Book trailer

The Booker Prize 2020: Shuggie Bain – Một vùng cô độc

She was drinking to forget herself, because she did’t know how else to keep out the pain and loneliness.

Published

on

Lần đầu tiên trong lịch sử Booker có đến 6/13 cuốn tiểu thuyết được chọn vào danh sách đề cử và 4/6 ở danh sách rút gọn là các cuốn tiểu thuyết đầu tay. Điều này đặt ra một nghi vấn lớn: liệu giải thưởng có lịch sử lâu đời này đang muốn trẻ hóa, hay đã quá chán ngán những tên tuổi lặp đi lặp lại hơn 51 năm nay? Chính việc chọn lựa những tên tuổi mới cũng đặt ra một nghi vấn đi kèm, rằng với một lịch sử viết và cách tiếp cận mới mẻ, liệu những tác phẩm này có thật sự nặng kí và phản ánh được điều gì lớn lao?

Với Shuggie Bain, Douglas Stuart đã chứng minh một điều ngược lại. Cuốn tiểu thuyết hùng vĩ và dậy sóng, chạm đến độc giả bằng sự chân thành. Một dẫn nhập xuyên suốt qua vùng Glasgow – Scotland những năm 1980 dưới đế chế Thatcher u tối và những vấn đề xung quanh một gia đình nhỏ làm nên những đứt gãy văn chương ấn tượng và đầy cảm xúc.

*

Điều tốt nhất Douglas làm được ở Shuggie Bain là sự chân thành. Với cách dẫn dắt điềm tĩnh cùng giọng văn nhẹ nhàng và đầy cảm xúc, anh đưa người đọc đến với nhân vật của mình một cách chậm rãi, từ từ, hòa từng người một vào trong đám đông. Các nhân vật trong tiểu thuyết này không mới, nhưng họ như được hồi sinh từ cách dẫn dắt, để mỗi người là một nút thắt thật sự tồn tại, có điểm nhấn, vận động, và đưa đến đỉnh điểm của bản thân mình. Nếu Agnes kiêu hãnh và đầy sức sống thì Shuggie bạc nhược và đầy định kiến. Nếu Leek trưởng thành và nuốt vào trong nội tâm suy nghĩ, thì Hugh đáng yêu và đầy cảm xúc trong những trường đoạn cùng với Agnes. Các nhân vật của anh độc lập, khuôn mẫu; tuy có đó quan hệ máu thịt, nhưng mỗi người họ là vũ trụ riêng, một ảnh hưởng riêng; từ đó thể hiện những tác động nhất định lên riêng mỗi người.

Đầu tiên là về Agnes. Một phụ nữ 39 tuổi, sống cùng chồng và ba đứa trẻ chen chúc trong căn hộ mẹ cô, gợi lên sự thất bại và cái sắc bén ủ dột trước mọi hứa hẹn cuộc sống tốt hơn. Từ một người đàn bà xinh đẹp như Elizabeth Taylor mỗi lần soi chiếu trước gương, nay cô nổi giận trước tuổi trẻ đã mất, trước những lớp mỡ sau khi sinh ba đứa con và cuộc chạy trốn người chồng đầu tiên. Liền sau đó cuộc sống xám xịt chuyển sang khung cảnh chán chường, khi chồng bỏ đi, không có đủ tiền để rồi giả vờ nhét giấy vệ sinh vào ví như thể một cách tự an ủi bản thân rằng vẫn còn khả năng chi trả cuộc sống.

Việc bỏ đi của Shuggie kiến cô trở thành một người loạn trí: ngồi trước điện thoại mỗi ngày hàng giờ để gọi tổng đài taxi, chứng nghiện rượu, giấu các chất lỏng kích thích vào sau bồn rửa. Chưa dừng ở đây, năm tiếp sau đó cả cha mẹ cô đều mất vì ung thư. Ít ra, cuộc đời còn một lối thoát; việc đi làm ca tối ở trạm xăng khiến cô dần dần loại bỏ được chứng nghiện rượu, gặp gỡ Eugene – anh chàng tóc đỏ đẹp trai và đồng cảm khi vợ mất cũng vì ung thư. Nhưng rồi trạm xăng giải thể, Eugene bỏ đi khi phát hiện cô từng nghiện rượu và muốn chuyển nhà, một cơn nghiện rượu mới tiếp tục diễn ra. Khi mọi thứ quá sức chịu đựng, cô đuổi Leek đi và tự tử bằng cách tự cắt cổ tay, đưa đầu vào lò khí gas.

Với Agnes, Douglas đã khắc họa hình tượng nhân vật nhiều lớp suy nghĩ. Một người đàn bà kiêu hãnh với giày cao gót, với áo khoác tím; người ganh tị với Collen, với mẹ mình vì tình yêu bà dành cho bố. Người hả hê tận hưởng khi Jamesy rời bỏ Collen, người bị cuốn hút bởi những anh chàng đẹp mã, người hành động điên loạn chẳng vì lẽ gì, người ngẩng cao đầu trước ánh mắt soi mói của hàng xóm ở khu mỏ than,… Có lẽ nhiều người lầm tưởng Agnes là một tính cách lạ, thế nhưng ẩn sau vẻ ngoài mạnh mẽ và đầy vận động ấy là một tâm hồn mong manh đẩy đến đường cùng. Giữa nỗi cô đơn thường trực khi người đàn ông cô yêu bỏ đi, từng đứa con rời xa mình; người phụ nữ ấy chỉ biết uống, uống và uống, vung từng đồng xu cuối cùng vào chất kích thích. Đằng sau những trăn trở ấy, là mối quan hệ thân tình mà đầy trìu mến dành cho cậu bé Hugh. Việc ôm Hugh và kể cậu nghe những người đàn ông đã hủy hoại mình, muốn Hugh chỉ cách nhảy theo nhạc Janet Jackson, việc gặp lại cậu ở bữa chè chén trong cảnh thảm hại của thân thể mình… Douglas bằng một trải nghiệm cá nhân thuật lại chính câu chuyện này, một cách tinh tế và đầy xúc cảm.

Ảnh: The New York Times

Thế nhưng ở một mặt khác, những người đàn ông trong cuốn sách này được khắc họa như bầy đàn bê tha, bệ rạc và sợ đối đầu. Cụ thể là Shug và chàng Eugene. Ngược lại trở về quá khứ, cũng chính người đàn ông ấy kéo cô lên cầu thang của một nhà nghỉ rẻ tiền khi cô quá say, để mặc cho đầu cô va đập bởi những bậc thềm, cưỡng hiếp và sau đó đề nghị đi khiêu vũ vào đêm hôm sau như chưa có chuyện gì xảy ra. Việc túng quẫn không có đủ tiền cũng chính bởi cái tôi quá lớn của người đàn ông; họ không bao giờ cho phép vợ mình làm việc để có thêm thu nhập dù cho đó là làm gì. Nếu Shug khắc nghiệt và đầy dối trá thì Eugene trẻ con và sợ đối đầu – những con người bệ rạc trong cuộc đời cô.

Và cùng với đó, cuộc sống của những đứa trẻ là mảnh ghép khác rất đáng nhắc đến trong cuốn sách này. Một mặt nào đó ta có thể nói, Shuggie Bain như phiên bản dễ thở hơn của Con sẻ vàng từ Donna Tart nhưng cũng hiện thực và thức thời hơn Warlight của Ondaatje. Con trai của Agnes, Shuggie, đi học để rồi trở thành chủ thể bị bắt nạt. Không phải vì mẹ là người nghiện rượu, mà bởi cậu không thích vận động như một cậu bé, không thích bóng đá, không giấu được niềm đam mê làm tóc, thú bông Pony hay những điệu nhảy. Hay Hugh, đứng ở đó như dấu gạch nối giữa cuộc đời này và chính Agnes, cậu trưởng thành lo toan từ cơn nghiện rượu cho đến ngăn những nữ ma men đến nhà rù quến mẹ cậu hay lẳng lặng quan sát những người đàn ông tiến đến Agnes, lắng nghe âm thanh để đoán biết được tâm trạng của mẹ đang như thế nào, hay ngồi trước cửa trong bộ pyjamar cố hữu để nghe ngóng chuyện.

Ở một mặt khác, Shuggie Bain cũng đồng thời nói về tác động của chủ nghĩa Thatcher đối với xã hội Glasgow, nơi “những người đàn ông thối rữa trên trường kỷ vì muốn có công việc tử tế”. Lấy bối cảnh những năm 1980 khi các hầm lò vẫn đang đóng cửa, các nhà máy đóng tàu và luyện kim thép đang dần suy tàn. Những người thợ mỏ tự hào một thời nay bị giáng cấp xuống dưới đáy xã hội, họ đột nhập vào các mỏ đá ăn trộm dây đồng. Một số bây giờ lái xe taxi; hầu hết chỉ đến quán rượu. Đói nghèo, tọc mạch và đầy tệ nạn; một thời u tối của xứ Glasgow như tái hiện lại trong cảnh ăn mừng đám tang Thatcher vào năm 2013.

Ảnh: The Guardian

Bằng lối viết đong đầy cảm xúc và cách dẫn dắt câu chuyện đi dần vào trong hố đen của bi kịch gia đình Agnes, Shuggie Bain đã khắc họa nên thời kì đen tối của Scotland những năm 1980. Douglas Stuart một mặt đã khái quát được mối quan hệ đầy sống gió giữa những thành viên trong một gia đình, một mặt cho thấy sự tự khám phá bản thân qua những người con lớn lên trong cảnh bất hạnh, đơn độc mà không được thấy ánh sáng hy vọng. Không quá đẹp đẽ như từng câu văn của Ondaatje, cũng không chứa quá nhiều suy ngẫm về sự cô độc của Donna Tart, Shuggie Bain là cuốn sách đầu tay vừa đủ mà đầy tinh tế về mối quan hệ mẹ – con, về định kiến đối với phụ nữ, về sự tự nhận thức bản thân, về đói nghèo – thụt lùi và tệ nạn của Scotland những năm 80 trong giọng văn tự sự và cốt truyện đầy cảm xúc. Một vở melodrama bùng nổ của năm, giữa hài hước dí dỏm và tuyệt vọng không thấy đường ra.

Hết.

minh.

*

The Booker Prize 2020






Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng