Book trailer

The Booker Prize 2020: The New Wilderness – Thế dystopia nửa vời

Published

on

Thế giới đang bước vào thời kỳ đen tối, và văn học cũng thế. Trong đêm công bố giải Booker Quốc tế, Ted Hodgkinson – Chủ tịch ban giám khảo giải thưởng năm nay đã nói rằng, họ đang đi tìm một cuốn sách phản ánh đúng thực trạng những gì đang diễn ra. Và đó là điều dễ thấy ở các đề cử cuối cùng trong giải Booker chính thống lẫn Quốc tế khi không chỉ một mà rất nhiều tác phẩm đi sâu vào cái điêu tàn, hãi hùng hay thậm chí khái quát một thể dystopia mà vốn từ lâu trước đó vẫn bị coi là tiểu thuyết mạt hạng. Một trong những cuốn sách bám sát dòng sự kiện nhất cho giải Booker năm nay không thể không nhắc đến The New Wilderness của Diane Cook. Với cuốn sách thứ hai và là tiểu thuyết đầu tay này, Diane đã viết nên một cuốn tiểu thuyết về tình cảm mẹ con – sinh thái – phản địa đàng hùng vĩ với nhiều tầng lớp trong một góc nhìn của tương lai gần.

Cuốn sách là câu chuyện về gia đình Glen – Bea – Agnes khi họ rời bỏ Thành phố đông đúc để đến Tiểu bang Hoang dã. Ở vùng đất cách rất xa và bị quên lãng này, những Rangers – tay sai cho một tầng lớp bí ẩn nào đó – thực hiện thí nghiệm về những tác động qua lại giữa con người và tự nhiên. Và đó là khi Cộng đồng – nhóm nhỏ gần 20 người – gắn kết cùng nhau trở về hoang dã. Với The New Wilderness, ba chân giá trị mà Diane Cook mang đến cho người đọc vừa xa lạ mà cũng thân quen, về những mối quan hệ gia đình, về tác động qua lại giữa con người và tự nhiên, và trên hết, về một tương lai gần mà con người ở đó đang đến bờ vực điêu tàn.

*

Đầu tiên, để dựng nên một tiểu thuyết sinh thái – trào lưu nở rộ những năm gần đây sau thành công của Richard Powers hay Jean-Christophe Rufin, Diane Cook đã mở ra câu chuyện về gia đình Glen, Bea, Agnes và những rắc rối xoay quanh mối quan hệ này. Xuyên suốt giữ vững câu chuyện như khung vận động chính, ta thấy những dằn vặt lên gân, những tác động qua lại giữa hai mẹ con Bea và Agnes. Bea, bằng cá tính mạnh và vai trò của một người mẹ, lạnh lùng đứng lên bảo vệ gia đình bằng nhiều phương cách; trong khi dưới mắt trẻ thơ và cái yếm thế của Glen, Agnes coi đó dường như là một tội ác. Song song trong thế đối đầu giữa hai người ấy, một mặt nào đó Diane Cook cũng cho thấy vai trò của phụ nữ trong đời sống tự nhiên. Mặc cho những cãi vã, hiểu nhầm hay cách xa, đến cuối rồi thì, việc trở thành một người mẹ và chịu đựng nỗi đau đánh mất đứa con, Agnes mới thật sự hiểu những gì Bea đã làm để cứu lấy mình. Thiên chức trở thành người mẹ chuyển đổi mọi thứ trong cô, biến chuyển những vết thương vốn dĩ từ lâu khép miệng nay lại mở ra trong cái ăn năn những gì đã qua. Việc chọn mối quan hệ nhiều khúc mắc như thế rõ ràng là một phương án thông minh để triển khai ý đồ tổng thể to lớn của toàn tiểu thuyết.

Ảnh: guernicamag

Thế nhưng trong nó vẫn còn đâu đó thiếu sót trong cách xây dựng tâm lý. Nếu so với Burnt Sugar của Avni Doshi cùng hạng mục năm nay hay My name is Lucy Barton của Elizabeth Strout nhiều năm về trước, thì The New Wilderness thật sự không thể so sánh. Cuốn sách không bắt được bất kỳ một khoảnh khắc ấn tượng nào, chúng lờ đờ, nổi lên, mập mờ để rồi tan biến vào trong hư vô. Việc đối đầu giữa Agnes và Bea chưa đẩy độc giả đến tận đường cùng để thấy được bi kịch trong mối quan hệ này. Việc hàn gắn bằng cái thấu hiểu cũng không để lại dư vị sau cuối.

Sự gắn kết giữa con người và tự nhiên, những tác động qua lại từ cả hai phía lên nhau dường như là phần ổn nhất trong toàn tiểu thuyết. Như chia sẻ trong những cuộc phỏng vấn, ý tưởng cho The New Wilderness bắt đầu từ tuyển tập Man V. Nature của Diane và do đó, với một người am hiểu và dành tình yêu hoàn toàn cho thiên nhiên, ít ra đây cũng là điểm sáng cho cuốn sách. Việc cảm nhận thời gian theo tự nhiên: cái nóng mùa hè, lá thay màu sang thu, cái run cầm cập trong những ngọn núi tuyết hay việc thấu hiểu từng tập tính, dấu chân, tiếng động của Agnes hay Cộng đồng một mặt cho thấy với việc đi lùi lại tiến hóa, con người vẫn thuộc về tự nhiên, là một phần trong đó, hòa hợp và thuộc về.

Về thế giới tương lai mà Diane xây dựng để khớp với sự trở về thiên nhiên. Ở đây không gian – thời gian không được xác định một cách cụ thể, mà đó chỉ là Điểm dừng, đồi cát, núi lửa, vùng Hoang dã, khu đất tư… thế nhưng ít nhiều người ta vẫn có thể liên hệ tới một nước Mỹ xa xôi với địa lý phân hóa từ Đông sang Tây đầy đủ địa hình. Ở đó đất nước được chia thành hai vùng riêng: khu Thành phố đông đúc và Tiểu bang Hoang dã trơ trụi. Nơi thành phố ấy khi mọi thứ trở nên tệ hơn và bệnh hô hấp, bùng nổ dân số, không còn đủ rau để ăn hay nhà để ở, sữa trở nên quá đắt chỉ dành cho những cá nhân riêng lẻ và không còn đủ cát để trộn bê tông, bạo lực thì lại diễn ra ở khắp mọi nơi; thì con người bắt đầu tìm lấy cơ hội dồn về Tiểu bang để sống cuộc sống hoang dã, thoát khỏi Thành phố ngột ngạt tưởng chừng phát điên.

Tiểu bang đặt dưới kiểm soát của bọn Rangers và một thế lực bí hiểm ở tít trên cao nhưng khó để có thể biết. Tương tự như trong thí nghiệm Stanford, những người đến đây vì nhiều lý do: là nhà khoa học, là người thám hiểm, muốn thêm kiến thức, tin tưởng bản thân, vấn đề sức khỏe hay đơn thuần mong muốn lãng mạn hóa cuộc sống. Họ sống thành nhóm di cư theo mùa với những quy tắc bất di bất dịch của bọn Rangers: không ở lại quá lâu, không lưu lại dấu vết. Họ phải đến trạm dừng để khai báo số người chết, số rác đã thu lượm được, các kết quả máu. Họ có thể viết thư nhưng trong khuôn khổ nhất định, và dĩ nhiên, bị kiểm soát nội dung. Nếu còn để lại những mẫu rác nhỏ chứng minh một sự tồn tại, đương nhiên sẽ bị trừng phạt bởi các Rangers với phòng bằng chứng lưu trữ chính những thất bại.

Hành trang của họ là những quyển sách luật lệ dày cộm không thể làm trái, cái nồi sắt lớn, túi sách, giường ngủ, thức ăn, chén gỗ, túi rác, dụng cụ… Trở về nguyên bản để sống hòa hợp nhưng không thể quên tâm trí đang bị kiểm soát bởi một thế lực, lo sợ trừng phạt mỗi khi làm trái. Họ vẫn còn thú vui nho nhỏ của việc đọc sách mỗi khi quây quần bên ngọn lửa cuối, dự trữ thức ăn, đan lát, hun thịt, thuộc da… Tất cả gợi đến cảm giác của tiểu thuyết phản địa đàng khi tự do bị cầm tù, giới hạn bị đóng khung, và một thế lực ngang hàng nhưng có địa vị nào đó nắm chui. Thế nhưng ngay cả ở chỉ tiết này, Diane Cook cũng cho thấy một sự nửa vời của thứ rất nên tập trung, để rồi sau rốt là một thất bại vô cùng đáng tiếc.

Tính phản địa đàng cũng như lần trước, chưa đi đến nơi. Cái đáng kể của những tiểu thuyết dystopia luôn là thế đối đầu giữa hai tầng lớp và cái thời khắc khi giới bị trị phá bỏ giới hạn. Thế nhưng ở cả hai khúc quanh này, Diane Cook không đưa ra được hướng giải quyết xác đáng. Thế đối đầu của hai tầng lớp trong đây nhạt nhòa, và thậm chí, Diane còn cho họ có mối gắn kết thân tình nào đó với nhau. Họ quen thân (trường hợp Bea và Bob) hơn thế còn dành cảm tình cho nhau, một mặt nào đó cho thấy sự đối đầu vẫn chưa hoàn toàn đủ. Diane cũng không cho biết ai là chóp bu, không cho thấy được mục đích sau cùng; họ đối đầu nhưng lạc lõng, buông lơi với thế siết mềm, không đủ tác động hay ấn tượng sâu. Ngay cả thời khắc phá bỏ giới hạn cũng là một quả bom xịt bởi bản thân việc rời Tiểu bang Hoang dã để vào Thành phố không mấy khó khăn, và cái giá phải trả không quá mặn mà. Tiếc thay cho những cố gắng nửa vời phá hủy phần lớn công sức cuối cùng của mặt rất đáng khai thác.

*

Với The New Wilderness, Diane Cook đã dựng nên một tiểu thuyết rất nhiều tầng lớp và rất đáng suy ngẫm. Vào năm 1899, khi Giữa lòng tăm tối của Conrad ra đời, người ta vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó, và luồng độc giả từ đó đến nay vẫn luôn chia thành hai luồng ý kiến: một bên cho rằng đó là tuyệt tác và phần còn lại nói rằng quá khó để hiểu. Ở một mặt nào đó, với Giữa lòng tăm tối, Conrad đã dựng nên một thế giới vô thanh, thế giới tăm tối của những mối quan hệ con người, của những đối xử màu da, của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân; thì ở đây, Diane Cook cũng họa nên một thế giới như thế, thế giới của tương lai, của đói khát của thảm họa. Ở đó con người vẫn luôn là họ, đối xử bất công nhưng luôn nhen nhóm những niềm hy vọng. Dĩ nhiên về nghệ thuật viết, Diane không thể so sánh với một Conrad bậc thầy; nhưng về nội dung, cả hai đều là tiểu thuyết về một thời đại không thể nào quên, là những chứng nhân giữa dòng lịch sử.

Hết.

minh.

*

The Booker Prize 2020






Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng