Phía sau trang sách

Tứ Thư: Bốn cuốn sách cấm về bản tính con người

Published

on

Có người đặt câu hỏi: “Sách cấm có đáng đọc không?” Vừa có mà lại vừa không. Có vì nó xâm nhập vào những góc khuất sâu nhất của bản chất con người, bởi nếu không phải vì cái góc khuất đó, thì người ta đã chẳng cấm cuốn sách ấy.

Sự cấm ngay bản thân nó đã chứa đựng một bí mật, và con người – loài sinh vật tò mò bậc nhất – thật không nên bỏ qua cơ hội khám phá. Nhưng tại sao lại không nên? Cũng bởi chính vẻ ngoài đầy cám dỗ của bí mật, nó mị hoặc con người, nó thôi thúc chúng ta úp mặt vào mà soi, và giữa cơn mê, không ít người sẽ như anh chàng Narcissus kia, tìm đến ảo ảnh chính mình mà chẳng thể nào thoát ra được. Trong Tứ Thư, Diêm Liên Khoa cân bằng hai yếu tố này một cách hoàn hảo. Ông tạo ra một câu chuyện siêu thực đến hoang đường nơi tất cả đắm mình trong nỗi dằn vặt tất yếu của thời đại, nơi tất cả đi giữa hai lựa chọn nhớ và quên, chấp nhận và chối bỏ.

1. Kẻ sĩ hóa phàm phu

Tứ Thư vốn là bốn trước tác kinh điển của Nho học Trung Hoa, cùng với Ngũ Kinh làm thành cột trụ của Nho Giáo. Với tầm vóc lớn lao như thế, không có gì lạ khi nó trở thành kim chỉ nam cho bao đời kẻ sĩ. Nhưng Diêm Liên Khoa chủ trương viết một Tứ Thư hoàn toàn khác, đối lập với bộ sách kinh điển kia. Trong Tứ Thư của mình, ông ghi chép tỉ mẩn những việc làm, hành động, suy ngẫm của kẻ sĩ thời mạt thế chuyển ngược trở lại thành sách, thành một phản Tứ Thư. Và ở trung tâm của sự biến đổi ấy, không khó đoán, đó là những kẻ sĩ.

Lấy bối cảnh Cách mạng Văn Hóa ở Trung Quốc những năm 60, 70 của thế kỷ trước, những người trí thức buộc phải rời khỏi thành thị tới những trại tập trung dọc bên bờ Hoàng Hà để tiến hành “giáo dục mới.” Họ bị đàn áp, bóc lột nặng nề tưởng chừng như tái hiện lại quang cảnh của chế độ thực dân hơn trăm năm trước, và thậm chí còn tệ hơn. Họ không những phải chịu đựng sự dày vò về thể chất, mà thứ làm họ kiệt lực nhanh nhất chính là sự vò xé tinh thần. Mọi sách vở, nếu không phải nói về công cuộc lập quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đều bị cấm. Văn chương không, tôn giáo không, khoa học không, âm nhạc không, y học cũng không. Tất tần tật cái gì có liên quan đến phương Tây đều là phản động. Chính sách “giáo dục mới” bỗng chốc biến đất nước Trung Hoa năm ngàn năm văn hiến trở về con số 0 tròn trĩnh, tựa như xưa kia những bộ lạc man di phương Bắc xóa sổ nền văn minh Hy-La. Song ở Trung Quốc, mọi chuyện được đẩy đến cùng cực – nhổ cỏ phải nhổ tận gốc – và thời Phục Hưng không hề có cơ hội ở đất nước này. Trong cái đêm trường tăm tối vô tận ấy, người trí thức bị lột sạch tất cả, gột bỏ hết những thứ làm nên con người trí thức của họ, để rồi phơi ra trên mình mỗi người chỉ còn lại hai tay hai chân phục vụ cho gieo trồng bừa cấy – vốn là công việc của nông dân, hay “long trời lở đất, đại luyện gang thép” – vốn chỉ dành cho công nhân. Từ những kẻ sĩ rường cột của cả quốc gia, chỉ sau một thời gian ngắn họ nhanh chóng khoác lên mình bộ đồng phục mới: trở thành phàm phu. Môi trường thi đua ái quốc trong trại cải tạo nhanh chóng làm bừng lên ngọn lửa phàm phu trong họ: “Năm bông hoa nhỏ đổi được một bông hoa nhỡ, năm bông hoa nhỡ đổi một ngôi sao năm cánh, năm ngôi sao năm cánh là các ông được về nhà.”

Đứng ở bình diện người quan sát, chúng ta dễ dàng nhận ra phương cách nhà cầm quyền tước đoạt lương tri con người: bằng cách tước đoạt đi tư tưởng. Không có tư tưởng, chúng ta chẳng khác nào bầy cừu trong chuồng, ngày ngày nhìn đồng loại mất mạng, đêm đêm chỉ biết nỉ non khóc thầm. Không có tư tưởng, chúng ta từ bỏ nền văn minh tốn hàng ngàn năm xây dựng để trở về với xã hội mông muội nguyên thủy, sống trong hỗn loạn khi mỗi người tự thỏa mãn dục vọng của mình. Đừng lầm tưởng, đó đâu phải tự do, đó chỉ là phiên bản phóng chiếu của sở thú, một cái sở thú con người. Tự do dưới những nguyên tắc, tự do được cấp trên chỉ dẫn, tự do làm những việc mình bị ép buộc, kẻ thống trị bóp méo chúng thành những thứ tự do dị dạng. Và người trí thức – những người hiểu rõ cái sự ngụy biện, sự mị hoặc đó nhất – tất yếu sẽ bị thanh trừng đầu tiên. Muốn thắng phải bắt được tướng địch, đánh rắn phải đánh vào đầu, người Trung Quốc, đặc biệt những kẻ thống trị am hiểu điều đó hơn ai hết, rằng một khi “cải tạo” tận gốc tầng lớp trí thức, nghiễm nhiên sẽ không còn ai dám chống đối nữa, không còn ai dám nghi ngờ sự tự do nữa. Ở bình diện người quan sát, chúng ta mới nhận thấy một trăm hai mươi lăm bông hoa đó ghê gớm đến mức nào. Kẻ thống trị tạo ra một phần thưởng tưởng tượng treo tít trên tận trời xanh hòng dẫn dụ những người trí thức. Tất nhiên, kẻ sĩ chân chính chẳng bao giờ bị lợi nhỏ thuyết phục. Nhưng phàm phu thì ngược lại, phàm phu hám lợi, vì lợi có thể dẫm đạp lên người khác. Để đẩy nhanh công cuộc phàm phu hóa kẻ sĩ, nhà cầm quyền sử dụng một phương cách cổ xưa, cách mà Chúa Trời từng sử dụng với thành Babylon: đó là trao cho họ đầy đủ nguyên vật liệu để xây tháp Babel nhằm chạm tới phần thưởng. Chuyện gì đến cũng đã đến, sự hỗn loạn tất yếu xảy ra. Vì là ý tưởng của Chúa, lẽ dĩ nhiên không ai thoát được, hoặc chủ tâm hoặc vô tình bị kéo vào. Một khi đã bước một chân vào rồi thì không thể rút ra được nữa. Tháp Babel cứ thế cao dần lên, và tình người ngày càng đi xuống, cho đến lúc ai đó chợt nhận ra, như ông nhà văn chẳng hạn, thì chẳng còn gì cứu chuộc được nữa. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh anh chàng thí nghiệm ngày đêm rình mò ông học giả và cô nhạc sĩ, cốt để bắt tại trận họ gian dâm với nhau, nhằm lãnh mười, hai mươi bông hoa nhỏ. Hình ảnh ấy đau đớn thay lại là hình ảnh phổ quát của cả khu trại. Một trăm hai mươi lăm bông hoa tưởng chừng như con số khổng lồ, là việc bất khả thi không thể thực hiện được, nhưng trên thực tế chuyện lại trái ngược hẳn: một trăm hai mươi lăm bông hoa là con số vừa đủ để người ta bán đi lương tri của mình.

2. Phàm phu hóa kẻ sĩ

Người Trung Quốc có thuyết âm dương rất hay, mà Diêm Liên Khoa lồng ghép rất mực tài tình. Cả cuốn Tứ Thư là một Thái cực đồ thống nhất với mở đầu bằng cách nhại lại những câu trong Sáng thế ký và kết thúc với sự lặp lại của mở đầu: từ hư không xuất hiện tất cả (khu trại, tội nhân, giáo dục mới, hoa đỏ,…) rồi tất cả lại trở về hư không (những người đói khát chạy trốn khỏi nơi cư trú gặp nhau). Nổi lên trên khung cảnh xám xịt đó là hai đặc trưng rõ nét: 

Thứ nhất, có âm ắt hẳn có dương. Đã có kẻ sĩ tất có phàm phu, kẻ sĩ hóa phàm phu thì lẽ đương nhiên phàm phu phải hóa kẻ sĩ. Con Trời sinh ra chính là như thế. Nó có cái tố chất đặc trưng cho kẻ phàm phu: không biết gì. Kẻ như nó, đáng lý ra cả đời được hưởng những đặc ân đó, được sống sung sướng tự do theo ý mình – cũng là theo ý nhà cầm quyền. Nhưng bất hạnh thay, Con Trời lại được giao cho quyền lực, được đưa lên làm quản lý khu trại cải tạo. Bi kịch của nó nằm ở đó. Nó bỗng nhiên từ kẻ không biết gì trở nên biết tất cả, từ kẻ chỉ biết hám lợi chuyển thành kẻ háo danh, và từ phàm phu hóa thân thành kẻ sĩ. Con Trời bị nào là giấy khen, nào là bông hoa đỏ mị hoặc. Nó mong muốn được lên tỉnh, lên thủ đô, muốn gặp cấp trên, gặp cấp trên của cấp trên, gặp cấp trên cao nhất nhất. Nó muốn được xoa đầu và tuyên dương. Đặc biệt, nó thà mất mạng chứ không mất danh, và khi chết nó muốn chết như một anh hùng, người đổ về phía trước. Tuyền là những biểu hiện háo danh, bị danh hão làm cho mờ mắt, chạy theo danh hão mà quên đi bản chất thật của mình. Con Trời chạy, chạy mãi như thế về phía cái chết, và kéo theo lắm kẻ lầm than. Thế nhưng than ôi, người như nó nhiều vô kể xiết. Con Trời là ví dụ tuyệt vời để nhìn nhận giới cầm quyền hữu danh vô thực – những kẻ không biết gì nhưng nắm tất cả trong tay, những kẻ dễ bị ngộ độc, bị sốc bởi danh hão – nhất là trong một xã hội đi đến hồi mạt kỳ như Tứ Thư.

Thứ hai, thịnh cực tất suy. Hết âm lại đến dương, hết dương lại đến âm. Tại thời điểm đen tối nhất của Nạn Đói Lớn, khi người phải ăn cỏ cây, ăn đất, thậm chí ăn thịt người chết mà sống, thì cũng chính lúc đó, có những kẻ phàm phu tìm lại được căn tính kẻ sĩ của mình. Tôi đang muốn tới ông nhà văn. Ông ta là mẫu người để ta nhìn nhận sự rộng lớn trong bản tính người: thời xây tháp Babel, nhà văn là tên gián điệp đê hèn ghi chép lại mọi sự báo về cấp trên lĩnh hoa đỏ, rồi chính ông ta là kẻ thực sự đã tố cáo học giả và nhạc sĩ gian dâm – biểu hiện của kẻ gian hèn như Tần Cối, thế nhưng ông ta cũng là kẻ hối lỗi đến cùng cực, khi cắt thịt đùi của mình nấu cho học giả và nhạc sĩ để tạ tội – một việc mà tưởng chừng chỉ có bậc đại sĩ như Giới Tử Thôi mới làm. Bản tính con người rộng lớn thế đấy, nó rộng hơn tất thảy những gì chúng ta chiêm nghiệm qua vẻ bề ngoài. Bản tính người đến từ nơi sâu thẳm mỗi cá nhân, không phải trái tim cũng không phải khối óc, nó không thực sự hữu hình, nó đi giữa tồn tại và không tồn tại: vào những lúc không ngờ nhất nó sẽ xuất hiện và vào những hồi rõ ràng nhất nó đột nhiên biến mất. Sự nhìn nhận đúng mực về bản tính người rất quan trọng, giúp chúng ta thâm nhập vào quyển cuối cùng trong Tứ Thư: Thần thoại Sisyphus mới.

3. Kiếp người

Thần thoại Sisyphus mới là quyển cuối cùng trong Tứ Thư, giống một bản tổng kết ngắn lại toàn bộ những chuyện xảy ra cuối cuốn sách, đồng thời nó cũng hiện diện tại khắp mọi ngõ ngách. Với phần cuối này, Diêm Liên Khoa muốn kể một câu chuyện mới, một góc nhìn mới về bi kịch của Sisyphus dưới thế giới quan của ông học giả. Nếu như Albert Camus dùng hình ảnh Sisyphus để đặt ra câu hỏi về tính sống còn của con người thì ông học giả, cũng dùng Sisyphus để tiếp cận những suy tư của chính ông, của những tội nhân cùng khu, nhằm làm sáng tỏ bản chất điên rồ của thời đại mà ông đang sống. Thời ông đang sống – thời Cách mạng Văn hóa – khi người ta chạy theo cơn mê của lòng đố kị, sự nghi hoặc, lòng tham và danh hão thì câu hỏi về sự tồn tại càng trở nên cấp thiết. Ông học giả không muốn như Camus, chỉ mải ngày đêm lăn đá lên đỉnh núi để rồi gần tới đỉnh thì lại tuột dốc lăn xuống, sự vô nghĩa của cuộc sống đó làm ông không chấp nhận được, nhất là khi ông đã trải qua cơn thập tử nhất sinh của Nạn Đói Lớn (hay ít nhất ông vẫn sống đến cuối truyện). Ông học giả, hay Diêm Liên Khoa, muốn chọn một cách tiếp cận khác để tạo ra cái kết khác. Ngọn núi của Sisyphus – hay cũng chính là một trăm hai mươi lăm bông hoa đỏ – trên sườn núi ấy đột nhiên có một đứa trẻ, và sự tồn tại của đứa trẻ cùng cái hành động ngắm nhìn đứa trẻ làm cho Sisyphus biết mình vẫn đang còn sống, biết rằng cuộc sống của mình còn có nghĩa. Tôi cho rằng đứa trẻ kia không ai khác ngoài cô nhạc sĩ người tình của ông học giả (có thể lắm chứ, khi người ta sống vì tình yêu). Nhưng rồi các vị thần (mà cũng có thể là cấp trên lắm chứ), biết được chuyện tình vụng trộm của hai người, biết được trong cơn đọa đày lăn đá (mà cũng có thể là trồng tiểu mạch hay luyện gang thép), tội nhân của họ vẫn được hưởng niềm vui, coi đó như lạc thú thì tức giận không chấp nhận được. Họ bèn chuyển Sisyphus đến một ngọn núi mới, lăn đá từ đỉnh xuống chân núi và khi hòn đá sắp xuống tới chân núi thì bật ngược trở lại với trọng lực ngược. Ông học giả cũng trải qua tình cảnh tương tự, thay vì đấu tranh giành những bông hoa chuyển thành đấu tranh để giữ mạng sống trong Nạn Đói Lớn. Lúc này, những phi lý cuộc đời bỗng chốc trở ngược đầu càng thêm phi lý tợn, và ông học giả lại phải tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Ông không bao giờ trông thấy đứa trẻ nào nữa, đứa trẻ hiện sinh của ông đã bị nạn đói làm cho chết tươi. Mất đi chỗ dựa làm ông tuyệt vọng, ông càng tuyệt vọng bao nhiêu thì các vị thần cấp trên của ông càng sảng khoái bấy nhiêu. Cuối cùng, ông đã nghĩ ra điều mà các vị thần không ngờ tới: ông bấu víu vào chính cơn tuyệt vọng ấy, rồi tưởng tượng ra những đứa trẻ, ra những khu làng. Câu chuyện của ông là câu chuyện của “sự thích nghi”. Kiếp người là sự thích nghi vô hạn: khi đã thích nghi với tuyệt vọng, chúng ta bèn tạo ra hy vọng. Chúng ta cứ đi từ ngọn núi này sang ngọn núi khác như thế, bất kể các vị thần có trừng phạt bằng cách nào, thì họ cũng chẳng thể ngăn trí óc ta, ngăn sự thích nghi của ta lại. Tạo ra hy vọng từ tuyệt vọng, tạo ra một sự phi lý để đối chọi lại một phi lý khác trong một xã hội phi lý là cách ông học giả giữ cho mình tồn tại. Và sự tồn tại của ông, hay của Sisyphus, hay của chính chúng ta, là thứ duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời này.

Hết.

3V

Ảnh: Tao Đàn


Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng