màn sương lãng quên khác lên lời giải đáp ấy, và người đọc thêm một lần nữa chìm sâu vào thứ thuốc mê ông chiết xuất ra. Nhưng ở đó, dẫu biết những huân chương tước vị là giả tạm, vẫn biết sự nhận ra đứa con là giả vờ, vẫn biết mọi chuyện mai này sẽ theo một hướng rất khác; nhưng cậu trai 17 tuổi vào đêm 17 tháng 6 gần như bị tước đi cuộc sống bởi cha mình ấy, vẫn hiên ngang đứng ra bảo vệ người đàn ông ấy. Đến cuối khi ông bị lừa mất hết tất cả, cậu có hai con đường – một, trốn thoát bình yên và hai, chịu cảnh tù tội cùng ông; thì cậu vẫn luôn ở đó, chọn đồng hành ngồi im cúi đầu để có những đụng chạm xác thịt dù là nhỏ nhất mỗi khi xe cảnh sát xóc nảy, bởi những trải nghiệm này là không thể có lại; hay việc giết chết Lestandi khi y có những lời xúc phạm đến ông… Tất cả cho thấy một tình cảm nào đó vượt lên tất cả, tha thứ cho nhau, nhìn nhận lẫn nhau, để rồi mọi thứ lại quay trở lại từ đầu, vì người ta luôn tò mò được biết cội nguồn của mình […] Con sẽ theo bố đến cùng.

NHỮNG CẢNH TRÍ

Không nói quá khi Modiano có biệt tài rằng khi ông chạm vào bất cứ thứ gì, nó đều trở về hư không bám một chút dư vị tan hoang. Ngoài những nhân vật từ lâu rơi vào quên lãng, thì mọi cảnh vật, bầu không khí Paris, bối cảnh chính trị hay thôn xóm đìu hiu ấy đều chứa trong mình một nỗi gì đó dường như thuộc về thời quá vãng.

Bằng giọng kể đậm màu thời gian dời ngược về quá khứ cùng những phong hóa thời đại, nước Pháp của những ngày ấy hiện lên tiêu điều với những cơ ngơi bị bỏ hoang, thời mà nhà Guyot đến Thụy Sỹ tị nạn chính trị, để lại ngôi nhà đậm màu Hồi giáo với vải bọc đồ nội thất lạnh tanh và bầu không khí ủ ê trong nhà nhưng vẫn phải mặc áo choàng; hay lữ quám Le Clos-Foucré được sang tay từ nhà Beausire, nơi tụ tập đàng điếm của nhóm người bị xã hội ghẻ lạnh với ánh đèn chùm ngột ngạt, với sức nóng hun đốt tựa vùng Bắc Phi. Như một thường lệ, họ đến đây những ngày cuối tuần, giống như các gia đình tư sản thời buổi thanh bình trước đó. Cứ tối thứ sáu, họ lại từ Paris kéo về. Tất cả hiện lên một khung cảnh của Paris hoa lệ cùng giới tư sản giàu sang, như lần ngược về câu dẫn trong Hội hè miên man của Hemingway hay những cảnh phim đầy chất cổ điển của Woody Allen trong Midnight in Paris.

Nhưng nhóm người ấy ít nhiều cũng mang một sự tiêu điều hòa vào cảnh vật. Bầu không khí và cảnh quan ấy khiến ngôi làng bên rừng Fontainebleau ấy như bị dâng cho một băng cướp, mà dạo đầu dân làng thường mở cửa sổ. Sau đó, họ quen dần với tiếng ồn ào của đám người mới tới kia. Tất cả làm nên những mảnh ghép bị quên lãng từ lâu trong dòng chảy thời gian, những ngắc ngớ thời đại rình rập từng từng cử chỉ lời nói, của báo chí độc lập, của thông tin ngồi lê đôi mách, của trò làm giàu bẩn, của phong trào bài Do Thái, của hôn nhân tự do, của những bữa ăn nơi hàng hiên, phả khói thuốc và ngắm nhìn sự hoàn hảo của những vòng khói, của đĩ điếm, của sáng tối, của đêm ngày… Modiano một cách vời vợi khắc họa những thời khắc này như những nhiễu âm của chiếc tivi không thu được sóng, giữa những đen trắng lãng quên, giữa những lên xuống cuộc đời gắn liền với vòng xoay lịch sử.

Đó còn là những tối 10 năm về trước của mốc tiểu thuyết này, những tối hai cha con Serge phóng lên chiếc xe cũ kỹ để đến những địa điểm Paris tan hoang được bốc thăm sẵn. Là khu chợ Ai Cập, công viên Montsouris, quán bar Pastroudis, những khu phố kỳ bí… Tất cả những nơi chốn ấy làm nên quỹ tích những điều lạ lẫm vận hành xung quanh hạt nhân Paris trung tâm, mà người canh giữ là trí nhớ những ai một thời quá vãng, như bà Petit-Mirioux trong vai người lính gác già đáng thương đứng trong bóng tối nhà sách chờ đợi ai đó vẫn còn đam mê Pierre Hamp ghé qua. Tất cả buồn thương một nỗi rất riêng. Một sự lãng quên mà hẳn nhiên sẽ không bao giờ có thể quên đối với người đọc.

KẾT

Với Những đại lộ vành đai, Modiano bằng ngòi bút nhạy cảm mà tinh tế khoét sâu vào cái quên lãng vốn có cố hữu trong văn chương ông làm nên một tiểu thuyết tuy ngắn nhưng rất khó quên đối với độc giả. Trong đó tình thân giữa hai nhân vật chính được đặt trên nền móng điêu tàn của cảnh trí nước Pháp như những chập choạng trong buổi chiều tối. Bức tranh tổng thể trong tiểu thuyết này được Modiano vẽ bằng những nét mảnh, đầy nhưng sắc nét. Ông dùng những khoảng ombre chuyển tiếp cần thiết, giữa nhớ và quên, hiện đại và quá khứ, mất mát và còn lại; để cho thấy vốn dĩ bản chất sự quên lãng vẫn luôn tồn tại, ăn sâu và gặm nhấm vào những khoảng ký ức vốn từ lâu con người vẫn quên lật giở. Một vùng mù sương của những lãng quên, một khoảng không rất Modiano để trôi đến vô cực. Đọc cái lãng quên để không còn có thể quên cái lãng quên ấy.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng