Phía sau trang sách

Tứ Thư: Bốn cuốn sách cấm về bản tính con người

Published

on

Có người đặt câu hỏi: “Sách cấm có đáng đọc không?” Vừa có mà lại vừa không. Có vì nó xâm nhập vào những góc khuất sâu nhất của bản chất con người, bởi nếu không phải vì cái góc khuất đó, thì người ta đã chẳng cấm cuốn sách ấy.

Sự cấm ngay bản thân nó đã chứa đựng một bí mật, và con người – loài sinh vật tò mò bậc nhất – thật không nên bỏ qua cơ hội khám phá. Nhưng tại sao lại không nên? Cũng bởi chính vẻ ngoài đầy cám dỗ của bí mật, nó mị hoặc con người, nó thôi thúc chúng ta úp mặt vào mà soi, và giữa cơn mê, không ít người sẽ như anh chàng Narcissus kia, tìm đến ảo ảnh chính mình mà chẳng thể nào thoát ra được. Trong Tứ Thư, Diêm Liên Khoa cân bằng hai yếu tố này một cách hoàn hảo. Ông tạo ra một câu chuyện siêu thực đến hoang đường nơi tất cả đắm mình trong nỗi dằn vặt tất yếu của thời đại, nơi tất cả đi giữa hai lựa chọn nhớ và quên, chấp nhận và chối bỏ.

1. Kẻ sĩ hóa phàm phu

Tứ Thư vốn là bốn trước tác kinh điển của Nho học Trung Hoa, cùng với Ngũ Kinh làm thành cột trụ của Nho Giáo. Với tầm vóc lớn lao như thế, không có gì lạ khi nó trở thành kim chỉ nam cho bao đời kẻ sĩ. Nhưng Diêm Liên Khoa chủ trương viết một Tứ Thư hoàn toàn khác, đối lập với bộ sách kinh điển kia. Trong Tứ Thư của mình, ông ghi chép tỉ mẩn những việc làm, hành động, suy ngẫm của kẻ sĩ thời mạt thế chuyển ngược trở lại thành sách, thành một phản Tứ Thư. Và ở trung tâm của sự biến đổi ấy, không khó đoán, đó là những kẻ sĩ.

Lấy bối cảnh Cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc những năm 60, 70 của thế kỷ trước, những người trí thức buộc phải rời khỏi thành thị tới những trại tập trung dọc bên bờ Hoàng Hà để tiến hành “giáo dục mới.” Họ bị đàn áp, bóc lột nặng nề tưởng chừng như tái hiện lại quang cảnh của chế độ thực dân hơn trăm năm trước, và thậm chí còn tệ hơn. Họ không những phải chịu đựng sự dày vò về thể chất, mà thứ làm họ kiệt lực nhanh nhất chính là sự vò xé tinh thần. Mọi sách vở, nếu không phải nói về công cuộc lập quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đều bị cấm. Văn chương không, tôn giáo không, khoa học không, âm nhạc không, y học cũng không. Tất tần tật cái gì có liên quan đến phương Tây đều là phản động. Chính sách “giáo dục mới” bỗng chốc biến đất nước Trung Hoa năm ngàn năm văn hiến trở về con số 0 tròn trĩnh, tựa như xưa kia những bộ lạc man di phương Bắc xóa sổ nền văn minh Hy-La. Song ở Trung Quốc, mọi chuyện được đẩy đến cùng cực – nhổ cỏ phải nhổ tận gốc – và thời Phục Hưng không hề có cơ hội ở đất nước này. Trong cái đêm trường tăm tối vô tận ấy, người trí thức bị lột sạch tất cả, gột bỏ hết những thứ làm nên con người trí thức của họ, để rồi phơi ra trên mình mỗi người chỉ còn lại hai tay hai chân phục vụ cho gieo trồng bừa cấy – vốn là công việc của nông dân, hay “long trời lở đất, đại luyện gang thép” – vốn chỉ dành cho công nhân. Từ những kẻ sĩ rường cột của cả quốc gia, chỉ sau một thời gian ngắn họ nhanh chóng khoác lên mình bộ đồng phục mới: trở thành phàm phu. Môi trường thi đua ái quốc trong trại cải tạo nhanh chóng làm bừng lên ngọn lửa phàm phu trong họ: “Năm bông hoa nhỏ đổi được một bông hoa nhỡ, năm bông hoa nhỡ đổi một ngôi sao năm cánh, năm ngôi sao năm cánh là các ông được về nhà.”

Đứng ở bình diện người quan sát, chúng ta dễ dàng nhận ra phương cách nhà cầm quyền tước đoạt lương tri con người: bằng cách tước đoạt đi tư tưởng. Không có tư tưởng, chúng ta chẳng khác nào bầy cừu trong chuồng, ngày ngày nhìn đồng loại mất mạng, đêm đêm chỉ biết nỉ non khóc thầm. Không có tư tưởng, chúng ta từ bỏ nền văn minh tốn hàng ngàn năm xây dựng để trở về với xã hội mông muội nguyên thủy, sống trong hỗn loạn khi mỗi người tự thỏa mãn dục vọng của mình. Đừng lầm tưởng, đó đâu phải tự do, đó chỉ là phiên bản phóng chiếu của sở thú, một cái sở thú con người. Tự do dưới những nguyên tắc, tự do được cấp trên chỉ dẫn, tự do làm những việc mình bị ép buộc, kẻ thống trị bóp méo chúng thành những thứ tự do dị dạng. Và người trí thức – những người hiểu rõ cái sự ngụy biện, sự mị hoặc đó nhất – tất yếu sẽ bị thanh trừng đầu tiên. Muốn thắng phải bắt được tướng địch, đánh rắn phải đánh vào đầu, người Trung Quốc, đặc biệt những kẻ thống trị am hiểu điều đó hơn ai hết, rằng một khi “cải tạo” tận gốc tầng lớp trí thức, nghiễm nhiên sẽ không còn ai dám chống đối nữa, không còn ai dám nghi ngờ sự tự do nữa. Ở bình diện người quan sát, chúng ta mới nhận thấy một trăm hai mươi lăm bông hoa đó ghê gớm đến mức nào. Kẻ thống trị tạo ra một phần thưởng tưởng tượng treo tít trên tận trời xanh hòng dẫn dụ những người trí thức. Tất nhiên, kẻ sĩ chân chính chẳng bao giờ bị lợi nhỏ thuyết phục. Nhưng phàm phu thì ngược lại, phàm phu hám lợi, vì lợi có thể dẫm đạp lên người khác. Để đẩy nhanh công cuộc phàm phu hóa kẻ sĩ, nhà cầm quyền sử dụng một phương cách cổ xưa, cách mà Chúa Trời từng sử dụng với thành Babylon: đó là trao cho họ đầy đủ nguyên vật liệu để xây tháp Babel nhằm chạm tới phần thưởng. Chuyện gì đến cũng đã đến, sự hỗn loạn tất yếu xảy ra. Vì là ý tưởng của Chúa, lẽ dĩ nhiên không ai thoát được, hoặc chủ tâm hoặc vô tình bị kéo vào. Một khi đã bước một chân vào rồi thì không thể rút ra được nữa. Tháp Babel cứ thế cao dần lên, và tình người ngày càng đi xuống, cho đến lúc ai đó chợt nhận ra, như ông nhà văn chẳng hạn, thì chẳng còn gì cứu chuộc được nữa. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh anh chàng thí nghiệm ngày đêm rình mò ông học giả và cô nhạc sĩ, cốt để bắt tại trận họ gian dâm với nhau, nhằm lãnh mười, hai mươi bông hoa nhỏ. Hình ảnh ấy đau đớn thay lại là hình ảnh phổ quát của cả khu trại. Một trăm hai mươi lăm bông hoa tưởng chừng như con số khổng lồ, là việc bất khả thi không thể thực hiện được, nhưng trên thực tế chuyện lại trái ngược hẳn: một trăm hai mươi lăm bông hoa là con số vừa đủ để người ta bán đi lương tri của mình.

2. Phàm phu hóa kẻ sĩ

Người Trung Quốc có thuyết âm dương rất hay, mà Diêm Liên Khoa lồng ghép rất mực tài tình. Cả cuốn Tứ Thư là một Thái cực đồ thống nhất với mở đầu bằng cách nhại lại những câu trong Sáng thế ký và kết thúc với sự lặp lại của mở đầu: từ hư không xuất hiện tất cả (khu trại, tội nhân, giáo dục mới, hoa đỏ,…) rồi tất cả lại trở về hư không (những người đói khát chạy trốn khỏi nơi cư trú gặp nhau). Nổi lên trên khung cảnh xám xịt đó là hai đặc trưng rõ nét: 

Thứ nhất, có âm ắt hẳn có dương. Đã có kẻ sĩ tất có phàm phu, kẻ sĩ hóa phàm phu thì lẽ đương nhiên phàm phu phải hóa kẻ sĩ. Con Trời sinh ra chính là như thế. Nó có cái tố chất đặc trưng cho kẻ phàm phu: không biết gì. Kẻ như nó, đáng lý ra cả đời được hưởng những đặc ân đó, được sống sung sướng tự do theo ý mình – cũng là theo ý nhà cầm quyền. Nhưng bất hạnh thay, Con Trời lại được giao cho quyền lực, được đưa lên làm quản lý khu trại cải tạo. Bi kịch của nó nằm ở đó. Nó bỗng nhiên từ kẻ không biết gì trở nên biết tất cả, từ kẻ chỉ biết hám lợi chuyển thành kẻ háo danh, và từ phàm phu hóa thân thành kẻ sĩ. Con Trời bị nào là giấy khen, nào là bông hoa đỏ mị hoặc. Nó mong muốn được lên tỉnh, lên thủ đô, muốn gặp cấp trên, gặp cấp trên của cấp trên, gặp cấp trên cao nhất nhất. Nó muốn được xoa đầu và tuyên dương. Đặc biệt, nó thà mất mạng chứ không mất danh, và khi chết nó muốn chết như một anh hùng, người đổ về phía trước. Tuyền là những biểu hiện háo danh, bị danh hão làm cho mờ mắt, chạy theo danh hão mà quên đi bản chất thật của mình. Con Trời chạy, chạy mãi như thế về phía cái chết, và kéo theo lắm kẻ lầm than. Thế nhưng than ôi, người như nó nhiều vô kể xiết. Con Trời là ví dụ tuyệt vời để nhìn nhận giới cầm quyền hữu danh vô thực – những kẻ không biết gì nhưng nắm tất cả trong tay, những kẻ dễ bị ngộ độc, bị sốc bởi danh hão – nhất là trong một xã hội đi đến hồi mạt kỳ như Tứ Thư.

Thứ hai, thịnh cực tất suy. Hết âm lại đến dương, hết dương lại đến âm. Tại thời điểm đen tối nhất của Nạn Đói Lớn, khi người phải ăn cỏ cây, ăn đất, thậm chí ăn thịt người chết mà sống, thì cũng chính lúc đó, có những kẻ phàm phu tìm lại được căn tính kẻ sĩ của mình. Tôi đang muốn tới ông nhà văn. Ông ta là mẫu người để ta nhìn nhận sự rộng lớn trong bản tính người: thời xây tháp Babel, nhà văn là tên gián điệp đê hèn ghi chép lại mọi sự báo về cấp trên lĩnh hoa đỏ, rồi chính ông ta là kẻ thực sự đã tố cáo học giả và nhạc sĩ gian dâm – biểu hiện của kẻ gian hèn như Tần Cối, thế nhưng ông ta cũng là kẻ hối lỗi đến cùng cực, khi cắt thịt đùi của mình nấu cho học giả và nhạc sĩ để tạ tội – một việc mà tưởng chừng chỉ có bậc đại sĩ như Giới Tử Thôi mới làm. Bản tính con người rộng lớn thế đấy, nó rộng hơn tất thảy những gì chúng ta chiêm nghiệm qua vẻ bề ngoài. Bản tính người đến từ nơi sâu thẳm mỗi cá nhân, không phải trái tim cũng không phải khối óc, nó không thực sự hữu hình, nó đi giữa tồn tại và không tồn tại: vào những lúc không ngờ nhất nó sẽ xuất hiện và vào những hồi rõ ràng nhất nó đột nhiên biến mất. Sự nhìn nhận đúng mực về bản tính người rất quan trọng, giúp chúng ta thâm nhập vào quyển cuối cùng trong Tứ Thư: Thần thoại Sisyphus mới.

3. Kiếp người

Thần thoại Sisyphus mới là quyển cuối cùng trong Tứ Thư, giống một bản tổng kết ngắn lại toàn bộ những chuyện xảy ra cuối cuốn sách, đồng thời nó cũng hiện diện tại khắp mọi ngõ ngách. Với phần cuối này, Diêm Liên Khoa muốn kể một câu chuyện mới, một góc nhìn mới về bi kịch của Sisyphus dưới thế giới quan của ông học giả. Nếu như Albert Camus dùng hình ảnh Sisyphus để đặt ra câu hỏi về tính sống còn của con người thì ông học giả, cũng dùng Sisyphus để tiếp cận những suy tư của chính ông, của những tội nhân cùng khu, nhằm làm sáng tỏ bản chất điên rồ của thời đại mà ông đang sống. Thời ông đang sống – thời Cách mạng Văn hóa – khi người ta chạy theo cơn mê của lòng đố kị, sự nghi hoặc, lòng tham và danh hão thì câu hỏi về sự tồn tại càng trở nên cấp thiết. Ông học giả không muốn như Camus, chỉ mải ngày đêm lăn đá lên đỉnh núi để rồi gần tới đỉnh thì lại tuột dốc lăn xuống, sự vô nghĩa của cuộc sống đó làm ông không chấp nhận được, nhất là khi ông đã trải qua cơn thập tử nhất sinh của Nạn Đói Lớn (hay ít nhất ông vẫn sống đến cuối truyện). Ông học giả, hay Diêm Liên Khoa, muốn chọn một cách tiếp cận khác để tạo ra cái kết khác. Ngọn núi của Sisyphus – hay cũng chính là một trăm hai mươi lăm bông hoa đỏ – trên sườn núi ấy đột nhiên có một đứa trẻ, và sự tồn tại của đứa trẻ cùng cái hành động ngắm nhìn đứa trẻ làm cho Sisyphus biết mình vẫn đang còn sống, biết rằng cuộc sống của mình còn có nghĩa. Tôi cho rằng đứa trẻ kia không ai khác ngoài cô nhạc sĩ người tình của ông học giả (có thể lắm chứ, khi người ta sống vì tình yêu). Nhưng rồi các vị thần (mà cũng có thể là cấp trên lắm chứ), biết được chuyện tình vụng trộm của hai người, biết được trong cơn đọa đày lăn đá (mà cũng có thể là trồng tiểu mạch hay luyện gang thép), tội nhân của họ vẫn được hưởng niềm vui, coi đó như lạc thú thì tức giận không chấp nhận được. Họ bèn chuyển Sisyphus đến một ngọn núi mới, lăn đá từ đỉnh xuống chân núi và khi hòn đá sắp xuống tới chân núi thì bật ngược trở lại với trọng lực ngược. Ông học giả cũng trải qua tình cảnh tương tự, thay vì đấu tranh giành những bông hoa chuyển thành đấu tranh để giữ mạng sống trong Nạn Đói Lớn. Lúc này, những phi lý cuộc đời bỗng chốc trở ngược đầu càng thêm phi lý tợn, và ông học giả lại phải tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Ông không bao giờ trông thấy đứa trẻ nào nữa, đứa trẻ hiện sinh của ông đã bị nạn đói làm cho chết tươi. Mất đi chỗ dựa làm ông tuyệt vọng, ông càng tuyệt vọng bao nhiêu thì các vị thần cấp trên của ông càng sảng khoái bấy nhiêu. Cuối cùng, ông đã nghĩ ra điều mà các vị thần không ngờ tới: ông bấu víu vào chính cơn tuyệt vọng ấy, rồi tưởng tượng ra những đứa trẻ, ra những khu làng. Câu chuyện của ông là câu chuyện của “sự thích nghi”. Kiếp người là sự thích nghi vô hạn: khi đã thích nghi với tuyệt vọng, chúng ta bèn tạo ra hy vọng. Chúng ta cứ đi từ ngọn núi này sang ngọn núi khác như thế, bất kể các vị thần có trừng phạt bằng cách nào, thì họ cũng chẳng thể ngăn trí óc ta, ngăn sự thích nghi của ta lại. Tạo ra hy vọng từ tuyệt vọng, tạo ra một sự phi lý để đối chọi lại một phi lý khác trong một xã hội phi lý là cách ông học giả giữ cho mình tồn tại. Và sự tồn tại của ông, hay của Sisyphus, hay của chính chúng ta, là thứ duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời này.

Hết.

3V

Ảnh: Tao Đàn


Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng