Phía sau trang sách

Quá trình khai sinh “Frankenstein” của Mary Shelley: Đưa đứa trẻ trở lại với sự sống

Gặp lại quái vật Frankenstein sau mất mát của bản thân, sau khi biết thêm về cuộc đời của tác giả, tôi chẳng thể ngưng nghĩ về một hình hài sinh vật khác, một hình hài mà Mary Shelley hẳn đã nghĩ miên man trong mùa hè năm ấy.

Published

on

BRINGING THE BABY BACK TO LIFE

Mary Milstead

Mất đi ai đó bạn thương yêu đồng nghĩa với việc làm quen với sự trống vắng, mường tượng một hình hài từ thinh không. Khi người bạn yêu thương không thể sống một đời trọn vẹn – không thể trưởng thành, không có bạn bè hay công việc, không làm gì để lại dấu ấn trọn vẹn với thế giới – thì việc thương tiếc trở nên khó khăn hơn, cô độc hơn. Đây là cái chết ngoài dự liệu, vì vậy nó cũng đánh vào nỗi sợ hãi trong tim chúng ta, khiến ta thu mình lại.

Đứa con thứ hai của tôi, một cô bé tên Pearl, con bé đã không thể chào đời. Con bé ra đi mà chưa từng trải nghiệm một hơi thở. Như thế, xét về chuyên môn, thế giới khăng khăng rằng cô bé chưa hề tồn tại, thì thầm nhẹ nhàng vào tai tôi rằng quên đi sẽ tốt hơn. Nhưng tôi nghĩ khác. Việc để tang cô bé tựa như thổi những làn khói mờ ảo vào không trung – cô bé ở ngay đó, nhưng tôi là người duy nhất có thể nhìn thấy, trừ khi tôi khám phá đúng góc nhìn, đúng từ ngữ.

*

Khi viết Frankenstein vào năm 1816, Mary Shelley chỉ là một cô gái mười tám tuổi, đang trong kỳ nghỉ với người yêu và một vài người bạn. Câu chuyện nổi tiếng về cách cuốn tiểu thuyết kinh điển này ra đời là khi Mary và nhà thơ Percy Shelley, người mà cô sẽ kết hôn vào cuối năm đó, đang trú tại một ngôi nhà ở Geneva vào mùa hè, với Lord Byron và người chị kế Claire của Mary. Một đêm nọ, khi đọc chuyện ma cho nhau nghe, họ quyết định đưa ra một thử thách – mỗi người trong số họ sẽ viết một câu chuyện đáng sợ, và câu chuyện đáng sợ nhất sẽ chiến thắng. Mary, với câu chuyện về một con quái vật được khai sinh, là người chiến thắng.

Mary Shelley
Ảnh: Newsweek

Tôi không biết mình bao nhiêu tuổi khi biết về khởi nguồn của Frankenstein, nhưng tôi biết điều đó đã khiến tôi tò mò. Tôi là một cô bé thích viết lách, và tôi luôn bị cuốn hút bởi những thứ quái dị và kỳ bí. Mãi đến sau này, tôi mới biết Mary Shelley không chỉ là một thiếu nữ vô tư vào mùa hè năm đó. Tôi vẫn có thể hình dung cô như lần đầu tiên tôi hình dung cô – mỉm cười rạng rỡ và đáng yêu, uống rượu và ăn uống cùng bạn bè, chơi trò gia đình với người tình chưa li dị vợ, tình cờ viết nên một kiệt tác – nhưng cô cũng là một người mẹ đau khổ, thương tiếc cho cái chết của một đứa trẻ sơ sinh. Hơn hai trăm năm trước, băng qua đại dương rộng lớn nay chỉ có thể nhìn thấy trong những bức ảnh đen trắng cũ, đôi khi chúng ta vấp phải và đồng cảm với một sự mất mát lớn lao. Vào tháng Một năm ấy, cô đã sinh đứa con đầu lòng, một cô bé tên Clara. Đứa trẻ bị sinh non, và trút hơi thở cuối cùng vài tuần sau khi chào đời.

Khi tôi lần đầu tiên biết về tác giả của cuốn Frankenstein nổi tiếng, tôi đã bị cuốn hút bởi những tháng ngày trẻ tuổi và thành công khá sớm của cô. Và giờ, khi là một người mẹ đang để tang con, tôi lại phát hiện một người mẹ đau khổ. Gặp lại quái vật Frankenstein sau mất mát của bản thân, sau khi biết thêm về cuộc đời của tác giả, tôi chẳng thể ngưng nghĩ về một hình hài sinh vật khác, một hình hài mà Mary Shelley hẳn đã nghĩ miên man trong mùa hè năm ấy. Một Clara nhỏ nhắn, bé bỏng, hồng hào và bất lực, nằm trong một chiếc cũi cạnh Mary.

Vài tuần sau khi Clara qua đời, Shelley đã viết trong nhật ký của mình rằng: “Tôi có một giấc mơ, rằng đứa con bé bỏng của tôi đã sống lại một lần nữa – con bé chỉ bị lạnh và chúng tôi đã cọ xát với ngọn lửa, và thế là con bé sống lại – nhưng rồi tôi tỉnh dậy và chẳng thể tìm thấy con bé đâu. Tôi đã nghĩ về nó cả ngày.”

Điều tôi khao khát nhất trong những ngày đầu sau khi mất con là một cỗ máy thời gian. Tôi sẽ quay trở lại một vài ngày trước đó, khi mọi thứ đều ổn, và tôi sẽ cầu xin họ mang con bé ra khỏi bụng tôi ngay bây giờ, khi con bé vẫn còn sống và không bị mắc kẹt trong dây rốn của mình. Nếu chúng tôi biết sớm, chúng tôi có thể đã cứu con bé. Sự mãnh liệt của ham muốn này, cả sự bất khả thi của nó, chúng khiến tôi cảm thấy quái dị. Tôi nhớ có một lần, cực kì chi tiết, tôi tưởng tượng tất cả các cách để họ mổ bụng tôi ra và đưa con bé ra ngoài, nếu vậy con bé đã có cơ hội được sống. Tôi sẽ bất chấp trọng lực và thời gian, tôi sẽ trải qua bất kỳ nỗi kinh hoàng nào sẽ cứu con bé và để gia đình tôi được trọn vẹn.

Cái chết của một đứa trẻ buộc ta phải suy nghĩ về ý nghĩa của chính cái chết. Chẳng có gì đáng sợ như một cơ thể nhỏ bé, thinh lặng và cứng đờ. Nếu chúng ta không thể trưởng thành và già đi, thì tại sao chúng ta lại tồn tại? Mục đích của nỗi đau này là gì? Ai đó đã từng nói với tôi rằng, mỗi lần sinh nở là bước trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Điều khác biệt duy nhất giữa tôi và phần còn lại của thế giới, là bây giờ tôi sẽ luôn nhận thức được sự thật này.

Cuộc đời của Mary Shelley bắt đầu với nỗi đau về cái chết khi sinh nở – cái chết của mẹ cô, nhà văn và học giả nổi tiếng Mary Wollstonecraft, chỉ vài ngày sau khi cô được sinh ra. Những nỗi đau ấy thực sự không thể tưởng tượng nổi, cách nhau mười tám năm: mẹ cô, rồi con gái cô.

Nhân vật chính trong Frankenstein là một nhà khoa học; anh đã dành rất nhiều thời gian ở phần đầu cuốn tiểu thuyết để ngẫm nghĩ về ý nghĩa của sự sống và cái chết, mô tả những nỗ lực của anh để khám phá ý nghĩa của cuộc sống để chính anh có thể tạo ra nó một lần nữa. Đáng chú ý, cuộc tìm kiếm sự sống này lại đưa anh ta vào những nơi tối tăm nhất. Anh không đi đến những khu vườn nơi mà cây cối đang ra hoa kết trái, hay đến với những con suối nơi dòng nước tinh khiết đang tắm mát cho đất trời; anh lại đi đến các lò mổ, nhà cốt, ngôi mộ. “Tôi đã thu thập xương,” anh nói, “và bị xáo trộn, bởi những ngón tay tục tĩu, những bí mật to lớn của cấu tạo con người.” Chúng ta thưởng thức các trang văn xuôi bóng bẩy của Shelley về việc nghiên cứu sự phân hủy và cái chết, những phân đoạn vừa tuyệt đẹp vừa thô thiển. Đây không phải cầu nguyện, cầu vồng hay sức mạnh của hy vọng. Đây là sự chết chóc với tính lộn xộn vốn có, như Frankenstein nói với ta, “với sự háo hức không chút buông lỏng, tôi đã đuổi theo tự nhiên, đến cả những nơi ẩn náu của nàng.”

Tôi không thể biết liệu có phải những bận tâm của Shelley với việc giành giật sự sống từ cõi chết vốn xuất phát từ những mất mát của chính cô, nhưng tôi biết, kinh nghiệm của bản thân khiến tôi khao khát kiểm soát vũ trụ theo cách đặc biệt đó, để khai thác loại phép thuật có thể khôi phục nhịp đập của một trái tim đã chết. Bất kể khó khăn, bất kể cái giá phải trả. Mùa hè năm đó ở Geneva, bên cạnh những người bạn của cô, không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn nặng trĩu những đau buồn, và rồi Mary Shelley bắt đầu viết Frankenstein. Khi cô hoàn thành cuốn tiểu thuyết, cô có thai lần thứ hai, vì vậy cô thực sự đã tạo ra sự sống trong cơ thể song song với việc tạo ra một tác phẩm, thổi hồn vào Frankenstein và quái vật của anh, tưởng tượng ra hậu quả của sự sáng tạo nhất thời của anh. Frankenstein là một câu chuyện được kể lại từ khoảng cách an toàn ở vùng đất xác thịt, trong tất cả vinh quang phàm trần và chết chóc của nó.

Cuối cùng, sau nhiều nghiên cứu và làm việc căng thẳng, Frankenstein đã thành công. Anh khám phá ra bí mật của sự sống, thu thập tất cả các bộ phận cần thiết cho con người mới của anh. Vào một đêm mưa bão, trong phòng thí nghiệm, thí nghiệm lớn được tiến hành, sinh vật ấy mở mắt ra, và gã bắt đầu di chuyển. Nhưng bằng cách nào đó, thậm chí sau tất cả cân nhắc và công sức miệt mài, cái thứ ấy vẫn sinh ra quá sớm, quá thiếu suy nghĩ – sinh vật kia chỉ là một bộ lắp ghép các mảnh xác chết được thu thập và khâu lại với nhau một cách lộn xộn. Nó rất gần với một con người nhưng lại chẳng phải một con  người. Đó là những gì Frankenstein hằng mong mỏi và làm được, nhưng nó thật tồi tệ. Trong nỗi kinh hoàng, anh ta ngay lập tức từ bỏ phát minh của mình: “…Giờ đây khi ta đã hoàn thành, vẻ đẹp của giấc mơ cũng tan thành tro bụi, nỗi kinh hoàng nghẹt thở và ghê tởm tràn ngập trái tim ta.”

Frankenstein là một tiểu thuyết đồ sộ với rất nhiều mất mát, nhưng sự mất mát trung tâm lại không phải sự đau khổ của nhà khoa học dành cho đứa con tâm huyết của mình. Ngay sau khi sinh vật đó được sinh ra, tôi nhận ra rằng Frankenstein chẳng phải một người mẹ – anh ta lùi bước và bắt đầu bỏ chạy. May mắn thay, bản thân tác giả lại tử tế hơn nhiều đối với sinh vật kia, và rồi, khi cuốn tiểu thuyết chuyển sang góc nhìn của gã, chúng ta có thể chứng kiến sự phát triển của ý thức, khi gã dần dần hiểu về thế giới xung quanh và biết vị trí của mình trong thế giới ấy là gì. Tất nhiên, sự nhận thức này chỉ để mọi thứ kết thúc trong bi kịch. Gã cầu xin Frankenstein tạo ra một thứ khác giống như gã, để gã có một người bạn đời, để gã có thể yêu và được yêu, và người ấy sẽ chẳng bao giờ kinh hãi khuôn mặt hay hình hài gã. Nhưng Frankenstein, sau khi suy nghĩ về ý tưởng ấy, đã từ chối một cách chán ghét. Trong câu chuyện này, sinh vật đáng thương kia đã phải chịu quá nhiều mất mát. Dù rằng trong sự đau khổ và giận dữ, gã đã làm rất nhiều việc tàn ác, nhưng Shelley đã cho chúng ta thấy được trái tim của gã, và chúng ta còn bàng hoàng hơn khi biết rằng, tất cả những gì con quái vật ấy cần chỉ là một cuộc sống yên bình, và ai đó mỉm cười với gã mỗi khi gã trở về nhà.

Shelley không bao giờ viết trực tiếp về nỗi đau của mình, ngoài những dòng ghi chú thi thoảng trong nhật ký; Frankenstein là một cuốn tiểu thuyết quá sức phong phú và sâu sắc, không thể chỉ chắt lọc từ một nguồn cảm hứng duy nhất ngoài đời thực. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng vang dội lại trong đầu, và cuốn tiểu thuyết trở nên trầm buồn mà cũng mạnh mẽ hơn khi tôi đọc nó qua lăng kính đời thực. Chính Frankenstein đã nói về công trình của mình, trong suốt khoảng thời gian khi anh ta còn hướng tới và khao khát thực thi nó: “Tôi nghĩ, giá như tôi có thể ban tặng ý thức cho những sinh vật vô hồn, tôi có thể tái tạo lại sự sống ở chính nơi mà rõ ràng cái chết đã hi sinh những cơ thể để chúng thối rữa.” Vâng, đó là mong muốn đầu tiên và sâu sắc nhất của chúng tôi – đưa đứa trẻ trở về với sự sống.

Trước khi mất Pearl, tôi không hề thích viết sách phi hư cấu. Tôi chỉ có sách hư cấu, càng xa rời thực tế của tôi càng tốt. Và sau khi con bé ra đi, để lại sau lưng một kiếp người chưa kịp đơm hoa, tôi muốn kể với mọi người về con bé. Tôi học một lớp viết tiểu sử và bắt đầu bị ám ảnh với ý tưởng viết tiểu sử về con bé, về một cuộc đời chỉ tồn tại bên trong cơ thể tôi. Với tư cách nhà văn, chúng ta luôn mang hơi thở cuộc sống vào một điều gì đó. Đôi khi là một suy nghĩ vụt qua, đôi khi là một hình hài chúng ta muốn giữ chặt nhưng buộc phải buông tay. Con gái tôi sống trong những tác phẩm của tôi theo cái cách mà con bé sẽ không bao giờ sống trên thế giới này. Con bé ở ngay đó, trong tiểu thuyết hư cấu, những bài tiểu luận về sự mất mát, và cả trong thực tế, một đứa trẻ bị thất lạc và đánh cắp, một bà mẹ biết cảm giác khi sống với sự trống rỗng này. Tôi viết về Pearl trong những tác phẩm của mình với lý do tương tự như việc tôi gọi tên con bé, vì nó là cách duy nhất con bé sống.

Có một mối liên kết mãnh liệt giữa Frankenstein và quái vật của anh. Dù cho họ không có mối quan hệ huyết thống và Frankenstein chẳng buồn quan tâm đến gã quái vật, nhưng họ bị ràng buộc với nhau mãi mãi, chỉ có người tạo ra và người được tạo ra, mối liên kết ấy mang tên vĩnh viễn. Sau khi mọi thứ sụp đổ, sau khi con quái vật của Frankenstein – trong cơn thịnh nộ không thể kiểm soát – đã giết hết những người mà Frankenstein yêu thương nhất, sau tất cả nỗi đau và mất mát, chỉ đến khi Frankenstein chết thì gã quái vật mới có thể chết một cách tự do. Khi gã suy ngẫm về cái chết của chính mình, và sự giải thoát khỏi những đau thương sẽ đến cùng cái chết, gã lại suy nghĩ về mối liên kết của họ: “Anh ta đã chết, người đã gọi ta đến với thế giới này, và khi ta chẳng còn, những kí ức về hai ta rồi sẽ nhanh chóng tan biến.”

Tất nhiên là không như vậy. Mặc dù trong câu chuyện của Shelley, mối ràng buộc giữa họ có thể đã giữ cả hai trên trái đất lâu hơn họ có thể, nhưng cả hai đều không tan biến cùng cái chết. Câu chuyện về họ vẫn còn, và vì thế, họ vẫn sống. Chúng ta sẽ tồn tại cho đến khi chúng ta bị quên lãng. Chúng ta lưu giữ kí ức về người đã khuất và kể cho thế giới nghe những câu chuyện về họ, như thế họ sẽ chẳng bao giờ rời xa chúng ta. Pearl sẽ không bao giờ chết cho đến khi những câu chuyện về con bé biến mất, cho đến khi chẳng còn ai nhớ về chúng.

Trong nhật ký của mình, Shelley đã viết: “Điều này thật ngu ngốc, tôi cho là vậy. Tuy nhiên, bất cứ khi nào tôi bị bỏ mặc một mình với những suy tư hỗn độn, tôi chẳng thể làm gì để đuổi chúng đi, chúng sẽ luôn đưa tôi tới một thời điểm: khi tôi là một người mẹ, và rồi không còn nữa.”

Nhưng tất nhiên, cô là người mẹ, điều đó đã thay đổi cuộc đời cô mãi mãi. Điều đó thể hiện qua sự sâu sắc, phong phú và đau đớn trong nghệ thuật của cô.

Hết.

Chan Trang dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Mary Milstead, đăng tại Electric Literature

Ảnh đầu bài: Bernie Wrightson

Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng