Phía sau trang sách

Phía nam biên giới, phía tây mặt trời: Ranh giới mong manh giữa trái tim và lý trí, hiện thực và mộng tưởng

Chúng ta hiểu gì về thế giới này?
Chúng ta hiểu gì về cuộc đời này?
Và chúng ta hiểu gì về chúng ta?

Published

on

Phía nam biên giới, phía tây mặt trời kết thúc, tôi gấp những trang cuối cùng của cuốn sách lại, thoáng nhìn qua ô cửa sổ dài, thấy một nỗi buồn vừa đọng lại nơi mi mắt của mình, và hoàng hôn đã phảng phất ngoài kia, rực rỡ. Trong một khoảnh khắc mơ hồ nào đó, khi bản thân vẫn còn đang nhập nhằng sống giữa thực và hư, giữa đời và mộng tưởng, tôi thấy mình tựa như một áng mây, trôi bãng lãng, bâng quơ ngang qua bầu trời rộng lớn, hay đang ngang qua một kiếp sống cô độc. Thảng hoặc, tôi nhìn lại, thấy xung quanh mình sao lắm nỗi cô đơn, và những muộn phiền cùng khổ đau đến từ trái tim đã chẳng còn non trẻ cứ đầy rẫy ra đó. Tôi muốn khóc, như là khóc cho chính mình, như là khóc cho người, hoặc là khóc cho tất cả những ai đang tồn tại giữa cuộc đời này, một cách cô độc. À, trong đó có cả Hajime.

Hajime, ôi cái gã trai bao lần cứ hoang hoải trong chính cuộc đời của mình, từ khi còn là một đứa trẻ cho đến khi đã lập gia đình, từ khi trái tim còn non dại nghĩ suy cho đến khi muộn phiền đã ngủ ngầm và chất chứa trong tim. Chẳng hiểu sao khi đọc cuốn sách này, tôi lại thấy Hajime thật là đáng thương, dẫu gã đã có những hành động và suy nghĩ khác biệt mà tôi vẫn luôn cho đó là sai lầm. Tôi cảm giác như Hajime là một con người cô độc, cực kì cô độc. Hajime lớn lên trong một gia đình chỉ có duy nhất một đứa con. Hajime chẳng có nhiều bạn. Người bạn thân thiết thời thơ ấu của Hajime là Shimamoto cũng là con một, và cô ấy cũng chẳng có bạn bè. Cảm giác như những kẻ cô đơn sẽ có cùng một từ trường thu hút, để tìm về, để gắn kết, để thấu hiểu và để sẻ chia. Rồi từ thuở ấu thơ, Hajime bắt đầu lớn dần lên. Cuộc sống của anh cũng chẳng có bất cứ điều gì là đặc sắc. Công việc của anh khô khan như cái cách mà anh đang sống. Mọi thứ đều tẻ nhạt, nhàm chán, vô vị và buồn bã đến mức ngày tháng trôi qua chẳng có lấy một niềm vui chân chính. Nhưng khoan, suy cho cùng, làm gì có một niềm vui chân chính nào trên cõi đời này? Vì mọi thứ đều chỉ là giả tạm. Vì mọi thứ đều chỉ là thoáng qua. Như cơn mưa thấm nhạt vào đất. Rồi bốc hơi, và biến mất.

Vì mọi thứ đều chỉ là giả tạm. Vì mọi thứ đều chỉ là thoáng qua. Như cơn mưa thấm nhạt vào đất. Rồi bốc hơi, và biến mất.

Rồi Hajime kết hôn. Ngoảnh đầu nhìn lại, anh đã đi qua một quãng đời rất dài. Bầu trời vẫn dài rộng và cuộc đời vẫn che đậy những biến số ngỡ ngàng. Hajime có một mái ấm gia đình hạnh phúc với Yukiko cùng những đứa con nhỏ. Ai cũng mong ước, ai cũng ghen tị với cuộc sống của anh. Vợ hiền, con ngoan, việc kinh doanh ổn định, cuộc sống dư dả thoải mái, được làm điều mình thích… Như có một phép màu đã mang điều may mắn đến với cuộc đời của Hajime, anh dần thoát khỏi những vô vị của quá khứ và rẽ sang một trang mới diệu kì. Tưởng chừng như sau khi kết hôn rồi, Hajime sẽ không còn thấy cô đơn nữa. Thế nhưng, nỗi cô đơn cứ bám víu lấy cuộc đời anh một cách lạ kì. Và dù cho hiểu rất rõ về nó, anh vẫn không khi nào có thể rời khỏi nó. Anh luôn cô đơn, anh luôn hoang hoải. Anh luôn thấy bản thân mình như ngạt thở và những ngổn ngang ẩn giấu tiềm tàng trong lòng anh cứ trỗi dậy một cách âm ỉ và mãnh liệt như từng đợt sóng. Anh vẫn chưa thấy hài lòng với cuộc sống của mình. Anh luôn muốn tìm kiếm một lí tưởng nào đó. Một tia hi vọng nào đó. Một niềm hạnh phúc nào đó, mà anh luôn cho là nó giản đơn hơn, nó chân thành hơn, và nó khiến cho anh được sống, dẫu chỉ là sống trong một khoảnh khắc bé nhỏ, rồi phải tan đi…

Vậy cái niềm hạnh phúc mà anh luôn tìm kiếm là gì? Là Shimamoto, người con gái đầu tiên khiến cho anh hiểu được những xúc cảm của tình yêu. Nó không phải là một thứ tình cảm đơn thuần. Nó là kỉ niệm. Nó là điều thiêng liêng. Nó là những khát khao và chờ đợi của Hajime suốt cả một cuộc đời. Vì sao Hajime luôn nhắc nhở và chờ đợi Shimamoto, khi anh đã có gia đình, khi cô đã không còn cạnh kề bên anh nữa, khi thời gian đã ngang qua nhuốm màu kí ức và xô đẩy bao phận người trôi dạt về từng bờ bến khác nhau? Phải chăng “con người ta luôn mơ ước về mối tình đầu?”, vì đó chính là thứ đẹp đẽ và đáng nhớ nhất? Hoặc phải chăng, vì chưa có được một cách tròn vẹn nên người ta cứ luôn khao khát. Một cách mù quáng. Một cách bất chấp. Một cách mờ mịt và tối tăm.

Tôi gọi Hajime là một gã đáng thương là vì sao? Vì gã có rất là nhiều sai lầm. Sai lầm này nối tiếp sai lầm kia. Gã đã bao lần khiến cho những cô gái yêu thương gã phải khổ đau và tổn thương một cách sâu sắc. Gã biết điều đó. Gã hiểu điều đó. Gã luôn ý thức được những việc gã làm. Thế nhưng, gã cho đó là một điều bình thường. “Mình không thể chỉ gặp gỡ cô gái này bình thường như thế này được, nếu không mình sẽ phải hối tiếc cả đời.”, gã tự nhủ. Khi hẹn hò với Izumi, gã lại nhẫn tâm làm tình với chị họ của cô. Khi đã có Yukiko làm vợ, gã vẫn lừa dối cô để qua lại với Shimamoto. Những lời nói dối, những sự lừa lọc… gã có thấy mệt mỏi không. Có bao giờ gã cảm thấy hổ thẹn và xấu hổ với chính bản thân mình. Chắc chỉ có gã biết điều đó! Nhưng tôi không trách gã và oán gã. Vì như đã nói, gã luôn đáng thương. Bởi đôi khi người ta sẽ chẳng thể nào biết được đâu là đúng là sai, là nên làm và không nên làm. Cái tâm thèm khát và chứa đầy dục vọng bao giờ cũng chạy nhanh hơn lí trí, và để có thể thấu hiểu và kiểm soát được cái tâm ô uế đấy lại mất cả một thời gian dài, có khi là trải qua hàng vạn cuộc đời. Tôi mong, nếu như Hajime là một nhân vật có thật trên cuộc đời này, hoặc nếu có bất kì ai đang sống một cuộc đời giống như Hajime, thì họ sẽ hiểu được tâm trí của mình. Với tôi, đó luôn là một điều quan trọng. Hãy thử một lần ngồi lại và lắng nghe tâm trí, rồi ta sẽ thấy nó ô nhiễm và đầy rẫy dục vọng như thế nào. Nghĩ đến thôi, tôi bỗng thấy sợ hãi…

Cái tâm thèm khát và chứa đầy dục vọng bao giờ cũng chạy nhanh hơn lí trí, và để có thể thấu hiểu và kiểm soát được cái tâm ô uế đấy lại mất cả một thời gian dài, có khi là trải qua hàng vạn cuộc đời.

Và khi đặt cuộc đời đáng thương của Hajime vào cuộc đời của những cô gái khác, tôi lại thấy những con người ấy đều vô cùng tội nghiệp giống như nhau. Họ gặp gỡ nhau, họ trôi vào nhau và tìm đến nhau bằng một sợi dây liên kết nào đó. Họ có với nhau những năm tháng đầy kỉ niệm. Họ cho nhau hạnh phúc, rồi họ làm tổn thương nhau, không bằng cách này thì bằng cách khác. Xem ra, ai cũng đau khổ, ai cũng muộn phiền, ai cũng mệt mỏi và khốn cùng với những câu chuyện dông dài trôi dạt biết bao là thế kỉ. Nhưng chẳng ai can tâm từ bỏ, bởi có lẽ tình yêu là một thứ ma thuật lạ kì, khiến con người ta dù biết đau khổ vẫn cứ đâm đầu vào.

“Em không trách gì anh hết. Khi người ta bắt đầu yêu một người, thì là như thế đấy, không thể làm gì cả. Người ta yêu người mà người ta yêu. Em không đủ cho anh, chỉ vậy thôi… Chính vì thế mà em không trách anh đã yêu một người khác. Thật là lạ, điều đó không còn làm em tức tối. Chỉ rất nặng nề để chịu đựng thôi. Vô cùng nặng nề…”, Yukiko.

“Lẽ ra em không nên gặp lại anh. Em đã biết điều đó ngay từ đầu. Lẽ ra em nên để mọi chuyện nguyên xi như thế. Dĩ nhiên, em đã không ngăn nổi mình. Em chỉ muốn nhìn thấy anh và ngay sau đó đi khỏi ngay lập tức. Nhưng, tất nhiên, khi đã nhìn thấy anh, em lại không sao quyết định đi khỏi được nữa…”, Shimamoto.

Hajime yêu Shimamoto. Hajime yêu Izumi. Hajime yêu Yukiko. Và còn có khá nhiều những cô gái không tên khác nữa. Rồi tình yêu. Rồi dục vọng. Rồi nhập nhằng ranh giới giữa lí trí và trái tim. Ngay cả Shimamoto – khi đã qua đi rất nhiều năm tháng dài, vẫn muốn được qua lại với Hajime để khỏa lấp nỗi trống hoắc trong lòng. Họ tìm đến nhau. Họ vụng trộm. Họ bừng lên những suy nghĩ chạy trốn. Họ muốn được giải thoát khỏi cuộc sống này. Họ muốn được tan biến. Họ muốn được rã rời. Sao cũng được, dẫu là cái chết, chỉ cần họ được là của nhau, tan vào nhau, bất tận. Khi cảm xúc đã lấn át lí trí, con người ta khó có thể kiềm chế lại được những gì đang diễn ra trong cuộc sống của mình. Đáng thương, thật sự. Rồi những ngây thơ chân thành đầy thuần khiết của Izumi dành cho Hajime, rồi tình yêu chung thủy đầy sự tha thứ và bao dung của Yukiko dành cho Hajime, tất cả đều chỉ đánh đổi bằng khổ đau và nước mắt. Hajime có lẽ chính là gã đàn ông may mắn khi lúc nào cũng được những người phụ nữ yêu thương hết lòng, chờ đợi, tha thứ và hi sinh. Dẫu là ai đi nữa thì họ cũng đều có chung một đặc điểm, đó là đau khổ vì tình yêu. Vậy họ không đáng thương thì là gì?

Tôi mãi nhớ hoài cảnh tượng vào một ngày buồn đến thê lương, khi Hajime chở Shimamoto trên chuyến xe về lại thành phố của những nỗi buồn, khi trong lòng của cả hai đều ngổn ngang cảm xúc, họ khởi lên trong tâm những ý nghĩ lạ kì. Hay là mình bỏ hết tất cả để theo đuổi hạnh phúc trước mặt này. Hay là mình mặc kệ những điều bàn tán ở sau lưng. Hay là mình chạy trốn. Hay là mình giải thoát nhau để cả hai đều được vẹn tròn hạnh phúc, dẫu chiếc xe kia có tan biến vào hư không, thân xác của nhau có rã rời thành tro bụi. Chỉ cần được ở cạnh bên nhau. Chỉ cần được hòa quyện vào nhau, ngay khoảnh khắc này, khi mà tình yêu rực cháy trong lồng ngực. Cảnh tượng ấy buồn lắm. Câu chuyện ấy buồn lắm. Sao lại nhiều phiền muộn đến thế này. Tôi tự nghĩ, và tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời.

Chỉ là thấy thương một Hajime khổ tâm giữa những sự lựa chọn sai trái.

Chỉ là thấy thương Shimamoto khờ dại với trái tim đầy lầm lỗi.

Chỉ là thấy thương Yukiko vẫn thiết tha chân thành tin tưởng người chồng mình hết mực yêu.

Nhưng họ có làm gì khác được đâu. Số phận đã đặt lên mỗi con người những câu chuyện như thế. Họ chẳng thể nào trốn chạy nữa rồi. Đã đến lúc họ nhìn nhận lại chính mình, và đối diện, và can đảm để vượt qua…

Vẫn như những tác phẩm khác của Haruki Murakami, cốt truyện chưa bao giờ là một điều đặc sắc và độc đáo trong Phía nam biên giới, phía tây mặt trời. Mọi diễn biến trong truyện đều chầm chậm và lả lướt như một thước phim quay chậm, băng ngang qua cuộc đời của Hajime một cách khẽ khàng. Cuộc đời ấy chẳng có gì ngoài những người bạn gái, ngoài tình yêu, tình dục, sai lầm và tâm tư suy nghĩ. Thế nhưng, điều nổi bật ở đây chính là, khi nhìn vào những giản đơn tiểu tiết ấy, ta lại thấy cả một thế giới rộng mở trước mặt mình: thế giới nội tâm. Thật hay khi mà những hình ảnh giản đơn trong truyện lại hiện ra rất hài hòa cùng vơi những phân đoạn cảm xúc của nội tâm nhân vật. Khi những kẻ cô đơn cùng buồn bã, âm thanh của những bản nhạc jazz sẽ lên tiếng. Trước khi ai đó muốn nói một điều gì đó, những cuốn sách sẽ xuất hiện. Trước khi có một lỗi lầm xuất hiện, những ly cocktail và rượu sẽ là chất xúc tác để điều đó xảy ra. Tôi vẫn luôn cho rằng Haruki Murakami chính là một nhà văn tài ba khi có khả năng dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh phân tích và miêu tả tâm lí nhân vật rất tốt. Các nhân vật không hề bộc lộ những điều đó rõ ràng, nhưng người đọc lại vô tình hóa thân thành các nhân vật ấy và bước chân vào hành trình khám phá những khắc khoải suy nghĩ thường tình kia. Cũng chẳng cần một phương tiện gì xa vời và lạ lẫm, hãy cứ gạt bỏ mọi suy nghĩ và phán xét khi đọc văn của Haruki Murakami đi, vì sự đồng cảm đã làm tốt mọi thứ rồi, tôi vẫn tin.

Có một câu mà tôi rất thích trong cuốn sách này, đó chính là những dòng cuối cùng, khi cuốn sách khép lại, là lời tự tình của Hajime, trong một buổi sáng đầu ngày vắng lặng giữa hơi mây lãng đãng trôi ngang qua khu nghĩa trang Aoyama. “Ở tận sâu trong bóng tối đó, tôi nghĩ đến mặt biển dưới cơn mưa. Trời mưa không tiếng động trên đại dương rộng lớn, mà không ai biết cả. Những giọt nước đập lên mặt nước im lặng, và ngay cả những con cá cũng không có chút ý thức nào về điều đó…”. Với tôi, khung cảnh ấy đẹp lắm, tôi có thể tưởng tượng ra được điều đó. Nó giống như một lời thức tỉnh. Phải chăng rằng vẫn luôn có những giông bão đang chực chờ nổi dậy giữa mặt biển yên bình tĩnh lặng. Hãy cứ chuẩn bị sẵn sàng và đón nhận hết tất cả vào lòng, dù là chuyện gì đi chăng nữa. Rồi cũng sẽ qua, sẽ qua thôi. Cuộc đời này vốn vô thường, kể cả niềm vui, kể cả nỗi buồn. Rồi ta lại quay về với những ngổn ngang trong lòng mình. Ta lại hoang mang chẳng biết có một biên giới nào không ở phía nam kia, và có một mặt trời nào không đang sống giữa bến bờ phía tây.

Và chúng ta là ai?

Và cuộc đời này là gì?

Và thế giới này ra sao?

Bất chợt, một giai điệu nào đó văng vẳng trong đầu tôi những ca từ quen thuộc.

Pretend you’re happy when you’re blue

It isn’t very hard to do…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng