Phía sau trang sách

Phỏng vấn ma cà rồng

Đúng như tiêu đề tác phẩm, Phỏng vấn ma cà rồng (Interview with the Vampire) có thể được tóm tắt đơn giản là: chuyện đời một ma cà rồng được kể lại dưới hình thức phỏng vấn.

Published

on

Narration

Một trong những điểm đầu tiên khiến tôi băn khoăn khi đọc Phỏng vấn ma cà rồng là tại sao Anne Rice lại chọn kể câu chuyện này dưới hình thức phỏng vấn? Vì khi đọc khoảng năm, sáu chục trang đầu tiên, tôi đã đoán rằng cách kể chuyện của tiểu thuyết này vẫn sẽ cứ như thế: nghĩa là phỏng vấn chỉ như cái cớ để câu chuyện bắt đầu, nó không được thể hiện rõ nét và xuyên suốt trong tác phẩm dưới dạng hình thức hay nội dung. Vì vậy, cuộc phỏng vấn ở đây giống như độc thoại hơn là đối thoại, phóng viên đóng vai trò giống như độc giả hơn là người chất vấn. Ban đầu, tôi đã đoán câu chuyện diễn ra dưới hình thức phỏng vấn là để xen kẽ hai tuyến thời gian: tuyến thời gian quá khứ trong những sự kiện Louis thuật lại, tuyến thời gian hiện tại khi anh đang ngồi phỏng vấn với người phóng viên. Tôi cũng nghĩ rằng động cơ của hành vi kể chuyện sẽ được nhấn mạnh vì vô hình trung, hình thức phỏng vấn thường khiến người đọc tự đặt câu hỏi rằng tại sao nhân vật lại chấp nhận yêu cầu phỏng vấn. Có thể hiện tại Louis đang gặp vấn đề gì đó (anh bị truy đuổi, hoặc sức khỏe yếu đi…) buộc anh phải thuật lại tường tận câu chuyện đời mình cho thế giới con người biết; và khi đó, câu chuyện anh kể sẽ không được liền mạch, nó luôn bị ngắt quãng bởi các đợt tấn công từ những yếu tố ngoại tại hay nội tại (chẳng hạn như kẻ thù ập đến căn hộ ấy, những tràng ho bỗng dưng kéo dài vì một chất độc nào đó trong cơ thể…). Tuy nhiên, đã không có bất kì tình tiết tương tự nào xảy ra, câu chuyện được kể liền mạch như một dòng sông thuận hòa xuôi thẳng ra biển, chỉ thi thoảng rẽ nhánh đây đó vào hai ven bờ ở những đoạn Louis tạm nghỉ ngơi và có chút tương tác với phóng viên để câu chuyện này còn có vẻ như được kể dưới hình thức phỏng vấn. Nếu như phỏng vấn chỉ là cái cớ, là thứ xuất hiện ở điểm đầu tiên – cuối cùng và vài đoạn ở giữa, vậy thì tại sao ngay từ đầu Anne Rice không kể thẳng câu chuyện này dưới ngôi thứ nhất? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi nhớ lại vài chuyện, đồng thời cũng tìm được câu trả lời cho mình.

Tôi nhớ đến tác phẩm Trà Hoa Nữ (La Dame aux camélias) của Alexander Dumas và Lũ người quỷ ám (Demons) của Dostoevsky. Trong Trà Hoa Nữ, Dumas đã không trực tiếp bắt đầu câu chuyện bằng giọng kể ở ngôi thứ nhất của Armand dù rằng phần lớn câu chuyện rồi cũng sẽ được kể dưới góc nhìn của anh. Thay vào đó, ông đã chọn một nhân vật nam vô danh làm người kể chuyện để nhân vật ấy tìm đến Armand và người đọc được nghe câu chuyện từ ngôi thứ nhất của Armand kể cho nhân vật nam nghe – nhưng thực chất cũng là kể cho độc giả nghe. Trong Lũ người quỷ ám, Dostoevsky lại có cách xử lí hơi khác một chút. Câu chuyện gia đình bà Varvara được kể lại qua lời kể của ông Anton Lavrentyevich – một người bạn thân của Stepan Verkhovensky và ông Stepan Verkhovensky là tình nhân của bà Varvara. Câu chuyện Anton kể cho người đọc nghe về gia đình Varvara phần lớn là những chuyện do ông Stepan kể lại cho Anton nghe. Tuy câu chuyện có hiện diện người kể chuyện ở ngôi thứ nhất nhưng thực chất toàn bộ nội dung vẫn được kể ở ngôi thứ ba, Anton chỉ xuất hiện ở đầu-cuối truyện và một vài điểm ngừng nghỉ giữa các phần trong câu chuyện.

Tôi chưa đọc nhiều sách lí luận văn học để biết hiện tượng này gọi là gì, vậy nên trong bài viết này, tôi tạm chia ra: lối tường thuật sơ cấp (trực tiếp) và lối tường thuật thứ cấp (gián tiếp). Ở lối tường thuật sơ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc trực tiếp với nguồn kể chuyện, nó đồng thời cũng là nguồn đầu tiên, không bị lẫn qua công đoạn xử lí từ các nguồn trung gian, tựa như ta uống nước suối từ chính dòng suối chảy trong rừng, không phải uống nước suối trong chai đã qua công đoạn lọc của nhà máy. Ở lối tường thuật thứ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc gián tiếp với nguồn kể chuyện thông qua một hay nhiều trung gian; lối tường thuật này không hẳn làm cho chất liệu câu chuyện bị lọc bớt đi như nước suối trong chai nhưng khi tiếp cận với lối tường thuật này, một khoảng cách nhất định sẽ được thiết lập giữa độc giả và câu chuyện, người đọc ý thức được rằng nhân vật đang kể chuyện (hay ngôi thứ ba khách quan đang kể chuyện) không chỉ để cho mình biết mà trước nhất, cho một nhân vật khác trong câu chuyện được biết. Theo cách chia này, những câu chuyện chỉ sử dụng duy nhất một ngôi kể chuyện (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) xuyên suốt tác phẩm áp dụng lối tường thuật sơ cấp. Trong khi đó, những tác phẩm như Trà Hoa Nữ, hay Lũ người quỷ ám lại áp dụng lối tường thuật thứ cấp. Tuy vậy, lối tường thuật thứ cấp trong hai tác phẩm này, cũng như trong Phỏng vấn ma cà rồng không phải là sự đan xen liên tục giữa thứ cấp và sơ cấp, giữa nguồn trung gian và nguồn sơ khởi, giữa người kể chuyện và người trực tiếp trải nghiệm. Thực tế, những tác phẩm này vẫn được kể theo lối tường thuật sơ cấp, chúng chỉ có vỏ bọc là lối tường thuật thứ cấp ở vài điểm trọng yếu hoặc ngơi nghỉ trong tác phẩm. Đến đây, chúng ta quay về câu hỏi đầu tiên nhưng dưới cách diễn đạt khác: tại sao những câu chuyện này không được kể xuyên suốt theo lối tường thuật sơ cấp khi lối tường thuật thứ cấp chỉ như một lớp màn mỏng, phất phơ ở vài điểm nhỏ lẻ trong câu chuyện, khi mà bản thân câu chuyện cũng không hướng người đọc dành sự quan tâm đến nguồn thứ cấp – ở đây là người kể chuyện trung gian (nhân vật nam vô danh trong Trà Hoa Nữ, Anton Lavrentyevich trong Lũ người quỷ ám, phóng viên trong Phỏng vấn ma cà rồng), khi mà nguồn sơ cấp – ở đây là người trực tiếp trải nghiệm vẫn chiếm lĩnh vị trí chính yếu (Armand trong Trà Hoa Nữ, gia đình Varvara trong Lũ người quỷ ám, Louis trong Phỏng vấn ma cà rồng)?

Câu trả lời của tôi là: khoảng cách, độ lùi, sự bí ẩn.

Khoảng cách. Khi người đọc được tiếp xúc câu chuyện ở hình thức sơ cấp với vỏ bọc là thứ cấp, họ có một khoảng cách nhất định với nhân vật. Chính khoảng cách này tạo ra sự bí ẩn cho nhân vật, câu chuyện được kể.

Sự bí ẩn ấy khiến độc giả thấm thía hơn rằng có thể nhân vật vẫn còn nhiều góc khuất mà họ đã không kể ra cho nguồn thứ cấp biết, hoặc nguồn thứ cấp không kể lại cho độc giả biết. Đôi khi, cảm giác này sẽ đem lại chút kích thích theo kiểu trinh thám.

Độ lùi. Lối tường thuật thứ cấp chủ yếu hình thành dựa trên sự kể và kể lại. Chính vì vậy, nó thường không mang đến cảm giác trải nghiệm trực tiếp như lối tường thuật sơ cấp ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Một nhân vật có thể kể lại toàn bộ cuộc đời anh ta cho người khác nghe nghĩa là anh đã sống sót và vượt qua những biến cố khó khăn, hiểm nghèo. Sự thật hiển nhiên này khiến người đọc không mấy lo lắng cho nhân vật khi anh gặp nguy hiểm vì họ nhận thức rõ ràng đó là chuyện trong quá khứ được kể lại, đó không phải là thực tại. Nói cách khác, độ lùi trong lối tường thuật thứ cấp là tác nhân làm giảm đi kịch tính câu chuyện, nó dịch chuyển sự quan tâm của người đọc từ sự kiện sang phương thức, từ tâm trạng hồi hộp sang trầm tư sâu lắng.

Tôi nghĩ rằng cả ba tác phẩm Trà Hoa Nữ, Lũ người quỷ ám, Phỏng vấn ma cà rồng đều đã tận dụng được tốt từ hai đến ba đặc điểm tối ưu trong lối tường thuật thứ cấp mà tôi vừa nêu ở trên. Phỏng vấn ma cà rồng là tác phẩm được viết theo lối gothic, vậy nên việc tạo cảm giác về khoảng cách và sự bí ẩn là cần thiết; hơn nữa, bản thân ma cà rồng luôn là nhân vật dễ tạo ra/cần tạo ra cảm giác bí ẩn cho độc giả. Độ lùi cũng là thứ cần thiết trong tác phẩm này vì những gì Louis đã trải qua không quan trọng bằng việc anh nghĩ gì về nó.

Style

Sau khi đọc Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy, tôi đã giữ thói quen đọc lướt qua những bình luận của độc giả trên Goodreads. Lần này, với Phỏng vấn ma cà rồng, tôi tìm được một nhận xét khá hài hước, thú vị từ độc giả Daniel Marcos:

“I really wanted lo like this book, my hopes were high, because I LOVE vampire books and this is one of the most important, and it is without a doubt, the most boring one.
I hate Anne Rice’s writing, it makes me want to cut my veins.
Let me give you an example:

My keyboard is very beautiful, I like how the “Q” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Q” I also like how the “E” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “E” I also like how the “W” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “W” I also like how the “R” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “R” I also like how the “T” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “T” I also like how the “Y” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Y” I also like how the “U” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “U” I also like how the “I” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “I”.

Yes, it is THAT repetitive. The characters ramble and ramble and ramble and ramble about things that 1.- Do not make sense with the story 2.- Have been said a thousand times before 3.- Are beautiful, everything in this book is beautiful, the flowers are beautiful and she describes them for 7 pages, the windows is beautiful, the coin on the floor is beautiful, the moth documentary is beautiful…. it makes me want to kill myself.”

Tôi đã không ngăn được bản thân mình phì cười khi đọc nhận xét này. Các đánh giá một sao trên Goodreads bao giờ cũng hài hước. Dù vậy, tôi không đồng ý hoàn toàn với nhận xét trên. Đúng là Anne Rice miêu tả lặp đi lặp lại rất nhiều thứ trong tác phẩm này nhưng tôi không cảm thấy quá nhàm chán vì mỗi lần lặp lại, bà đều cố gắng miêu tả nó khác đi, nhìn nó dưới một góc cạnh khác (tuy không phải lần nào cũng khác nhau, song cũng tuyệt đối không phải là trùng lặp hoàn toàn). Có lẽ, với những người khác nhau, họ sẽ để ý những thứ khác nhau trong những điều bà hay lặp lại. Còn với tôi, tôi đặc biệt lưu ý đến cách bà miêu tả những ngọn lửa trong tác phẩm này. Nếu phải chọn một hình ảnh mang tính biểu tượng cho Phỏng vấn ma cà rồng, tôi sẽ chọn hình ảnh ngọn lửa bởi lẽ lửa đóng vai trò rất quan trọng trong câu chuyện này, nó góp mặt ở hầu hết những biến cố chính trong truyện. Trong vô số những thứ Anne Rice miêu tả trùng lặp, có lẽ sẽ sót lại đôi thứ quả thật là thừa, bỏ đi cũng không hề ảnh hưởng đến câu chuyện. Tuy nhiên, các miêu tả xoay quanh “lửa” tuyệt đối không nằm trong nhóm đó. Trích dẫn dưới đây là đoạn văn miêu tả lửa tôi thích nhất trong tác phẩm này:

“Một khúc gỗ đang rơi rất chậm xuống đống lửa, trượt xuống trong một chu trình sẽ mất cả đêm mới kết thúc được, và trên thân nó lỗ chỗ những vết rỗ, một thứ vật chất đã chọc xuyên qua đó và nhanh chóng cháy rụi, và trong mỗi lỗ nhỏ đó là một ngọn lửa tí hon nhảy múa, hòa mình vào ngọn lửa lớn hơn; những cái miệng đen của chúng dường như những khuôn mặt tạo thành một dàn hợp xướng; và dàn hợp xướng đang ngân nga mà không phát ra tiếng động. Dàn hợp xướng ấy không cần phải hát; chỉ bằng một hơi thở trong ngọn lửa bất tận, chúng đã tạo nên một bài ca thầm lặng của riêng chúng.”

Ban đầu, dù thấy đoạn miêu tả này hay nhưng tôi đã nghĩ nó hơi thừa. Về sau, tôi mới phát hiện đoạn miêu tả này chẳng thừa chút nào vì nó là set-up tinh tế cho những gì sắp diễn ra, nó là một điềm báo, một sự gợi nhắc khéo léo.

Tôi chưa đọc bản gốc nên không thể đưa ra nhận xét cá nhân về chất lượng bản dịch ở khía cạnh đúng sai. Tuy nhiên, nếu là cảm nhận mang hướng cảm tính khi đọc trên văn phong dịch sang tiếng Việt, tôi nghĩ rằng bản dịch của Hải Âu đã truyền tải được khá chính xác không khí cổ điển của thế kỉ 18, 19 – thời điểm câu chuyện diễn ra. Trước khi đọc tác phẩm này, tôi không tìm hiểu bất kì thông tin nào trên mạng nhưng trong quá trình đọc, văn phong dịch khiến tôi nhớ đến tác phẩm Biệt thự bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) của Nathaniel Hawthorne qua bản dịch của Việt Nam khảo dịch xã trước 1975. Đó là tác phẩm được xếp vào thể loại gothic, thời gian câu chuyện diễn ra cũng là ở thế kỉ 19. Để tìm câu trả lời lí giải cho cảm giác về sự giống nhau ở văn phong, không khí của hai tác phẩm này, tôi đã tra thông tin về Phỏng vấn ma cà rồng trên mạng. Và tôi không cần phải đọc nhiều, câu trả lời nằm ngay ở dòng đầu tiên: Phỏng vấn ma cà rồng là tiểu thuyết thuộc thể loại gothic horror. Thể loại này là sự kết hợp giữa hai đặc tính: lãng mạn và kinh dị; các câu chuyện thường diễn ra trong bối cảnh là những tòa lâu đài, biệt thự u ám, cổ kính. Có lẽ vì vậy mà phần lớn những đoạn miêu tả cảnh vật hay đồ vật trong Phỏng vấn ma cà rồng cũng như Biệt thự bảy đầu hồi đều có sự song hành giữa tính lãng mạn và tính kinh dị. Ở trên, tôi đã trích dẫn một đoạn miêu tả lửa trong Phỏng vấn ma cà rồng, dưới đây tôi sẽ ví dụ minh họa bằng một trích dẫn trong Biệt thự bảy đầu hồi:

“Còn về ngôi nhà cổ kính trong câu chuyện này, tất cả những đặc điểm của nó từ sườn nhà bằng gồi, vách ván, mái nhà và lớp hổ bị tróc, cho đến cả cái ống khối đồ sộ vĩ đại ở chính giữa, cũng chỉ có vẻ là phần nhỏ nhất của cái sự thực về ngôi nhà ấy. Biết bao kinh nghiệm của nhân loại đã qua tại đó, với bao đau khổ và cả đôi chút niềm vui khiến cho các tấm gỗ đều nhầy nhụa như thể bị nhiễm sự ẩm ướt của một trái tim. Chính đó là một trái tim lớn của con người, có sinh lực riêng biệt, đầy kỉ niệm dồi dào và bi đát.”

After credit

Ở đoạn kết của Phỏng vấn ma cà rồng, một lần nữa, ưu điểm bí ẩn – trinh thám trong lối tường thuật thứ cấp lại phát huy tác dụng. Phân đoạn kết thúc của tác phẩm này không hiểu sao lại khiến tôi nhớ đến những cảnh after credit trong các phim siêu anh hùng của Marvel. Ý tôi là, nó nhắc khéo khá rõ ràng rằng sẽ có phần tiếp theo nữa, các bạn đừng bỏ lỡ. Và quả thật, Anne Rice đã viết tiếp không chỉ một mà đến mười một phần tiếp theo trong tổng số mười hai phần của series The Vampire ChroniclesPhỏng vấn ma cà rồng chỉ mới là khởi đầu.

Hết.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng