Phía sau trang sách

Phỏng vấn ma cà rồng

Đúng như tiêu đề tác phẩm, Phỏng vấn ma cà rồng (Interview with the Vampire) có thể được tóm tắt đơn giản là: chuyện đời một ma cà rồng được kể lại dưới hình thức phỏng vấn.

Published

on

Narration

Một trong những điểm đầu tiên khiến tôi băn khoăn khi đọc Phỏng vấn ma cà rồng là tại sao Anne Rice lại chọn kể câu chuyện này dưới hình thức phỏng vấn? Vì khi đọc khoảng năm, sáu chục trang đầu tiên, tôi đã đoán rằng cách kể chuyện của tiểu thuyết này vẫn sẽ cứ như thế: nghĩa là phỏng vấn chỉ như cái cớ để câu chuyện bắt đầu, nó không được thể hiện rõ nét và xuyên suốt trong tác phẩm dưới dạng hình thức hay nội dung. Vì vậy, cuộc phỏng vấn ở đây giống như độc thoại hơn là đối thoại, phóng viên đóng vai trò giống như độc giả hơn là người chất vấn. Ban đầu, tôi đã đoán câu chuyện diễn ra dưới hình thức phỏng vấn là để xen kẽ hai tuyến thời gian: tuyến thời gian quá khứ trong những sự kiện Louis thuật lại, tuyến thời gian hiện tại khi anh đang ngồi phỏng vấn với người phóng viên. Tôi cũng nghĩ rằng động cơ của hành vi kể chuyện sẽ được nhấn mạnh vì vô hình trung, hình thức phỏng vấn thường khiến người đọc tự đặt câu hỏi rằng tại sao nhân vật lại chấp nhận yêu cầu phỏng vấn. Có thể hiện tại Louis đang gặp vấn đề gì đó (anh bị truy đuổi, hoặc sức khỏe yếu đi…) buộc anh phải thuật lại tường tận câu chuyện đời mình cho thế giới con người biết; và khi đó, câu chuyện anh kể sẽ không được liền mạch, nó luôn bị ngắt quãng bởi các đợt tấn công từ những yếu tố ngoại tại hay nội tại (chẳng hạn như kẻ thù ập đến căn hộ ấy, những tràng ho bỗng dưng kéo dài vì một chất độc nào đó trong cơ thể…). Tuy nhiên, đã không có bất kì tình tiết tương tự nào xảy ra, câu chuyện được kể liền mạch như một dòng sông thuận hòa xuôi thẳng ra biển, chỉ thi thoảng rẽ nhánh đây đó vào hai ven bờ ở những đoạn Louis tạm nghỉ ngơi và có chút tương tác với phóng viên để câu chuyện này còn có vẻ như được kể dưới hình thức phỏng vấn. Nếu như phỏng vấn chỉ là cái cớ, là thứ xuất hiện ở điểm đầu tiên – cuối cùng và vài đoạn ở giữa, vậy thì tại sao ngay từ đầu Anne Rice không kể thẳng câu chuyện này dưới ngôi thứ nhất? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi nhớ lại vài chuyện, đồng thời cũng tìm được câu trả lời cho mình.

Tôi nhớ đến tác phẩm Trà Hoa Nữ (La Dame aux camélias) của Alexander Dumas và Lũ người quỷ ám (Demons) của Dostoevsky. Trong Trà Hoa Nữ, Dumas đã không trực tiếp bắt đầu câu chuyện bằng giọng kể ở ngôi thứ nhất của Armand dù rằng phần lớn câu chuyện rồi cũng sẽ được kể dưới góc nhìn của anh. Thay vào đó, ông đã chọn một nhân vật nam vô danh làm người kể chuyện để nhân vật ấy tìm đến Armand và người đọc được nghe câu chuyện từ ngôi thứ nhất của Armand kể cho nhân vật nam nghe – nhưng thực chất cũng là kể cho độc giả nghe. Trong Lũ người quỷ ám, Dostoevsky lại có cách xử lí hơi khác một chút. Câu chuyện gia đình bà Varvara được kể lại qua lời kể của ông Anton Lavrentyevich – một người bạn thân của Stepan Verkhovensky và ông Stepan Verkhovensky là tình nhân của bà Varvara. Câu chuyện Anton kể cho người đọc nghe về gia đình Varvara phần lớn là những chuyện do ông Stepan kể lại cho Anton nghe. Tuy câu chuyện có hiện diện người kể chuyện ở ngôi thứ nhất nhưng thực chất toàn bộ nội dung vẫn được kể ở ngôi thứ ba, Anton chỉ xuất hiện ở đầu-cuối truyện và một vài điểm ngừng nghỉ giữa các phần trong câu chuyện.

Tôi chưa đọc nhiều sách lí luận văn học để biết hiện tượng này gọi là gì, vậy nên trong bài viết này, tôi tạm chia ra: lối tường thuật sơ cấp (trực tiếp) và lối tường thuật thứ cấp (gián tiếp). Ở lối tường thuật sơ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc trực tiếp với nguồn kể chuyện, nó đồng thời cũng là nguồn đầu tiên, không bị lẫn qua công đoạn xử lí từ các nguồn trung gian, tựa như ta uống nước suối từ chính dòng suối chảy trong rừng, không phải uống nước suối trong chai đã qua công đoạn lọc của nhà máy. Ở lối tường thuật thứ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc gián tiếp với nguồn kể chuyện thông qua một hay nhiều trung gian; lối tường thuật này không hẳn làm cho chất liệu câu chuyện bị lọc bớt đi như nước suối trong chai nhưng khi tiếp cận với lối tường thuật này, một khoảng cách nhất định sẽ được thiết lập giữa độc giả và câu chuyện, người đọc ý thức được rằng nhân vật đang kể chuyện (hay ngôi thứ ba khách quan đang kể chuyện) không chỉ để cho mình biết mà trước nhất, cho một nhân vật khác trong câu chuyện được biết. Theo cách chia này, những câu chuyện chỉ sử dụng duy nhất một ngôi kể chuyện (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) xuyên suốt tác phẩm áp dụng lối tường thuật sơ cấp. Trong khi đó, những tác phẩm như Trà Hoa Nữ, hay Lũ người quỷ ám lại áp dụng lối tường thuật thứ cấp. Tuy vậy, lối tường thuật thứ cấp trong hai tác phẩm này, cũng như trong Phỏng vấn ma cà rồng không phải là sự đan xen liên tục giữa thứ cấp và sơ cấp, giữa nguồn trung gian và nguồn sơ khởi, giữa người kể chuyện và người trực tiếp trải nghiệm. Thực tế, những tác phẩm này vẫn được kể theo lối tường thuật sơ cấp, chúng chỉ có vỏ bọc là lối tường thuật thứ cấp ở vài điểm trọng yếu hoặc ngơi nghỉ trong tác phẩm. Đến đây, chúng ta quay về câu hỏi đầu tiên nhưng dưới cách diễn đạt khác: tại sao những câu chuyện này không được kể xuyên suốt theo lối tường thuật sơ cấp khi lối tường thuật thứ cấp chỉ như một lớp màn mỏng, phất phơ ở vài điểm nhỏ lẻ trong câu chuyện, khi mà bản thân câu chuyện cũng không hướng người đọc dành sự quan tâm đến nguồn thứ cấp – ở đây là người kể chuyện trung gian (nhân vật nam vô danh trong Trà Hoa Nữ, Anton Lavrentyevich trong Lũ người quỷ ám, phóng viên trong Phỏng vấn ma cà rồng), khi mà nguồn sơ cấp – ở đây là người trực tiếp trải nghiệm vẫn chiếm lĩnh vị trí chính yếu (Armand trong Trà Hoa Nữ, gia đình Varvara trong Lũ người quỷ ám, Louis trong Phỏng vấn ma cà rồng)?

Câu trả lời của tôi là: khoảng cách, độ lùi, sự bí ẩn.

Khoảng cách. Khi người đọc được tiếp xúc câu chuyện ở hình thức sơ cấp với vỏ bọc là thứ cấp, họ có một khoảng cách nhất định với nhân vật. Chính khoảng cách này tạo ra sự bí ẩn cho nhân vật, câu chuyện được kể.

Sự bí ẩn ấy khiến độc giả thấm thía hơn rằng có thể nhân vật vẫn còn nhiều góc khuất mà họ đã không kể ra cho nguồn thứ cấp biết, hoặc nguồn thứ cấp không kể lại cho độc giả biết. Đôi khi, cảm giác này sẽ đem lại chút kích thích theo kiểu trinh thám.

Độ lùi. Lối tường thuật thứ cấp chủ yếu hình thành dựa trên sự kể và kể lại. Chính vì vậy, nó thường không mang đến cảm giác trải nghiệm trực tiếp như lối tường thuật sơ cấp ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Một nhân vật có thể kể lại toàn bộ cuộc đời anh ta cho người khác nghe nghĩa là anh đã sống sót và vượt qua những biến cố khó khăn, hiểm nghèo. Sự thật hiển nhiên này khiến người đọc không mấy lo lắng cho nhân vật khi anh gặp nguy hiểm vì họ nhận thức rõ ràng đó là chuyện trong quá khứ được kể lại, đó không phải là thực tại. Nói cách khác, độ lùi trong lối tường thuật thứ cấp là tác nhân làm giảm đi kịch tính câu chuyện, nó dịch chuyển sự quan tâm của người đọc từ sự kiện sang phương thức, từ tâm trạng hồi hộp sang trầm tư sâu lắng.

Tôi nghĩ rằng cả ba tác phẩm Trà Hoa Nữ, Lũ người quỷ ám, Phỏng vấn ma cà rồng đều đã tận dụng được tốt từ hai đến ba đặc điểm tối ưu trong lối tường thuật thứ cấp mà tôi vừa nêu ở trên. Phỏng vấn ma cà rồng là tác phẩm được viết theo lối gothic, vậy nên việc tạo cảm giác về khoảng cách và sự bí ẩn là cần thiết; hơn nữa, bản thân ma cà rồng luôn là nhân vật dễ tạo ra/cần tạo ra cảm giác bí ẩn cho độc giả. Độ lùi cũng là thứ cần thiết trong tác phẩm này vì những gì Louis đã trải qua không quan trọng bằng việc anh nghĩ gì về nó.

Style

Sau khi đọc Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy, tôi đã giữ thói quen đọc lướt qua những bình luận của độc giả trên Goodreads. Lần này, với Phỏng vấn ma cà rồng, tôi tìm được một nhận xét khá hài hước, thú vị từ độc giả Daniel Marcos:

“I really wanted lo like this book, my hopes were high, because I LOVE vampire books and this is one of the most important, and it is without a doubt, the most boring one.
I hate Anne Rice’s writing, it makes me want to cut my veins.
Let me give you an example:

My keyboard is very beautiful, I like how the “Q” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Q” I also like how the “E” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “E” I also like how the “W” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “W” I also like how the “R” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “R” I also like how the “T” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “T” I also like how the “Y” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Y” I also like how the “U” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “U” I also like how the “I” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “I”.

Yes, it is THAT repetitive. The characters ramble and ramble and ramble and ramble about things that 1.- Do not make sense with the story 2.- Have been said a thousand times before 3.- Are beautiful, everything in this book is beautiful, the flowers are beautiful and she describes them for 7 pages, the windows is beautiful, the coin on the floor is beautiful, the moth documentary is beautiful…. it makes me want to kill myself.”

Tôi đã không ngăn được bản thân mình phì cười khi đọc nhận xét này. Các đánh giá một sao trên Goodreads bao giờ cũng hài hước. Dù vậy, tôi không đồng ý hoàn toàn với nhận xét trên. Đúng là Anne Rice miêu tả lặp đi lặp lại rất nhiều thứ trong tác phẩm này nhưng tôi không cảm thấy quá nhàm chán vì mỗi lần lặp lại, bà đều cố gắng miêu tả nó khác đi, nhìn nó dưới một góc cạnh khác (tuy không phải lần nào cũng khác nhau, song cũng tuyệt đối không phải là trùng lặp hoàn toàn). Có lẽ, với những người khác nhau, họ sẽ để ý những thứ khác nhau trong những điều bà hay lặp lại. Còn với tôi, tôi đặc biệt lưu ý đến cách bà miêu tả những ngọn lửa trong tác phẩm này. Nếu phải chọn một hình ảnh mang tính biểu tượng cho Phỏng vấn ma cà rồng, tôi sẽ chọn hình ảnh ngọn lửa bởi lẽ lửa đóng vai trò rất quan trọng trong câu chuyện này, nó góp mặt ở hầu hết những biến cố chính trong truyện. Trong vô số những thứ Anne Rice miêu tả trùng lặp, có lẽ sẽ sót lại đôi thứ quả thật là thừa, bỏ đi cũng không hề ảnh hưởng đến câu chuyện. Tuy nhiên, các miêu tả xoay quanh “lửa” tuyệt đối không nằm trong nhóm đó. Trích dẫn dưới đây là đoạn văn miêu tả lửa tôi thích nhất trong tác phẩm này:

“Một khúc gỗ đang rơi rất chậm xuống đống lửa, trượt xuống trong một chu trình sẽ mất cả đêm mới kết thúc được, và trên thân nó lỗ chỗ những vết rỗ, một thứ vật chất đã chọc xuyên qua đó và nhanh chóng cháy rụi, và trong mỗi lỗ nhỏ đó là một ngọn lửa tí hon nhảy múa, hòa mình vào ngọn lửa lớn hơn; những cái miệng đen của chúng dường như những khuôn mặt tạo thành một dàn hợp xướng; và dàn hợp xướng đang ngân nga mà không phát ra tiếng động. Dàn hợp xướng ấy không cần phải hát; chỉ bằng một hơi thở trong ngọn lửa bất tận, chúng đã tạo nên một bài ca thầm lặng của riêng chúng.”

Ban đầu, dù thấy đoạn miêu tả này hay nhưng tôi đã nghĩ nó hơi thừa. Về sau, tôi mới phát hiện đoạn miêu tả này chẳng thừa chút nào vì nó là set-up tinh tế cho những gì sắp diễn ra, nó là một điềm báo, một sự gợi nhắc khéo léo.

Tôi chưa đọc bản gốc nên không thể đưa ra nhận xét cá nhân về chất lượng bản dịch ở khía cạnh đúng sai. Tuy nhiên, nếu là cảm nhận mang hướng cảm tính khi đọc trên văn phong dịch sang tiếng Việt, tôi nghĩ rằng bản dịch của Hải Âu đã truyền tải được khá chính xác không khí cổ điển của thế kỉ 18, 19 – thời điểm câu chuyện diễn ra. Trước khi đọc tác phẩm này, tôi không tìm hiểu bất kì thông tin nào trên mạng nhưng trong quá trình đọc, văn phong dịch khiến tôi nhớ đến tác phẩm Biệt thự bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) của Nathaniel Hawthorne qua bản dịch của Việt Nam khảo dịch xã trước 1975. Đó là tác phẩm được xếp vào thể loại gothic, thời gian câu chuyện diễn ra cũng là ở thế kỉ 19. Để tìm câu trả lời lí giải cho cảm giác về sự giống nhau ở văn phong, không khí của hai tác phẩm này, tôi đã tra thông tin về Phỏng vấn ma cà rồng trên mạng. Và tôi không cần phải đọc nhiều, câu trả lời nằm ngay ở dòng đầu tiên: Phỏng vấn ma cà rồng là tiểu thuyết thuộc thể loại gothic horror. Thể loại này là sự kết hợp giữa hai đặc tính: lãng mạn và kinh dị; các câu chuyện thường diễn ra trong bối cảnh là những tòa lâu đài, biệt thự u ám, cổ kính. Có lẽ vì vậy mà phần lớn những đoạn miêu tả cảnh vật hay đồ vật trong Phỏng vấn ma cà rồng cũng như Biệt thự bảy đầu hồi đều có sự song hành giữa tính lãng mạn và tính kinh dị. Ở trên, tôi đã trích dẫn một đoạn miêu tả lửa trong Phỏng vấn ma cà rồng, dưới đây tôi sẽ ví dụ minh họa bằng một trích dẫn trong Biệt thự bảy đầu hồi:

“Còn về ngôi nhà cổ kính trong câu chuyện này, tất cả những đặc điểm của nó từ sườn nhà bằng gồi, vách ván, mái nhà và lớp hổ bị tróc, cho đến cả cái ống khối đồ sộ vĩ đại ở chính giữa, cũng chỉ có vẻ là phần nhỏ nhất của cái sự thực về ngôi nhà ấy. Biết bao kinh nghiệm của nhân loại đã qua tại đó, với bao đau khổ và cả đôi chút niềm vui khiến cho các tấm gỗ đều nhầy nhụa như thể bị nhiễm sự ẩm ướt của một trái tim. Chính đó là một trái tim lớn của con người, có sinh lực riêng biệt, đầy kỉ niệm dồi dào và bi đát.”

After credit

Ở đoạn kết của Phỏng vấn ma cà rồng, một lần nữa, ưu điểm bí ẩn – trinh thám trong lối tường thuật thứ cấp lại phát huy tác dụng. Phân đoạn kết thúc của tác phẩm này không hiểu sao lại khiến tôi nhớ đến những cảnh after credit trong các phim siêu anh hùng của Marvel. Ý tôi là, nó nhắc khéo khá rõ ràng rằng sẽ có phần tiếp theo nữa, các bạn đừng bỏ lỡ. Và quả thật, Anne Rice đã viết tiếp không chỉ một mà đến mười một phần tiếp theo trong tổng số mười hai phần của series The Vampire ChroniclesPhỏng vấn ma cà rồng chỉ mới là khởi đầu.

Hết.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng