Trà chiều

Ngọn lửa của tôi

Published

on

Ngọn lửa. Ngọn lửa. Ngọn lửa.

Đột nhiên tôi chẳng nghĩ được điều gì ngoài hình ảnh đó. Hay là trong đầu tôi có nhiều suy nghĩ về những sự vụ khác nhau nhưng xét theo tần suất xuất hiện thì hình ảnh đó lặp đi lặp lại nhiều lần. Thế là tôi vớ đại nó theo cơ chế ngẫu nhiên. Ờ, ngẫu nhiên mà thôi. Đáng lẽ tôi phải suy nghĩ một hình ảnh nào đó nghiêm túc hơn chẳng hạn, có tính toán và ý đồ hơn chẳng hạn. Dù gì hôm nay cũng là sinh nhật tôi, dù gì tôi cũng muốn viết một cái gì đó cho hôm nay, dù gì tôi cũng muốn nó phải là thứ gì đó có ý nghĩa, dù gì nó cũng là một cái cột mốc 20 năm, dù gì… Khi suy nghĩ về tất cả những cái dù gì đó, sự bội thực vì cái dù gì đó… tôi lại nhận thấy dường như chẳng có gì là quan trọng cả. Thật kì lạ. Cách vài phút, à không, cách đây vài giờ, vài ngày, vài tháng trước, vài năm trước, vài những giờ khắc mà tôi không còn nhớ nó hoạt động ra sao, tôi đã từng nghĩ rằng có nhiều thứ quan trọng và mình đã xác quyết được thứ quan trọng đó. Nhưng rồi đột nhiên tất cả giống như một khoảnh khắc những đám mây che hờ hờ xung quanh bầu trời vụt tan biến mất, và một luồng ánh sáng xung quanh chói lóa, mọi thứ xóa nhòa trong ánh nắng đó, mọi vật chìm lấp trong khoảng sáng đó, không cái gì được nhìn rõ nữa. Khoảnh khắc đó nhanh thôi. Nhưng có thật. Và thế là tôi quên mất thứ quan trọng với mình là gì. Giống như nó đã chìm đi cùng cơn sáng đó. Hay là giống như nó vốn thể là thứ ngay từ đầu đã chẳng tồn tại.

Đâu phải chỉ trong bóng đêm mọi thứ mới biến mất. Ánh sáng cũng là một thứ hủy diệt những tồn lưu của các sự vật/sự vụ chung quanh nó một cách ghê gớm. Mà thật ra, sự tiêu hủy của ánh sáng còn kinh khủng hơn là bóng đêm. Đơn giản vì khi một thứ nào đó biến mất trong bóng tối, người ta còn có thể dùng ánh sáng để tìm lại nó được. Nhưng một thứ biến mất trong ánh sáng thì không thể lấy một thứ sáng hơn mà thắp lên tìm nó. Theo cơ chế suy luận nghịch thì đơn giản là người ta có thể lấy một thứ tối hơn mà đốt lên. Đốt, đốt, đốt. Đốt cái thứ tối ấy lên để tìm vật đã mất. Nhưng không ai đốt lên cả. Không phải vì chất tối để đốt cháy không tồn tại. Đơn thuần là vì nếu có một người nào đó đốt chất tối lên để tìm kiếm, họ sẽ lập tức bị đám đông dị nghị. Nó là một cách khác của sự thừa nhận rằng: “Tôi có mang bóng tối trong mình”. Mà ở thế giới này, dường như chẳng có ai dám thừa nhận điều đó. Thế nên mọi người để những thứ mình đã mất chìm trong ánh sáng, ánh sáng của những điều đẹp đẽ nhưng làm người ta mê mị, ngu muội, ánh sáng của những tầng không vốn chứa trong nó sự giả dối. Vậy cái gì là thật đây?

Ờ. Đại loại thì tôi nhẫn tâm, độc ác. Chẳng ai ném thẳng những lời đó cho tôi như nàng. Nàng cho tôi cái chất có thế đốt lên bóng tối ấy. Chỉ có nàng là nhận ra sự ác độc của tôi. Hoặc giả mọi người cũng nhận ra nhưng họ không nói. Và như thế, tôi yêu nàng. Nàng đã nhận ra bản chất của tôi.

Sao nhỉ? Sao nhỉ? Sao nhỉ?

Đại loại khi viết những câu hỏi đó, trong lòng tôi thực sự chẳng nghi vấn điều gì cả. Nó chỉ là những tiếng đệm vô nghĩa. Nó giống như một trạm dừng chân cho sự hụt hơi của tôi trong việc đuổi bắt suy nghĩ của mình. Khi viết nghiêm túc, tôi viết rất chậm. Tôi đánh mất thói quen viết nhanh đã từ lâu. Tôi làm mọi thứ trong sự chậm rãi của mình. Đôi lúc, sự chậm rãi đó khiến chính bản thân tôi phát bực. Tôi vừa muốn ở trong sự chậm đó. Nó có thú vị của riêng nó. Đồng thời tôi vừa muốn thoát khỏi nó. Vậy nên khi xác định không phải viết một cái gì đó nghiêm túc, một cái gì đó chỉ viết để thỏa hiệp với khao khát muốn viết đơn thuần giữa đôi tay và tâm thức thì tôi sẽ viết nhanh. Viết để đạt được sự đồng thuận cho bản thân thì không nên viết chậm tự hành hạ mình nữa làm gì. À, cái trạm dừng chân của tôi. Chắc là tôi đã nghỉ ngơi ở đó xong rồi. Nãy giờ là bao nhiêu phút nhỉ?

Phút à. Cái đồng hồ của tôi đã biến mất trên tay tôi ngày hôm nay. Nó nằm trong phòng thi của kì tuyển sinh cao đẳng. Có lẽ nó lướt qua một vài thí sinh, rồi lướt qua một vài hạt bụi. Bụi màu trắng, vàng, đỏ gì đó… trên nền bảng trắng, đen, xanh gì đó… để ghi. Ghi chính cái trạng thái đang hiển hiện của nó. À, đơn giản là em gái tôi mượn tôi đồng hồ để đi coi thi thôi mà. Nhưng cảm giác hôm nay lạ nhỉ. Tôi không đeo đồng hồ một ngày và nhận thấy sự lệ thuộc của mình vào nó. Tôi cứ liếc vào khoảng da sáng trên cổ tay của mình – nơi mà đáng lẽ thường khi vẫn có chiếc đồng hồ ở đó. Màu nâu, lớp kính mặt trước đã bị nứt vỡ, vòng tròn để giữ dây thì bị đứt và mất đi, bản thân sợi dây cũng nhàu nhĩ, những lỗ trên dây thì tưa ra, thành một khoảng trống lớn hơn sự tồn tại vốn có của nó ban đầu. May quá. Chiếc kim vẫn chạy. Thế giới vẫn xoay tròn trong đó. Và hôm nay nó tạm nghỉ việc trên tay tôi. Tay tôi cảm thấy trống. Cứ như thể là cái đồng hồ ấy đã truyền cả chức năng của nó cho cái tay. Cái tay bé mọn lại. Cái tay có thể làm nhiều chức năng hơn viết, cầm nắm một thứ gì đó, một điều gì đó, một cơn điên loạn nào đó, và làm vụt mất một điều gì đó. Nhưng mất một điểm tựa, mất thời gian, nó như chỉ còn mỗi chức năng là có ở đó để được cái đồng hồ quấn quanh. Cái tay tôi hôm nay sao ấy nhỉ. Sao tự nhiên nó lại có cái suy nghĩ thật ra nó chỉ là một thứ để đặt bên cạnh đồng hồ. Cái tay có trước mà. Nhưng đồng hồ là thời gian. Và thời gian thì có trước cái tay. Hay là cái tay có trước thời gian. Thời gian vô nghĩa. Và dường như khi đánh mất ý nghĩa của nó, mọi thứ cũng vô nghĩa. Nghĩa là… nghĩa là… con người ta cần một điểm tựa. Nhưng thời gian thì không cần họ. Nó giống như một đồng minh lúc thì đồng thuận, lúc thì phản nghịch. Không phải lúc nào thời gian cũng đứng về phía con người. Việc đặt ra những cột mốc giúp người ta làm việc, nhưng thật ra đôi lúc việc hạn định những cột mốc đó làm người ta lại khó kiểm soát bản thân hơn, phải làm những thứ mà não trạng đã hoạch địch trong đầu. Đại loại thì vào thời điểm đó phải làm những việc đó, vào khoảng thời gian nào đó trong ngày, tôi phải làm việc này, việc kia. Tôi không thể làm việc đó cho đến khi… Đại khái thì không thể muốn là hành động. Mà thật ra việc có thể muốn rồi làm bất cứ lúc nào cũng không phải là thứ quan trọng. Đại loại người ta sống trong nó và cố gắng hòa nhập với nó hay vờ như hòa nhập với nó chứ không phải bản chất vốn là hòa nhập và hòa nhập với thời gian. Đại loại, đại loại vậy.

Năm ngoái. À không. Lâu lắm rồi. Năm kia. Không. Chưa tới. Kia nữa. Là cách đây mấy sự kia kia của năm. Đại loại, cột mốc thì không còn quan trọng nữa. A! Tôi mới phát hiện ra hôm nay mình thích chữ đại loại. Nó biểu hiện một sự vừa thỏa hiệp mà vừa không thỏa hiệp thì phải. Đã đồng thuận rồi đó nhưng còn phải xét thêm. Là chữ mang tính chất trung tính và hơi vô trách nhiệm. A ha, nó còn là chữ chứa trong mình sự mâu thuẫn nữa chứ. Nói chung là thích đó.

Quay lại với cái kia kia. Sao nhỉ? (Ồ, giờ thì tôi thấy là hôm nay mình cũng thích chữ sao nhỉ rồi). Ờ thì vào thời điểm của cái kia kia. Sự tàn nhẫn của tôi bộc lộ rõ. Tại sao tôi lại ghi nhớ nó và cứ lặp đi lặp lại mãi. Khoảng thời gian đó tôi cứ muốn đọc sách. Tôi cứ muốn có một luồng suy nghĩ chạy qua đầu mình để mình đỡ phải mất công suy nghĩ, hoài nghi, tự vấn… vân vân và vân vân  các công đoạn tư duy của nó. Và khoảng thời gian đó thì ông ngoại tôi bị bệnh. Điều tàn nhẫn nhất là hôm đó, khi nghe kết quả về bệnh của ông, mọi người trong nhà lo lắng. Chị tôi đã khóc khi biết bệnh của ông không còn phương cách nào cứu chữa. Hôm đó, tôi vẫn đang ngồi nhà đọc sách. Khoảng thời gian đó không hiểu sao tôi lại thích ngồi trong cửa phòng bấm chốt, tách ly với mọi thứ ngoài kia và đọc, không muốn bị ai làm phiền, kể cả là người nhà, kể cả là bất cứ thứ tin tức nào. Chị tôi gõ cửa. Phải gõ cửa nhiều lần tôi mới ra mở. Đơn thuần là tôi đang đọc dở một trang. Tôi còn một hai đoạn. Tôi còn một hai dòng. Tôi còn một vài chữ. Tôi phải đọc cho hết trọn một trang hay trọn một ý. Rồi tôi đánh dấu trang lại bằng một kẹp sách. Gấp cuốn sách lại và ra phòng mở cửa cho chị. Tôi làm tất cả các công đoạn đó một cách qui củ từng bước từng bước một với cái sự không có một điều gì có thể hối thúc tôi trong đầu. Chị tôi khóc rồi trách tôi vì sao không khóc, rồi trách tôi không khóc cũng được nhưng sao không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào cũng được nhưng sao có thể để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, đề lộ cái vẻ mặt bình thản như thế cũng được nhưng sao có thể giờ phút này mà vẫn còn tâm trí mà đọc sách, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, giờ phút này mà vẫn còn tâm trí đọc sách cũng được nhưng sao có thể vẫn chú tâm để làm một việc gì đó ngoài sự lo lắng chung của mọi người…Tại sao và tại sao? Tại sao hồi đó lại như thế? Tại sao tôi cứ muốn phải lặp lại những điều này, những chi tiết này? Chính tôi cũng không biết. “Cái gì được lặp lại nhiều lần nghĩa là cái đó là thứ thật sự quan trọng với mình,” nàng nói với tôi như thế.

Hôm nay cũng là một ngày tương tự như vậy nhưng mức độ nhẹ hơn. Tôi không ngờ và cũng không muốn cái cảm giác cách đây ba năm đó lặp lại, vào chính ngày này. Không có điều gì là giống nhau, mọi việc sẽ khác đi. Sẽ khác đi. Nếu nó trở thành một điều gì đó kinh khủng hơn, tôi chỉ mong một cơ chế nào đó bòn rút sức khỏe và nguồn sống của mình chia bớt cho mẹ. Tôi không muốn mình nhẫn tâm một cách vô trách nhiệm như thế nữa. Sự nhẫn tâm cũng là thứ cần phải có trách nhiệm.

Tôi không khóc.

Khi ông ngoại mất. Khi nhiều điều cứ lần lượt trôi tuột khỏi tay tôi, mọi thứ tình cảm, con người, những thứ mà tôi đặt cho nó cái tên quan trọng…

Vậy mà tôi lại khóc vì nàng, khóc khi nghe nàng nói có thể vứt bỏ tôi một cách dễ dàng, tôi chẳng là gì quan trọng với nàng cả. Tại sao vậy nhỉ? Tôi sợ mất nàng đến như thế ư? Tôi quen với cảm giác mất mát rồi mà. Có những lúc càng mất mát tôi càng thấy hưng phấn. Giống như cách người ta mang balô, đi đường trường rồi trên đường đi mệt mỏi quá mà cứ dần bỏ bớt những thứ mình mang theo để đi nhẹ nhàng hơn. Đó cũng là thứ mất mát làm người ta buồn, không, rất đau. Đôi lúc người ta cố làm cho mình trống đi mà, đôi lúc sự trống đi là cần thiết mà.

Sao nhỉ…
Tôi mâu thuẫn quá.
Nhưng, tôi yêu nàng. Tôi muốn thét lớn lên điều đó. Đó có phải là điều quan trọng không?

Tôi yêu cái cách nàng ngủ. Thi thoảng trán nàng lại nhăn như đang suy nghĩ, trông khuôn mặt của nàng lúc đó rất khó chịu. Có khi lại gợi cho tôi cảm giác hoang mang từ đôi mắt đang nhắm ấy. Tôi yêu cái cách những ngón tay nàng còn đập vào nhau trong lúc ngủ. Tôi yêu hơi thở nhè nhẹ đó. Yêu nó ấm nóng, phả vào ngực tôi đều đặn. Để tôi biết sự tồn tại của nàng. Nàng đang ở ngay đây, bên cạnh tôi. Và tôi sợ nàng biến mất.

Một đôi lúc tôi thoáng nghĩ, dường như tất cả những việc tôi làm ở tuổi 20, hay là cả ở những tuổi trước đó, tất cả đều nằm trong chuỗi nguyên nhân để dẫn đến việc tôi có thể gặp nàng, tôi được nàng yêu. Tôi yêu nàng. Và tôi biết nàng cũng yêu tôi. Điều đó khiến tôi hạnh phúc. Hạnh phúc kinh khủng. Nó là một cái gì đó thật tuyệt vời. Nàng như một ngọn lửa với tôi. Đôi lúc, tôi ôm nàng, tôi ở bên nàng mà cái tiếng nói trong đầu tôi: hãy đốt cháy tôi đi, đốt cháy tôi đi, làm cho tôi nổi loạn, tôi cười, tôi vui, tôi khóc, tôi buồn, tôi đi đứng, tôi chạy nhảy, tôi viết, tôi làm điều này điều kia, tôi chứng kiến sự vụ này sự vụ nọ với một cái gì đó nóng khủng khiếp, cái nóng của sự tiêu hủy và muốn phá hoại đi tất cả. Hãy cứ làm tôi đau. Chẳng sao cả. Vì tôi yêu em.

Ngọn lửa.
Nó là thứ tiêu hủy.
Nhưng đồng thời cũng là thứ mang lại ánh sáng.

Fretto Frek

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng