Sáng tác

Truyện ngắn: Giáng Sinh (Vladimir Nabokov)

Published

on

Sau khi đi bộ từ trong làng trở về trang viên băng ngang cánh đồng tuyết sáng lờ mờ, Sleptsov ngồi vào trong góc nhà, trên cái ghế bọc nhung ông không nhớ đã từng dùng đến nó. Tương tự như những chuyện chúng ta thường thấy sau một cơn đại họa. Không phải anh em mà lại là một người quen sơ, ông láng giềng ở nông thôn bạn chẳng mấy khi để ý đến, lúc bình thường bạn chẳng buồn trò chuyện đến, lại chính là người an ủi bạn, rất khéo léo và hoàn toàn dịu dàng, nhặt hộ bạn cái mũ bạn đánh rơi sau khi tang lễ chấm dứt lúc bạn đang bị choáng váng trong nỗi đau khổ, răng bạn đang run lập cập, và mắt bạn đang mờ nước mắt. Người ta cũng có thể nói như thế về đồ vật. Bất cứ căn phòng nào, ngay cả những căn phòng ấm áp thân mật nhất và nhỏ đến vô lý nhất, trong cái chái nhà ít khi được sử dụng của một trang viên đồ sộ ở nông thôn cũng có một góc không ai lui tới. Và đó là cái góc nhà Sleptsov đang ngồi.

Chái nhà này nối liền, bằng một hành lang dài và hẹp bằng gỗ, đang bị cơn tuyết miền Bắc Nga lấp đầy, với phần chính của ngôi nhà, chỉ được dùng vào mùa hè. Không cần thiết phải đánh thức hay sưởi ấm nó; chủ nhân của ngôi trang viên đến từ Petersburg ở chỉ đôi ba ngày và chỉ cần dùng phần nối liền của ngôi nhà, chỗ này đơn giản chỉ cần nhóm cái bếp bằng sứ Hòa Lan.

Chủ nhân của trang viên ngồi trong cái góc nhà không ai qua lại này, trên cái ghế bọc nhung, như thể ông đang ngồi chờ trong phòng mạch của bác sĩ. Căn phòng trôi nổi trong bóng tối, và màu xanh thẫm của hoàng hôn lọc thấm qua chòm lông tơ pha lê của sương giá trên khung kính cửa sổ. Ivan, ông giúp việc bệ vệ và ít nói, mới cạo sạch bộ ria mép nên trông ông rất giống ông bố đã qua đời, trước là quản gia, mang vào một cây đèn dầu hỏa, lau chùi sạch sẽ và sáng rực. Ông đặt đèn lên cái bàn nhỏ và, rất êm ả, ông lấy cái chụp đèn lụa màu hồng rào vây chung quanh đèn. Trong một thoáng ngắn ngủi cái gương nghiêng phản chiếu ánh sáng lên lỗ tai và mái tóc bạc cắt ngắn của ông. Xong, ông thoái lui và cánh cửa kêu kẽo kẹt nho nhỏ.

Sleptsov nhấc bàn tay ra khỏi đầu gối, chậm chạp quan sát. Một giọt nến đã dính và đông cứng lại ở khoảng da mỏng giữa hai ngón tay. Ông xòe các ngón tay và lớp vảy mỏng màu trắng bị vỡ tan.

*

Sáng hôm sau, sau một đêm đầy những giấc mơ vụn vằn vô nghĩa hoàn toàn chẳng liên hệ với nỗi buồn khổ của ông, khi Sleptsov bước ra ngoài hàng hiên lạnh giá, nền nhà thoát ra tiếng kêu răng rắc như tiếng súng nổ vui vẻ dưới chân ông, và ánh phản chiếu của các ô kính cửa sổ nhiều màu sắc kết hợp lại thành những hình thoi đẹp tuyệt trần chiếu lên trên những cái ghế trắng không bọc nệm đặt cạnh cửa sổ. Thoạt tiên lớp cửa bên ngoài hơi khó đẩy, rồi thì nó chịu mở ra với tiếng kêu giòn giã răng rắc, và hơi băng giá choáng ngợp tạt vào mặt ông. Lớp cát màu đo đỏ được rải lên lớp băng che phủ những bậc thềm của hiên trước trông giống như bột quế, và các thỏi băng nhũ thật dày có màu xanh lơ pha lục treo lủng lẳng trên mái nhà. Lớp tuyết dày len lỏi vào tận trong mấy cái cửa sổ của phần nhà nối, xiết chặt dãy hành lang hẹp bằng gỗ gọn gàng này bằng gọng kềm giá lạnh. Cái khối màu trắng ngà, trước là nơi trồng hoa vào mùa hè, đã phồng to lên, hơi cao hơn mực tuyết của hàng hiên trước, và xa xa là ánh sáng lộng lẫy của rừng, nơi ấy tất cả các cành cây màu đen đều được viền ánh bạc, và những ngọn thông xanh dường như co rúm những cái vấu màu xanh lục bên dưới sức nặng đẫy đà sáng rực của chúng.

Mang đôi ủng nỉ và cái áo khoác ngắn bên trong lót bằng lông thú có cổ áo bằng lông cừu, Sleptsov bước chầm chậm dọc theo con đường nhỏ rất thẳng, con đường vỏn vẹn đã được dọn sạch tuyết chạy vào cánh đồng tuyết sáng đến lóa mắt phía đằng xa. Ông ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống, vẫn còn có thể nhận thấy cái sáng rực rỡ của tuyết, và cảm thấy đau buốt ở mấy cái răng cửa vì không khí lạnh. Ông cũng chú ý đến cái bụi cây bị tuyết phủ trông giống như một cái nguồn nước phông-tên, và con chó đã để lại trên bờ tuyết một chuỗi dấu chân màu vàng nghệ hằn sâu vào rìa của bờ tuyết. Xa hơn một chút nữa, những bộ phận chống đỡ cái cầu dành cho khách bộ hành thò ra khỏi tuyết, và Sleptsov dừng lại ở nơi ấy. Cáu kỉnh, giận dữ, ông xô lớp tuyết dày xốp phủ đầy lan can cầu. Ông nhớ thật sống động dáng dấp cây cầu vào mùa hè. Cậu bé con trai ông đi dọc theo những thanh gỗ cầu trơn trợt, lấm tấm điểm hoa dại, khéo léo dùng vợt bắt con bướm đậu trên thành cầu. Thế rồi cậu bé nhìn thấy ông bố. Đã mãi mãi mất rồi tiếng cười đùa trên mặt cậu bé, bên dưới cái vành nón rơm bẻ cụp xuống bị nắng rám đen; mấy món đồ chơi cầm tay và dây xích của cái ví da cột vào dây thắt lưng, đôi chân đáng yêu của cậu bé rám nắng nhẵn nhụi trong cái quần “sọt” vải và đôi săng-đan ướt đẫm như lệ thường đứng ở thế dạng chân rất vui vẻ. Chỉ mới đây thôi, ở Petersburg, sau khi say sưa ba hoa về chuyện ở trường, chuyện cái xe đạp, về mấy con bướm Á châu rất đẹp, cậu bé bỗng qua đời, và hôm qua Sleptsov đã mang cỗ quan tài – rất nặng nề, dường như nó chứa sức nặng của cả cuộc đời – về làng, đưa vào nhà mồ riêng của gia đình ở gần nhà thờ trong làng.

Không gian yên vắng như chỉ có thể yên vắng đến thế này trong một ngày sáng sủa và lạnh giá. Sleptsov nhấc chân lên, bước ra khỏi lối đi, và để lại những vết lõm sâu màu xanh lơ trong tuyết, tạo lối đi giữa những thân cây trắng lạ lùng đến nơi cánh rừng bắt đầu rẽ xuống hướng bờ sông. Phía dưới thật xa, những khối băng tỏa ánh sáng lấp lánh gần một cái lỗ bị cắt thủng trong một màu trắng mịn bao la, và, ở bờ bên kia mấy cột khói màu hồng đứng thẳng bên trên mái nhà phủ đầy tuyết của những căn nhà được xây bằng thân gỗ tròn. Sleptsov cởi cái mũ lông cừu đứng tựa lưng vào thân cây. Ở phía xa thật xa, nông dân đang bổ củi – âm thanh của mỗi nhát búa vang vọng lên không trung – và ở bên ngoài làn sương mỏng màu bạc bao phủ rặng cây, bên trên những túp lều gỗ đang ngồi xổm, ánh mặt trời chiếu sáng vẻ thư thái của cây thánh giá trên nhà thờ.

Ông sẽ đến nơi ấy sau bữa ăn trưa bằng cỗ xe trượt tuyết cũ kỹ có chỗ dựa lưng rất thẳng. Tiếng vó của con ngựa màu đen nện mạnh mẽ trong không gian lạnh băng, các chòm lông trắng của những cành cây thấp là đà trượt phía trên đầu, và dấu bánh xe ở phía trước lấp loáng màu xanh lơ có ánh bạc. Khi ông đến nơi, ông ngồi độ một giờ đồng hồ bên cạnh mộ, đặt đôi bàn tay đeo găng bằng len dầy nặng lên trên những thành cầu bằng sắt, hơi lạnh xuyên qua lớp len làm bỏng rát bàn tay ông. Ông về nhà với một nỗi thất vọng nhẹ nhàng, như thể để con trong nhà mồ càng làm xa cách với ông hơn là chỗ này, nơi để lại vô số dấu chân thoăn thoắt của cậu bé đã được bảo toàn bằng lớp tuyết bao phủ.

Chiều tối, bất chợt bị nỗi buồn mãnh liệt tràn ngập, ông bảo mở cửa gian nhà chính. Khi cánh cửa mở toang với tiếng kêu buồn phiền như tiếng khóc, thoang thoảng có một mùi đặc biệt, tươi mát chứ không mốc meo như mùi của mùa đông, thổi từ tiền sảnh có chấn song sắt, Sleptsov lấy ngọn đèn với tấm phản chiếu bằng thiếc từ tay người gác cửa rồi vào nhà một mình. Nền nhà bằng gỗ kêu răng rắc đầy vẻ rùng rợn dưới bước chân của ông. Từ phòng này sang phòng khác trong ánh sáng vàng vọt, và những vật dụng trong nhà được che phủ bằng những tấm vải trông rất xa lạ; thay vì tiếng rung lanh canh của cái đèn trần là một cái bao im lìm treo trên trần nhà, và cái bóng khổng lồ của Sleptsov, chậm chạp duỗi cánh tay, bồng bềnh trôi trên tường và bên trên những cái hình vuông xám của những bức tranh đã được phủ che.

Ông vào phòng cậu con trai đã dùng làm phòng học lúc mùa hè, để ngọn đèn lên bệ cửa sổ, rồi làm gãy móng tay khi ông cố mở cửa sổ, mặc dù ngoài kia chỉ toàn là bóng đêm. Trên tấm kính màu xanh, ngọn lửa vàng của cái đèn hơi bị khói ám hiện ra, và bộ mặt to lớn, râu ria của ông xuất hiện trong chốc lát.

Ông ngồi xuống ở cái bàn trống trải và nghiêm nghị, chau mày khám xét giấy dán tường màu nhạt viền quanh là những dây chuỗi hoa hồng xanh; một cái tủ hẹp thường được dùng ở các văn phòng với những ngăn kéo từ trên xuống dưới; một cái ghế nệm dài và mấy cái ghế bành được che trùm lại; rồi bất thần, gục đầu lên trên bàn, ông bắt đầu lắc mạnh, mê mải, mãnh liệt, ồn ào, áp đôi môi và sau đó đến gò má đẫm ướt vào cái mặt gỗ lạnh lẽo đóng đầy bụi và nắm chặt mấy góc bàn.

Trong ngăn bàn ông tìm thấy quyển vở, cái bảng, mấy cái kim găm màu đen, và một hộp bánh bích-qui bằng thiếc trong đó có chứa một cái kén rất lạ mắt trị giá ba rubles. Sờ vào, nó mỏng manh như giấy và dường như nó được làm bằng một chiếc lá màu nâu cuộn tròn. Cậu con của ông đã nhớ đến nó lúc cậu bé đang nằm bệnh, hối tiếc là mình đã bỏ nó lại ở nhà nhưng tự an ủi với ý nghĩ là con nhộng bên trong có lẽ đã chết rồi. Sleptsov cũng tìm thấy một cái vợt lưới đã mòn: một cái túi bằng vải mỏng như mút-xơ-lin đặt lên trên một cái vòng có thể xếp lại (và lớp vải này vẫn còn mùi của mùa hạ với mùi cỏ nóng vì ánh mặt trời).

Cúi gập người xuống thấp hơn, rồi thấp hơn nữa, ông khóc nức nở rung chuyển cả thân hình, rồi ông bắt đầu kéo ra từng chiếc ngăn có nắp đậy bằng kính trong cái tủ đứng. Trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn, những vật làm mẫu được sắp xếp ngay ngắn, chiếu sáng như lụa bên dưới lớp kính. Ở đây, trong phòng này, trên bàn ấy, con ông đã dang đôi cánh những động vật cậu bắt được. Trước tiên cậu dùng kim găm cắm con côn trùng đã được cẩn thận giết chết lên cái khe rãnh có đáy bằng gỗ xốp của cái bảng trưng bày, ở giữa những lát gỗ mỏng có thể điều chỉnh được và ép nó xuống cho thật phẳng bằng kim ghim trên những mảnh giấy lên đôi cánh vẫn còn tươi và mềm mại. Bây giờ thì chúng đã rất khô và đã được chuyển vào trong cái tủ đứng này – loài bướm Đuôi Én tuyệt mỹ, loại bướm hiếm màu Đồng và màu Xanh, và các loại bướm quí khác, một vài con bướm được gắn lên bảng ở vị thế nằm ngửa để trưng bày trứng bướm. Con ông từng đọc tên Latin của những loại côn trùng này với giọng than thở một cách đắc thắng hay rẻ rúng. Và lũ bướm, lũ bướm Diều Hâu Aspen đầu tiên xuất hiện hồi mùa hạ của năm năm trước.

Đêm có màu xanh của khói và trăng rất sáng; mây mỏng lác đác trên trời nhưng không vệt mây nào chạm đến mặt trăng kiêu sa và mỏng manh. Rừng cây, những mảng dày băng giá màu xám, rải bóng đen trên tuyết, lấp lánh chỗ này nơi kia một thứ ánh sáng của kim loại. Trong cái ghế bọc nhung, gian phòng sưởi ấm áp của đoạn nối hai dãy nhà, Ivan đã đặt một cây thông cao chừng sáu hay bảy tấc trong một cái chậu đất sét nung lên bàn, và chỉ cắm một ngọn nến lên chân nến hình thánh giá khi Sleptsov từ gian nhà chính quay về, lạnh lẽo, mắt đỏ hoe, bụi xám còn dính đầy trên má, dưới nách cặp theo cái hộp gỗ. Nhìn thấy cây Giáng Sinh trên bàn, ông hỏi lơ đễnh, “Cái gì đây?”

Đỡ cái hộp gỗ trên tay ông, Ivan trả lời bằng giọng rất nhỏ nhẹ, dịu dàng, “Ngày mai là ngày lễ.”

“Không, mang nó đi chỗ khác,” Sleptsov nói với vẻ cau có, trong đầu thì suy nghĩ, “Có thể nào là đêm Giáng Sinh? Tại sao ta có thể quên chứ?”

Ivan dịu dàng giữ ý kiến, “Nó đẹp và xanh mướt. Cho nó đứng ở đây một thời gian.”

“Làm ơn mang nó đi,” Sleptsov lặp lại, cúi người trên cái hộp gỗ ông mang về. Trong đó ông đã mang hết đồ dùng của con trai – cái vợt bắt bướm có thể gấp lại được, hộp bánh bích-qui bằng thiếc với cái kén hình quả lê, cái bảng để giăng cánh bướm, những cây kim găm trong cái hộp sơn mài, cuốn vở màu xanh. Phân nửa trang đầu tiên đã bị xé đi, và phần còn lại chứa một phần bài chính tả tiếng Pháp. Sau đó có những bài nhật ký, tên của những con bướm bắt được, và những hàng ghi chú khác:

Đi ngang một vùng đầm lầy xa mãi tận Borovichi…

Hôm nay mưa. Đánh cờ với bố, sau đó đọc Frigate của Goncharov, cuốn sách chán kinh khủng.

Một ngày nóng tuyệt vời. Chạy xe đạp buổi chiều tối. Một con bọ bé xíu rơi vào mắt tôi. Cố ý đạp xe ngang ngôi nhà nghỉ hè của cô bé ấy hai lần, nhưng không gặp cô bé…

Sleptsov ngẩng đầu lên, nuốt cái gì đó rất nóng và to lớn. Con ông viết về ai thế?

Chạy xe đạp như thường lệ. Chúng tôi nhìn nhau. Cục cưng của tôi, người yêu ơi…

“Chuyện này không thể tưởng tượng được,” Sleptsov thầm thì. “Tôi không bao giờ biết…”

Ông lại cúi người xuống, tập trung cố giải mã nét chữ trẻ con hết nghiêng người đứng lên lại bẻ cong xuống lề quyển vở.

Nhìn thấy một loại bướm mới của giống Mỹ Nữ Camberwell hôm nay. Điều đó có nghĩa là mùa thu đã đến. Mưa lúc chiều tối. Cô bé có lẽ đã về thành phố rồi, chúng tôi chưa có dịp làm quen với nhau. Giã biệt, người yêu dấu. Tôi cảm thấy rất buồn…

“Nó chưa bao giờ kể tôi nghe những chuyện như thế này…” Sleptsov cố nhớ lại, xoa trán bằng lòng bàn tay.

Trên trang giấy cuối cùng có một bức họa vẽ bằng mực: cái nhìn từ phía sau của con voi – hai cái cột to xù, góc cạnh của hai lỗ tai, và cái đuôi bé xíu.

Sleptsov đứng lên. Ông lắc đầu, cố gắng tự kềm chế những tiếng nức nở khủng khiếp cứ chực trào ra.

“Tôi–không-thể-chịu-đựng-được-nữa,” ông lè nhè giữa những tiếng rên, lặp lại càng chậm hơn, “Tôi–không-thể-chịu-đựng-được-nữa…”

Ngày mai là ngày Giáng sinh, điều nhắc nhở đến bất chợt, và tôi sẽ chết. Dĩ nhiên. Đơn giản thế thôi. Chính đêm nay…

Ông rút cái khăn tay ra và lau khô đôi mắt, gò má. Những vết đen dính lại trên khăn tay.

“… cái chết,” Sleptsov nói nhỏ nhẹ như thể kết luận một câu dài.

Tiếng đồng hồ gõ nhịp. Những mô hình sương giá trùng lặp lên nhau trên tấm kính xanh của cửa sổ. Quyển vở mở được chiếu sáng rực trên bàn, bên cạnh nó ánh sáng xuyên qua lớp vải mút-xơ-lin của cái vợt bắt bướm, sáng lóng lánh ở một góc của cái hộp thiếc mở nắp. Sleptsov nhắm chặt mắt, mơ hồ cảm thấy sự sống của trần thế trước mặt ông, hoàn toàn trơ trụi đơn giản và buồn thảm khủng khiếp, vô lý vô dụng đến nhục nhã, tuyệt tự, thiếu vắng phép nhiệm mầu.

Ngay lúc ấy bỗng có tiếng nứt – âm thanh mỏng manh như tiếng sợi dây cao su bị căng thẳng rồi bị đứt. Sleptsov mở mắt. Cái kén trong hộp bánh bích-qui bằng thiếc đã vỡ ra ở phía trên đầu, và một con vật nhăn nheo màu đen to cỡ một con chuột sơ sinh đang bò lên trên tường phía trên bàn. Nó dừng lại, cố bám vào mặt tường bằng sáu cái chân cuống quít và bắt đầu phập phồng một cách lạ thường. Nó xuất hiện từ cái kén bởi vì người đàn ông vật vã trong nỗi đau khổ đã mang cái hộp thiếc vào căn phòng ấm áp của ông, và hơi ấm đã thấm vào cái vỏ kén bằng lá và lớp tơ dày chắc của nó; nó chờ đợi giây phút này từ lâu, gom góp tất cả sức lực, và giờ đây, đã nở, thoát ra, nó từ từ và đầy nhiệm mầu nở to lên. Dần dần những mảnh vỏ nhăn nheo, những đường viền nhung nở ra; những sợi gân hình quạt xếp trở nên cứng cáp hơn khi nó chứa đầy không khí. Nó trở nên loài vật có cánh, không thể nào tưởng tượng nổi, có khuôn mặt trưởng thành và trở nên rất xinh đẹp. Và đôi cánh – vẫn còn yếu ớt, và ướt át – tiếp tục lớn lên và mở ra, và bây giờ chúng phát triển đến mức toàn vẹn nhất mà Tạo Hóa đã xếp đặt, và nơi đó, trên vách tường, thay vì là một cái khối nhỏ của cuộc đời, thay vì là con chuột đen, là một con bướm Attacus như những loài có thể bay như chim, vòng quanh ngọn đèn trong những buổi hoàng hôn bên Ấn Độ.

Và rồi đôi cánh dày và đen ấy, với các đốm sáng ngời như đôi mắt trên ấy với một đóa hoa màu tím, nó xoa những cái chân trước vào nhau như phủi bụi, hít một hơi đầy bên dưới sự thôi thúc rất dịu dàng, khao khát, rất giống với hạnh phúc của loài người.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà dịch.

Dmitri Nabokov dịch từ bản tiếng Nga với sự góp ý của tác giả.
Ảnh đầu bài: A Winter Scene with Skaters near a Castle by Hendrick Avercamp (1608-9)

Vladimir Nabokov (1899 – 1977) nhà văn Nga biết rất nhiều thứ tiếng. Ông viết chín tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Nga rồi nổi tiếng trên toàn thế giới là nhà văn lớn chuyên viết tiếng Anh với văn phong tuyệt vời. Tác phẩm Lolita của ông ra đời năm 1955 là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông. Lolita, Pale Fire, và Speak, Memory là những tác phẩm nằm trong danh sách Modern Library 100 Best Novels và Nonfiction (100 quyển tiểu thuyết và các thể loại khác như ký, phê bình, tiểu luận hay nhất của Thư Viện Hiện Đại).

Lời người dịch: Tôi dịch truyện Giáng Sinh của Nabokov trước nhất vì tôi yêu cái hình ảnh đầy tuyết êm đềm thơ mộng ở một miền quê của nước Nga. Sau đó tôi bị cuốn hút vào nỗi đau đớn của người cha khi nhớ lại cậu bé con của ông mới còn nô đùa bắt bướm giữa mùa hè mà đã lâm bạo bệnh và qua đời trước ngày Giáng sinh. Trong nỗi đau khổ và cô đơn tận cùng ông nghĩ đến việc đi tìm cái chết thì phép lạ hiện ra. Nabokov đưa tôi từ cái đẹp của băng giá mùa đông qua cái nồng ấm của mùa hè, cái tuyệt vọng của người cha bên cạnh cái thơ ngây yêu đời của đứa con, người cha chợt khám phá bí mật của cậu bé con rồi đến cái bí ẩn của sự sống. Còn gì hơn trong đêm Giáng sinh người ta khám phá ra sự nhiệm mầu của một sự sống vừa mới khởi đầu mà sự sống đó tưởng đã chết trong cái lá khô.

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn: Những chiếc lá zombie (Điển Tuyết)

Published

on

Tôi quyết định đổi nơi làm việc, dù Wyandotte là một nơi chốn vô cùng bình yên suốt 5 năm qua. Tôi không định nói lời chia tay đồng nghiệp. Bọn họ quá bận rộn để đọc và hồi đáp một email chia tay giữa mùa Covid. Ai cần tôi thì họ sẽ vẫn liên lạc thôi.

Trong căn hộ này, mỗi một inch đều chất chứa nhiều kỉ niệm, kỉ niệm của tôi những năm tháng hậu chia tay Stovall. Lúc này là vào cuối đông, nhưng cây phong ngoài cửa sổ vẫn còn nguyên những chiếc lá khô cong như hồi cuối thu. Gió vùng này thổi rất mạnh, nhưng lạ lùng làm sao, những chiếc lá phong khô héo, chết lâu ngày kia vẫn không chịu lìa cành. Cứ như thể chúng vẫn đang sống, sống đời zombie của giống loài thực vật. Màu nâu, màu nâu cong, là màu mới của sự sinh tồn chăng?

Căn hộ của tôi chất đầy thùng các tông để mở. Thật khó quyết định những gì cần mang theo đến nơi ở mới. Mất cả tuần liền, tôi chỉ ngồi phân loại mọi thứ ra thành hai loại: cần và rất cần. Thật, có thứ gì trong căn hộ này mà tôi không cần đâu?

Soạn mãi soạn mãi, rồi không rõ thế nào mà tôi vớ phải tập ảnh Stovall chụp khi chúng tôi còn chung sống. Mới chừng hai chục năm trước đây thôi. Có một tấm tôi mỉm cười với khuôn miệng rộng, gương mặt rạng rỡ, phía sau là vườn mai vàng lộng lẫy. Lúc đó, chúng tôi vừa cưới xong, đang bắt tay vào trang trí căn nhà đầu tiên của cả hai. Stovall chụp lại mọi thứ trong nhà, kể cả những vật dụng bình thường nhất, chẳng hạn như chiếc bàn chải đánh răng bằng gỗ tre của tôi. Cảm giác hạnh phúc chầm chậm dâng lên trong tôi, Stovall luôn luôn đáng tin cậy, luôn luôn hết lòng yêu thương tôi. Làm sao tôi có thể bỏ đi kỉ niệm đầu tiên êm ấm này? Đã bao lần, tôi đã định bỏ tập ảnh nhưng...

Năm năm trước, chúng tôi ly hôn. Stovall hỏi tôi liệu có cách nào khác không vì chuyện đâu có đến nỗi nào, tình yêu của chúng tôi chỉ nhạt đi như bất kỳ đôi lứa nào, rồi sẽ ấm áp lại nhanh thôi mà.

Tôi nhìn sâu vào mắt anh, trả lời: “Em biết điều anh muốn là gì.” Và tôi dọn ra khỏi nhà, mặc cho Stovall ôm đầu đau khổ. Anh vẫn gọi cho tôi thường xuyên trong năm đầu tiên, cố thuyết phục tôi quay trở lại, ngay cả khi biết tôi đã có mối quan hệ mới. Anh thôi làm chuyện vô vọng khi tôi qua lại đến người đàn ông thứ ba. Dù vậy, mỗi khi cần nhau tư vấn về thiết kế mĩ thuật, chúng tôi vẫn ôm điện thoại sôi nổi như không hề có bất kỳ xáo trộn gì trong đời sống tình cảm. Chúng tôi rất hòa hợp với nhau trong nghề nghiệp. À, kỳ thực là trong hầu như tất cả mọi mặt, ngoại trừ việc tôi không thể...

Stovall vừa lấy vợ hồi năm ngoái. Họ kết hôn khi bé Hermes vừa chập chững bước đi. Tôi đã bật khóc như mưa khi biết tin anh yêu Ariana, một người bạn thân thiết của cả hai. Tôi thấy tim mình đau đớn đến không khóc được khi Hermes ra đời, và phải nói là tận cùng của sụp đổ khi nhận được thiệp cưới của hai người họ.

Rất nhanh, tôi chúc mừng Stovall. Anh và Ariana không thể tìm thấy người bạn nào tốt hơn tôi nữa, tôi chứng minh cho cả thế giới thấy mình là một người cũ văn minh. Tôi thậm chí còn tay trong tay với Greg, người tình thứ 6, thứ 7 gì đó, đến dự đám cưới của Stovall và vẽ các họa tiết trên váy cưới giúp Ariana.

Tập ảnh này là thứ duy nhất còn sót lại về cuộc hôn nhân đầu tiên và duy nhất của tôi. Chỉ cần bỏ nó vào trong đống lửa dưới sân chung cư thì tôi có thể thực sự kết thúc cơn đau kéo dài suốt 20 năm của mình rồi.

Nhưng không, không, Stovall và tôi của ngày xưa không có tội tình gì để bị đốt cháy thành than tro như vậy cả. Ký ức đó vẫn có đời sống riêng của nó, như những chiếc lá phong khô đét trên cành kia, tuy khô tàn héo rũ nhưng thượng đế vẫn xót thương gìn giữ chúng bình yên xuyên suốt mùa đông dập dìu mưa tuyết và gió bão. Vào mùa thu, bằng một phép màu nào đó, những chiếc lá sẽ lại xanh tươi, sẽ lại đỏ rực trên cành. Chỉ là không biết những chiếc lá nâu khô cong kia sẽ biến đi đâu và biến đi vào lúc nào mà thôi.

Khi dọn đến nơi ở mới, Boize, tôi tìm mãi không thấy tập ảnh cũ của Stovall, dù đã lục tung tất cả các thùng các-tông và cẩn thận bài trí lại mọi thứ y nguyên như trong căn hộ cũ ở Wyandotte.

Bằng một phép màu nào đó, tập ảnh đã không cánh mà bay. Tôi chắc chắn mình không vì say khướt mà ném nó vào đống lửa ngoài sân. Chỉ nhớ mang máng vào buổi chiều cuối cùng tôi đã ngồi tựa đầu vào cây phong lộng gió rất lâu. Với tập ảnh trong tay.

Điển Tuyết

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn: Hồi ức (Điển Tuyết)

Published

on

Đôi mắt của Hắc Ám không rõ đang buồn hay đang vui. Bầu trời từ từ sầm tối. Âm nhạc của những buổi chiều muộn nhân lên nỗi niềm trong cô. Những thước phim buồn trong đời chiếu lại trong tâm trí. Cuộc đời nhiều phút bất ngờ quá, và lòng người, như ngàn năm vẫn vậy, là thứ ẩn tiềm nhiều bất trắc.

Một cuộc gọi. Phía đầu dây bên kia là một khách hàng cần sự giúp đỡ.

“Cảm ơn cô! Không có cô tôi không biết làm sao!” Người khách hàng trẻ tuổi nói sau khi xong việc.

Hắc Ám vui nhẹ, tạm quên những đau đớn hằn sâu trong lòng. Tình người của những năm tháng này xa xôi như vậy đó, xa như một ngọn nến leo lét cháy trong đêm mịt mù, chỉ nhoi nhói lên chút hy vọng.

Một cuộc gọi khác. Phía đầu dây bên kia là một người quen cần nói một điều gì đó. Những lời nói như cứa vào lòng Hắc Ám, khiến cô toàn thân run rẩy. Cô bấm nút tắt, chặn và không quên xóa luôn số của người ta.

Danh bạ của cô bây giờ chỉ còn những cuộc gọi của khách hàng và những số điện thoại tiếp thị. Cô đã đến tình trạng bất kỳ lời nói chớm trách hờn, chớm mỉa mai, chớm châm chọc nào cũng làm cho bản thân thấy phẫn uất.

“Sao ngươi ghét người quá vậy?” Ai đó hiện ra trong giấc mơ.

“Ừ! Kệ đi!” Hắc Ám buồn rầu.

Nếu sự im lặng có tác dụng làm cho ai đó đỡ phải ngại ngùng mở lời hoặc đỡ phải ngượng ngùng nhận sai, nó có tác dụng hủy diệt đi tình thương và niềm tin của Hắc Ám – người phải chịu đựng sự im lặng phi lý và đôi khi, cả những lời lẽ không thể tàn nhẫn hơn mà con người đã dành cho nhau.

Điều khủng khiếp nhất chưa dừng lại đó. Hắc Ám của những năm tháng về sau này cũng lấy phương thức tệ hại đó để áp dụng với người khác. Còn tàn nhẫn hơn.

Điển Tuyết

Đọc bài viết

Cafe sáng