Phía sau trang sách

Pedro Páramo: Tác phẩm viết về và viết bởi cái chết

Pedro Páramo là tác phẩm viết về và viết bởi cái chết. Một cách tài tình sau khi đi một vòng xuyên suốt toàn bộ tiểu thuyết, ta nhận thấy tất cả những nhân vật trong này, dù già trẻ lớn bé, xuất hiện nhiều hay chỉ trong một khung cảnh, tất cả đều đã chết.

Published

on

“Thực tình họ đã quá ồn ĩ vì một người chết của gia đình rồi. Nếu là người thân của họ thì có lẽ họ sẽ chẳng khóc lóc thảm thiết đến như thế đâu”.

Mexico và vẻ đẹp tràn đầy năng lượng của mình từng đến với tôi thông qua văn chương cũng như phim ảnh. Nếu phim ảnh là Coco với cảm xúc và sự tươi trẻ, là Roma với những gam màu trắng đen của thói đời lên xuống; thì Mexico trong văn chương của Jack Kerouac là những ngày rong ruổi tuổi trẻ, là mảnh đất của hoang dại, là khát khao được thoát khỏi chiếc lồng ngột ngạt của mực thước xã hội. Và Mexico thì còn gì nữa? Là lễ hội của phông nền văn hóa, là Carlos Fuentes với Nàng Aura từng đọc khi 19 20, và thật lòng mà nói, là chẳng hiểu gì. Nhưng như một nhân duyên tình cờ, nhờ yêu thích Jorge Amado mà tôi tạt ngang Márquez trong cơn đồng mộng, và ở một truyện ngắn được in trong quyển Tuyển truyện ngắn (mà tôi không thể nhớ tên), ông đã nói: “Tôi có thể kể xuôi toàn bộ tác phẩm này từ đầu đến cuối rồi lại kể ngược từ cuối lên đầu”. Cứ thế Pedro Páramo đến với tôi qua dây chuyền nền văn chương Mỹ Latin, và quả thật, Márquez đã một lần nữa đóng vai Jorge Amado khi cho thấy cái nhìn cực kì quái lạ vào sâu trong Juan Rulfo – một trong những nhà văn mà tôi vô cùng đồng tình, vĩ đại nhất văn chương Mexico.

Pedro Páramo xoay quanh câu chuyện về một chàng trai đi tìm cha, nhưng tiểu thuyết này cũng không thoát ra khỏi cái đặc trưng của văn chương Mỹ Latin nói chung và Mexico nói riêng của thời kỳ này. Đọc sâu vào Pedro Páramo ta vẫn thấy đâu đó là hình dáng của tên độc tài, là đời sống áp bức, là khởi nghĩa nổi dậy, là sự giằng xé nội tâm đi tìm bản chất của người. Tất cả viết trong phông nền đậm màu hiện thực kỳ ảo dưới ngôi kể từ nhiều góc nhìn, không – thời gian được cắt ra từng lớp và xếp chồng lên nhau. Từ Alejo Carpentier đến García Márquez, từ Jorge Amado đến Carlos Fuentes, và nay là Juan Rulfo; tất cả những ngòi bút ấy đều mang trong mình sứ mệnh văn chương để kể câu chuyện trong những huyễn hoặc viễn tưởng khó mà nghĩ đến. Và Pedro Páramo dường như là tiểu thuyết đầu tiên (mà tôi từng đọc qua) căn chỉnh và hài hòa đầy đủ các yếu tố này.

Những vấn đề châu Mỹ

Pedro Páramo là nhân vật được chọn trở thành tiêu đề cho tiểu thuyết này, nhưng y không hẳn là nhân vật chính. Từ Pedro Páramo, Juan Rulfo tỏa ra những con đường văn chương thông qua các nhân vật gắn kết dù ít hay nhiều nhưng đều có quan hệ nào đó với y. Với Pedro Páramo, Juan Rulfo đã khắc họa một cách thân quen hình ảnh tên cường hào địa chủ điển hình cho tầng lớp bóc lột ở xã hội Mexico thời bấy giờ, mà ta có thể nhìn thấy sự tương đồng với Horácio của Amado trong Đất dữ hay người bà bất lương của Erendira trong truyện ngắn cùng tên của Márquez. Tên địa chủ ấy cũng như những mẫu hình khác: hung tợn, dữ dằn; nhưng trái lại, lại si mê một tình yêu không thể có được. Tuy tài sản, đất đai, quyền hành dường như nắm được mọi thứ trong tay nhưng nhìn chung, y và những người như y lại có đời sống bất hạnh.

Say mê Susana – người phụ nữ ốm yếu suy kiệt dần sau cái chết của cha mình, mất đi người con duy nhất thừa nhận – Miguel bởi chính bức tường mình đã xây nên sau cuộc nhảy ngựa, cộng thêm là sự trỗi dậy của cách mạng chống địa chủ; tất cả làm cho cuộc sống của Pedro Páramo xoay vần trong cơn bão chớm đến. Từ một người khinh thị luật pháp, rằng: “Ô hay, luật pháp nào kia, hở Fulgor. Luật pháp từ đây trở về sau này sẽ do chúng ta làm nên”; nay sớm nhận ra sự trừng phạt đang đến gần: “Chúng ta sống trên miền đất nhờ đấng Toàn năng sản đủ thứ. Nhưng tất cả các thứ quả sản ra ở đây đều chua. Chúng ta bị kết tội chỉ được hưởng những quả chua đó”. Rồi cuối cùng là cái chết tan tành của y vào trong hư vô về lại tro bụi.

Juan Rulfo khắc họa Pedro Páramo một cách tài tình, không phải tuýp người nóng nảy dễ kích động đâm giết chém thuê như Horácio của Amado, mà thay vào đó, y là kiểu người nham hiểm và mang trong mình đầy đủ đường đi nước bước hệt như nhân vật Quốc trưởng được lấy mẫu chung từ phần lớn những tên độc tài của khu vực Nón phương Nam, mà Porfirio Díaz là đại diện chính, của Alejo Carpentier trong Sự tráo trở của phương pháp. Như thể khi đối đầu với lực lượng cách mạng, y đã dùng El Tilcuate như lá chắn cho mình; hay khi phải trả nợ cho nhà Preciado, y đã nghĩ ra cách cưới Dolores để không kéo dài thêm khoảng nợ trong khi bản thân chẳng yêu thích gì cô. Việc xây dựng một nhân vật táo bạo và có chiều sâu như thế làm nổi bật lên trên hình tượng của con người ấy, tuy là văn chương nhưng dường như không quá xa vời cuộc sống thực tại của đất nước này.  

Bên cạnh nhân vật chính là chủ đồn điền Media Luna, Juan Rulfo cũng khéo léo đồng thời cho thấy cuộc sống của con người dưới thời khắc ấy, và cùng đó, vạch rõ cho người đọc thấy chế độ độc tài có thể biến đổi con người ta đến mức độ nào. Những nhân vật trong câu chuyện đáng thương này có thể kể đến như mẹ của người kể chuyện – Dolores, như cha xứ Renteria, người cô Eduviges, anh chàng bị mất hết ruộng đất Toribio Aldrete, người đàn bà cất lên tiếng nói từ dưới nấm mồ Dorotea,… tất cả được Juan Rulfo xây dựng như quần thể của những phê phán bất công cất lên từ dưới lòng đất. Pedro Páramo là cuốn tiểu thuyết phức tạp và đòi hỏi sự tập trung gần như cao độ của người đọc mặc cho một thời lượng vô cùng khiêm tốn, bởi nhẽ, nó được cấu thành hầu hết nhờ những chồng chồng lớp lớp của câu chuyện, cạnh đó, là sợi dây quan hệ giữa mỗi nhân vật trong câu chuyện này. Đôi khi họ quen biết rõ nhau, nhưng cũng đôi khi họ chẳng quan hệ gì và góp phần vào đây chỉ như chút hương thoáng qua, nhưng cần thiết. Juan Rulfo một cách chậm rãi kể tuần tự câu chuyện, đôi khi đảo ngược thời gian, và từ trong đám lộn xộn những bi kịch ấy, ta nhận ra cuộc sống dưới thời khắc cũ có thể mong manh đến mức độ nào.

Dolores, vì một khát khao hạnh phúc làm cho mù mờ con mắt bởi tuổi thanh xuân, người từng nói rằng:”Ôi hạnh phúc! Ôi hạnh phúc! Cám ơn Thượng đế đã cho con don Pedro […] Dẫu rằng có bị ruồng bỏ con cũng cam lòng” đến cuối cùng vẫn phải căm phẫn người đàn ông ấy, vì bỏ bà đi, và quyết nhờ đứa con trai duy nhất lấy lại những thứ đã mất. Dorotea, người bị ám ảnh bởi ước mơ có một đứa con, cuối cùng cũng phải tan rã trong hầm mộ nghe tiếng thầm thì. Ông bà Donis, ngọn nguồn tương đồng của Trăm năm cô đơn, khi là hôn phối cận huyết, là tự dằn vặt bản thân và phải phủ khăn ăn lên mặt để tránh sự kết tội của Chúa như khi ăn món sẻ nướng Ambelopoulia: “Tôi chỉ mãi mãi ở trong nhà này kể từ khi ông ta đã biến tôi từ em gái thành người vợ của ông ấy. Kể từ độ ấy tôi chỉ ở trong nhà vì tôi ngại dân chúng nhìn thấy mình”. Hay như Toribio Aldrete, người mất hết ruộng đất bởi những luật lệ về quyền dụng ích do chính Pedro Páramo gây ra, đã phải kết thúc cuộc sống bằng cái chết thốt ra như lời tuyên ngôn: “Người ta nói rằng sức mạnh ở phía sau ta”, và hồn ma ấy vẫn vất vưởng trong căn phòng kia hàng trăm năm trời, chưa bao giờ mất đi chính bởi xung động bất công còn mãi trường tồn.

Nhưng trên hết, nằm trên những mưu mô của con người như phương cách tồn tại trong lòng xã hội nhiễu nhương của những tên độc tài, vấn đề tôn giáo và đức tin – ngọn nguồn về bản chất con người, luôn được đưa ra như chút manh mún cuối cùng của đạo đức tàn suy. Ở đây xuất hiện nhân vật cha xứ Renteria, người luôn bị dằn vặt bởi sứ mệnh và cuộc sống phía trước. Ông từng phân vân khi đến tha tội cho Miguel, người đã giết anh ông, cưỡng hiếp cháu gái ông; nhưng vì sức mạnh của 25 đồng bạc, dường như nó khiến ông phải ngã mũ rồi nằm khóc trong kho chứa đồ Thánh vì sự bất lương của bản thân mình. Trong khi đó, việc xá tội cho bà Eduviges bởi việc tìm đến cái chết một cách tự thân lại không thể, dù đó chỉ là một, hai hay một trăm từ lặp lại vô nghĩa, nhưng nếu không có tiền để cầu kinh Thánh Gregor, thì cái chết ấy sẽ phải xuống địa ngục mà không có bất cứ một sự xá tội nào: Cái gì đã bắt đức cha từ chối tha lỗi khi việc nói ra một từ, hai từ, hay một trăm từ là một việc dễ dàng nếu như những từ này đích thực cần thiết cho việc cứu giúp một linh hồn. Đức cha đã biết gì về thiên đường và địa ngục? Tuy nhiên, đức cha, do hòa mình vào trong một làng không tên tuổi, đã biết chắc những ai là người đáng được lên thiên đường. […] Ta đang duyệt lại các tên Thánh như thể ta nhìn thấy những con dê cái đang nhảy ra”.

Xã hội lúc ấy làm con người ta hoài nghi về chính bản thân mình, họ tự vấn bản thân về giá trị của sự sống – cái chết, bởi mỗi kết cục trên cuộc đời này đều có tính tương đối, như một câu nói mở đầu tiểu thuyết: “Bò lên hay trườn xuống hoàn toàn phụ thuộc vào người đang đi trên nó”. Không khó nhận ra khi trong tiểu thuyết này, Juan Rulfo dùng rất nhiều những đối ngẫu trong suy nghĩ, đối thoại để khắc họa nên cái chông chênh của xã hội lúc ấy. Một ví dụ như sau, về cái chết, giữa một bên là người bà thủa ấu thời của Pedro Páramo – người vẫn còn sống, và một bên là của Dorotea – người đàn bà lắng nghe tiếng thì thầm của những xác chết – như mình: “Tất cả đều được hoàn thiện trong cái chết có Thượng đế làm nhân chứng nhân. Người ta chỉ chết khi muốn chết chứ không phải do Thượng đế sắp đặt” Hiển nhiên cuộc sống mang theo nó công việc. Cái duy nhất khiến chân tay người ta hoạt động là niềm tin rằng khi nhắm mắt xuôi tay sẽ được mang từ nơi này đến nơi khác. Nhưng khi người ta chết rồi thì một cánh cửa đã khép bước họ lại và chỉ mở ra cho họ một cánh cửa dẫn đến địa ngục, đã thế thì chẳng nên sinh ra trong cõi đời này làm gì”.

Juan Rulfo dùng chính sự đối ngẫu như thế làm con người ta bỗng chốc nhận ra cái chông chênh của bản thân mình. Nhưng dù ở khía cạnh nào đi nữa, Pedro Páramo một cách thẳng thừng cho thấy giá trị của con người có thể bé nhỏ đến mức độ nào. Họ nhỏ bé không những trước tạo hóa bao la, bất lực trước sự sống, cái chết; mà còn vỡ vụn bởi chèn ép hạ bệ thời cuộc, bởi quyền lực tập trung vào tay địa chủ. Juan Rulfo dùng Juan Preciado như lời khẳng định về hiện thực lúc ấy, ông không viết những dòng này bằng từ ngữ của thì hiện tại hay tương lai, mà sự xuất hiện dưới nấm mồ của Juan hay Dorotea như lời tái khẳng định cho ngày hôm nay. Cuối cùng rồi thì, như Carlos Fuentes viết trong Nàng Aura: Họ muốn chúng tôi sống đơn lẻ […] Bởi lẽ theo lời họ, cô đơn là điều cần thiết để đạt được sự thánh thiện”.

Phong cách nghệ thuật thân quen

Ảnh: radionica.rocks

Dịch giả Nguyễn Trung Đức trong bài giới thiệu quyển sách đã nói rằng, nếu Alejo Carpentier là người mở đường cho chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo vào trong văn chương Mỹ Latin, thì Juan Rulfo – theo tôi, chính là người nắm được trào lưu văn chương ấy một cách xuất sắc. Và rõ ràng đúng là như thế. Với Pedro Páramo và thời điểm ra đời của nó, dường như đây là cuốn tiểu thuyết kỳ lạ, độc đáo và cách tân mới lạ so với trào lưu văn học theo khuynh hướng cách mạng trước đó. Pedro Páramo không hẳn cách ly hẳn so với khuynh hướng tiền tố, ta dễ thấy việc xây dựng hình tượng tên địa chủ và cao trào cách mạng nổi dậy vẫn mang đậm hệ tư tưởng cách mạng, thế nhưng việc xây dựng tiểu thuyết trong không khí lạ lẫm của văn chương mới là điều làm nên sức hút của tác phẩm này.

Pedro Páramo là tác phẩm viết về và viết bởi cái chết. Một cách tài tình sau khi đi một vòng xuyên suốt toàn bộ tiểu thuyết, ta nhận thấy tất cả những nhân vật trong này, dù già trẻ lớn bé, xuất hiện nhiều hay chỉ trong một khung cảnh, tất cả đều đã chết. Mở đầu tiểu thuyết, Juan Rulfo gài cắm người đọc vào con đường đi xuống mãi không có gió, để gắn hồn ma quanh quẩn vào trong văn chương, tiếng động làm thành một tiếng nói chung. Nếu ở Nàng Aura, Carlos Fuentes dùng âm thanh như cách khuếch tán nỗi sợ vào trong người đọc, khi đó là tiếng mèo gào, tiếng vấy sột soạt; còn Jorge Amado là tiếng kêu của các loài vật, là tiếng thét gào vĩnh biệt của chú ếch khi bị rắn độc nuốt; thì với Pedro Páramo, đó là âm thanh của im lặng, của mưa, của tiếng nện gót trên đá lót đường, của vó ngựa đường xa, của góa phụ than khóc, của tiếng rì rầm không bao giờ ngơi nghỉ: “Tôi lại nghĩ rằng nếu như tôi chỉ nghe thấy cái thanh tịnh là vì tôi chưa quen với cái thanh tịnh hoặc cũng có thể là đầu tôi chứa đầy tiếng ồn và tiếng nói”. Chính âm thanh được tả bằng không gian phẳng của ngòi bút ít nhiều trở thành những tạp âm trắng quẩn quanh trong tai người đọc, ám ảnh và đau xót để rồi hiển nhiên thay vì là Pedro Páramo, tên đầu tiên của tiểu thuyết này đáng ra lại là Los murmullos – Những lời thì thầm.

Juan Rulfo dùng một cách dày đặc những chi tiết hiện thực kì ảo, không như Márquez hay Carpentier chỉ như chấm phá trong lòng hiện thực. Chính không gian u huyền đến từng khoảng không của Pedro Páramo dường như là yếu tố chính làm nên một tiểu thuyết hay, không một cận trên hay giới hạn nào, và có lẽ bởi chính lối viết mới mẻ ấy, tự bản thân nó đặt ra chuẩn mới cho tiểu thuyết Mexico nói riêng và châu Mỹ Latin nói chung. Sau gần một thập kỉ tiếp nối, văn chương Mexico mới chứng kiến thêm một cây bút cá tính tương tự Juan Rulfo đã từng, và đó là Carlos Fuentes. Đọc Nàng Aura (rất tiếc đây là tác phẩm duy nhất của ông được chuyển ngữ) và Pedro Páramo, ta thấy nhiều sự tương đồng. Nếu Nàng Aura tràn ngập những khoảng không tối tăm, những âm thanh u huyền, không có gì rõ ràng hay cụ thể, chỉ là tiếng động, là trống rỗng; thì Pedro Páramo cũng tương tự thế. Nhưng một cách rõ ràng, Pedro Páramo đã thoát ra khỏi những lớp văn chương dày đặc để sống đời thực tại riêng mình, nhưng âu đó cũng là điều bình thường, bởi những thúc đẩy thời đại, bởi văn chương và vai trò của nó thay đổi từng thời kỳ, dưới nhiều góc nhìn.

Nếu quy kết ngôi nhà mà chàng nghiên cứu lịch sử ở trong những ngày chìm vào mộng mị với Aura và không gian mà Juan Preciado và Dorotea dưới những nấm mồ; ta thấy khoảng không của 2 tiểu thuyết này là một. Từ không gian đen thẫm chỉ có vài ngọn nến mỏng manh le lóm, giá trị con người được dần hiện ra. Nếu Nàng Aura tập trung nhiều vào tình cảnh con người, vào cảnh ngộ cô độc của mỗi cá thể trên cuộc đời này; thì Pedro Páramo và thời thế của nó cho thấy cả một quãng dài số phận. Những nhân vật mà Juan Rulfo mang vào tiểu thuyết này không nhiều, nhưng cũng không thể nói là ít; ít nhiều nó gây cho người đọc nhầm lẫn hay ngộ nhận. Nhưng nếu để bỏ một nhân vật hay tổ khúc nào đó đi, tất cả sẽ lại dẫn hướng về khuynh hướng lụn bại domino của toàn cuốn sách.

Thể như đôi tình nhân trong một đêm hè, họ không dính dáng quá nhiều tới cốt truyện chung, nhưng qua đó, ta thấy con người dù cho những đè nén của chế độ độc tài, họ vẫn trân trọng tình cảm dành cho nhau. Hay như anh em nhà Doris, họ là sự ngột ngạt của thời đại, là những lỗi lầm tự mình cảm thấy nhưng bất lực không thoát ra được. Ngoài ra, ở nhân vật luật sư Gerardo Trujillo là sự xuống cấp xã hội, sự xem thường tri thức, và là cái vô vọng của tầng lớp ấy dưới đế chế thống trị. Thêm vào đó, Damiana Cisneros – người giúp việc nhà cho Pedro Páramo, luôn dồn nén trong mình thứ tình cảm thiếu thời một lần bỏ lỡ, và sau này để bù đắp cho thiếu sót ấy, trở thành người dắt gái cho Pedro và đến xưng tội với cha Renteria trong tình cảnh say rượu như một vòng lẩn quẩn. Dù lớn hay bé, nội tại hay ngoại hàm, những nhân vật này của Juan Rulfo đã làm nên sự gắn kết cảnh tình chặt chẽ, một mặt cho thấy câu chuyện của bản thân mình, mặt kia cho thấy xã hội lúc ấy đã biến chuyển ra sao. Do đó hoàn toàn đồng tình khi cho rằng Pedro Páramo đã thoát ra khỏi những ước lệ văn học, mà nó quá ước lệ để trở nên phơi bày hiện thực một cách trần trụi nhất trong khi ước lệ vừa phải khó mà làm được.

Để nhớ lại cái bao trùm tiểu thuyết này, chẳng phải anh chàng sử gia của Nàng Aura đã sống trong căn phòng thông với ánh sáng khí trời đối lập hoàn toàn với khoảng không đen ngòm nơi bà Consuelo sống; và cũng chẳng phải trong Pedro Páramo, mọi âm thanh tự nhiên đều được gói gọn trong lớp vỏ của địa ngục cứ đi xuống mãi? Juan Rulfo đã sắp đặt 2 khía cạnh tối – sáng, trắng – đen rất gần nhau, nhưng để bước qua được khoảng không ấy, là cả sự nhập nhằng của văn chương, là cơn tự vấn bản thân trong mỗi nhân vật. Pedro Páramo mang rất ít trong mình câu chuyện của những tự vấn lương tâm cá nhân, nhưng nó là áng sử thi cho thấy lửa trên bình nguyên châu Mỹ có thể sáng rực đến mức độ nào. Với Pedro Páramo, phong cách đặc trưng của văn chương Mỹ Latin lần đầu tiên bừng sáng và đánh mạnh vào trong tâm thức người đọc, và Juan Rulfo chứ không ai khác – trở thành huyền thoại trong những cây viết của khu vực nói tiếng Tây Ban Nha, một lần và mãi mãi như thế.

Hết.

minh.

*

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo): Một cõi đọa đày

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo)

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sự hoàn hảo và hạnh phúc: Điều gì quan trọng hơn?

Bạn và tôi cũng chỉ là những cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình.

Published

on

phu-nu-dung-kiet-suc-vi-su-hoan-hao

Gửi cậu - cô gái luôn nghĩ mình chưa đủ tốt. 

Dạo gần đây, mình lướt mạng xã hội thấy được rất nhiều những cô gái xinh đẹp, giỏi giang và tràn đầy năng lượng tích cực, mình ngưỡng mộ lắm! Nhưng mình bỗng lặng đi một chút, hàng vạn câu hỏi xuất hiện trong đầu mình: Tại sao bản thân lại không được xinh đẹp, sao bản thân mình toàn chất chứa những tiêu cực, sao mình lại không đủ tốt cơ chứ! Bạn đã từng bị những suy nghĩ ấy bủa vây chưa? Nếu câu trả lời là có, hãy để mình dành cho bạn một cái ôm thật dịu dàng nhé! 

Chỉ cần quan tâm cảm xúc bản thân một chút, bạn sẽ thấy tinh thần tốt hơn. Nguồn ảnh: @Unsplash

Phải là một cô gái đoan trang, một người vợ tào khang, một người mẹ giỏi giang - những tiêu chuẩn hoàn hảo, những áp lực vô hình ấy đã gắn lên người phụ nữ qua bao thế hệ. Ở đây, mình không phủ nhận những tiêu chuẩn ấy là sai trái, mình chỉ nói đến việc phụ nữ chúng mình luôn trong tình trạng thấy quá tải và kiệt sức với mọi việc mình phải làm, nhưng vẫn cứ lo là mình làm chưa “đủ” và luôn trong trạng thái "sức cùng lực kiệt". 

Mình cũng chỉ là cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình để thoát khỏi "peer pressure" (Áp lực đồng trang lứa) hay "burn out" (luôn cảm thấy bản thân mình mệt mỏi và vô cùng áp lực). Người bạn đồng hành cùng mình ở hành trình này chính là quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo (Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA)

Quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo - tác giả Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA

Quyển sách cung cấp độc giả những thông tin khoa học về sức khỏe tâm lý, vừa là người bạn cùng san sẻ những vấn đề xung quanh "cuộc sống phải hoàn hảo" của người phụ nữ. Và chắc chắn bạn sẽ như mình khi bắt gặp chính mình trong quyển sách qua những câu chuyện về cuộc đời, những nỗi đau tâm lý và những lần ngã gục của những người phụ nữ. 

Ba phần của quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo tương ứng với ba giai đoạn của sự chữa lành: 

  • Phần 1 - Những điều bạn mang theo: Với mình, đây là chương sách mình phải chạnh lòng và nghiền ngẫm lâu nhất, khi mình phải tự đối mặt với những đám mây tiêu cực - những vấn đề vẫn hằng đeo bám tâm trí người phụ nữ: sự căng thẳng, cạn kiệt cảm xúc, nhìn nhận sai về "ý nghĩa cuộc sống"... qua góc nhìn tâm lý học và khoa học xã hội. Nhưng mình chắc chắn rằng chúng sẽ không hề khô khan mà lại dễ hiểu và gần gũi qua cách dẫn chuyện lôi cuốn của tác giả. 
  • Phần 2 - Kẻ thù thật sự: Phần hai của quyển sách đào sâu vào "chế độ phụ quyền", “hội-chứng-người-biết-cho-đi” và "vẻ đẹp lý tưởng" - vạch trần những kẻ thù đã gây ra những thương tổn trong tâm lý người phụ nữ. Mình cũng rất thích cách tác giả lồng ghép bộ phim Gaslight một cách đầy tinh tế để dẫn chuyện. Cùng với đó, tư tưởng của tác giả không lý thuyết suông rằng kêu gọi phụ nữ hãy yêu thương và chấp nhận bản thân, mà là "kiên nhẫn với cơ thể cũng như cảm giác của bạn về cơ thể mình."
  • Phần 3 - Những điều cần làm: Phần này sẽ trang bị cho bạn những kiến thức để đánh bại "những kẻ thù thật sự", để bạn ngày một trở nên mạnh mẽ hơn và chiến thắng được chúng. Bạn sẽ bất ngờ nhận ra đó là những việc bạn có thể thực hiện hằng ngày, để bạn kết nối, tin tưởng, nghỉ ngơi và bao dung với bản thân mình hơn. 

Cuối mỗi chương, nhóm tác giả đều có tóm tắt ngắn gọn nội dung, giúp mình thống kê lại kiến thức và các "bài tập" thực hành. Khép lại quyển sách chưa đầy 400 trang, mình đã xóa đi được những góc nhìn đầy phiến diện về cuộc sống và cả về chính mình nữa.

Khi ta từ bỏ sự áp lực hoàn hảo là ta đang hạnh phúc. Nguồn ảnh: @Unsplash

Mình không dám nói rằng mình trưởng thành hơn hay hoàn thành chữa lành sau khi đọc xong quyển sách. Nhưng mình đã tự mở ra cho mình một lăng kính mới, một cánh cửa mới cho chiếc tủ eo hẹp nơi tâm trí. Lăng kính của sự tự do và cánh cửa của sự bao dung cho bản thân. Bất cứ sự trưởng thành nào cũng phải đánh đổi bằng tổn thương. Điều quan trọng, cách ta chiến đấu và chữa lành cho đứa trẻ bên trong sau cuộc chiến hay để những đớn đau ấy mãi tuần hoàn.

"Hãy tin tưởng cơ thể của bạn. 
Hãy tử tế với chính mình. 
Bạn như hiện tại là đủ. 
Niềm vui của bạn là quan trọng. 
Hãy nói cho mọi người mà bạn biết."
Mỗi cô gái đều là phiên bản độc nhất và xứng đáng được yêu thương!"

Đọc bài viết

Cafe sáng