Trà chiều

Ngọn lửa của tôi

Published

on

Ngọn lửa. Ngọn lửa. Ngọn lửa.

Đột nhiên tôi chẳng nghĩ được điều gì ngoài hình ảnh đó. Hay là trong đầu tôi có nhiều suy nghĩ về những sự vụ khác nhau nhưng xét theo tần suất xuất hiện thì hình ảnh đó lặp đi lặp lại nhiều lần. Thế là tôi vớ đại nó theo cơ chế ngẫu nhiên. Ờ, ngẫu nhiên mà thôi. Đáng lẽ tôi phải suy nghĩ một hình ảnh nào đó nghiêm túc hơn chẳng hạn, có tính toán và ý đồ hơn chẳng hạn. Dù gì hôm nay cũng là sinh nhật tôi, dù gì tôi cũng muốn viết một cái gì đó cho hôm nay, dù gì tôi cũng muốn nó phải là thứ gì đó có ý nghĩa, dù gì nó cũng là một cái cột mốc 20 năm, dù gì… Khi suy nghĩ về tất cả những cái dù gì đó, sự bội thực vì cái dù gì đó… tôi lại nhận thấy dường như chẳng có gì là quan trọng cả. Thật kì lạ. Cách vài phút, à không, cách đây vài giờ, vài ngày, vài tháng trước, vài năm trước, vài những giờ khắc mà tôi không còn nhớ nó hoạt động ra sao, tôi đã từng nghĩ rằng có nhiều thứ quan trọng và mình đã xác quyết được thứ quan trọng đó. Nhưng rồi đột nhiên tất cả giống như một khoảnh khắc những đám mây che hờ hờ xung quanh bầu trời vụt tan biến mất, và một luồng ánh sáng xung quanh chói lóa, mọi thứ xóa nhòa trong ánh nắng đó, mọi vật chìm lấp trong khoảng sáng đó, không cái gì được nhìn rõ nữa. Khoảnh khắc đó nhanh thôi. Nhưng có thật. Và thế là tôi quên mất thứ quan trọng với mình là gì. Giống như nó đã chìm đi cùng cơn sáng đó. Hay là giống như nó vốn thể là thứ ngay từ đầu đã chẳng tồn tại.

Đâu phải chỉ trong bóng đêm mọi thứ mới biến mất. Ánh sáng cũng là một thứ hủy diệt những tồn lưu của các sự vật/sự vụ chung quanh nó một cách ghê gớm. Mà thật ra, sự tiêu hủy của ánh sáng còn kinh khủng hơn là bóng đêm. Đơn giản vì khi một thứ nào đó biến mất trong bóng tối, người ta còn có thể dùng ánh sáng để tìm lại nó được. Nhưng một thứ biến mất trong ánh sáng thì không thể lấy một thứ sáng hơn mà thắp lên tìm nó. Theo cơ chế suy luận nghịch thì đơn giản là người ta có thể lấy một thứ tối hơn mà đốt lên. Đốt, đốt, đốt. Đốt cái thứ tối ấy lên để tìm vật đã mất. Nhưng không ai đốt lên cả. Không phải vì chất tối để đốt cháy không tồn tại. Đơn thuần là vì nếu có một người nào đó đốt chất tối lên để tìm kiếm, họ sẽ lập tức bị đám đông dị nghị. Nó là một cách khác của sự thừa nhận rằng: “Tôi có mang bóng tối trong mình”. Mà ở thế giới này, dường như chẳng có ai dám thừa nhận điều đó. Thế nên mọi người để những thứ mình đã mất chìm trong ánh sáng, ánh sáng của những điều đẹp đẽ nhưng làm người ta mê mị, ngu muội, ánh sáng của những tầng không vốn chứa trong nó sự giả dối. Vậy cái gì là thật đây?

Ờ. Đại loại thì tôi nhẫn tâm, độc ác. Chẳng ai ném thẳng những lời đó cho tôi như nàng. Nàng cho tôi cái chất có thế đốt lên bóng tối ấy. Chỉ có nàng là nhận ra sự ác độc của tôi. Hoặc giả mọi người cũng nhận ra nhưng họ không nói. Và như thế, tôi yêu nàng. Nàng đã nhận ra bản chất của tôi.

Sao nhỉ? Sao nhỉ? Sao nhỉ?

Đại loại khi viết những câu hỏi đó, trong lòng tôi thực sự chẳng nghi vấn điều gì cả. Nó chỉ là những tiếng đệm vô nghĩa. Nó giống như một trạm dừng chân cho sự hụt hơi của tôi trong việc đuổi bắt suy nghĩ của mình. Khi viết nghiêm túc, tôi viết rất chậm. Tôi đánh mất thói quen viết nhanh đã từ lâu. Tôi làm mọi thứ trong sự chậm rãi của mình. Đôi lúc, sự chậm rãi đó khiến chính bản thân tôi phát bực. Tôi vừa muốn ở trong sự chậm đó. Nó có thú vị của riêng nó. Đồng thời tôi vừa muốn thoát khỏi nó. Vậy nên khi xác định không phải viết một cái gì đó nghiêm túc, một cái gì đó chỉ viết để thỏa hiệp với khao khát muốn viết đơn thuần giữa đôi tay và tâm thức thì tôi sẽ viết nhanh. Viết để đạt được sự đồng thuận cho bản thân thì không nên viết chậm tự hành hạ mình nữa làm gì. À, cái trạm dừng chân của tôi. Chắc là tôi đã nghỉ ngơi ở đó xong rồi. Nãy giờ là bao nhiêu phút nhỉ?

Phút à. Cái đồng hồ của tôi đã biến mất trên tay tôi ngày hôm nay. Nó nằm trong phòng thi của kì tuyển sinh cao đẳng. Có lẽ nó lướt qua một vài thí sinh, rồi lướt qua một vài hạt bụi. Bụi màu trắng, vàng, đỏ gì đó… trên nền bảng trắng, đen, xanh gì đó… để ghi. Ghi chính cái trạng thái đang hiển hiện của nó. À, đơn giản là em gái tôi mượn tôi đồng hồ để đi coi thi thôi mà. Nhưng cảm giác hôm nay lạ nhỉ. Tôi không đeo đồng hồ một ngày và nhận thấy sự lệ thuộc của mình vào nó. Tôi cứ liếc vào khoảng da sáng trên cổ tay của mình – nơi mà đáng lẽ thường khi vẫn có chiếc đồng hồ ở đó. Màu nâu, lớp kính mặt trước đã bị nứt vỡ, vòng tròn để giữ dây thì bị đứt và mất đi, bản thân sợi dây cũng nhàu nhĩ, những lỗ trên dây thì tưa ra, thành một khoảng trống lớn hơn sự tồn tại vốn có của nó ban đầu. May quá. Chiếc kim vẫn chạy. Thế giới vẫn xoay tròn trong đó. Và hôm nay nó tạm nghỉ việc trên tay tôi. Tay tôi cảm thấy trống. Cứ như thể là cái đồng hồ ấy đã truyền cả chức năng của nó cho cái tay. Cái tay bé mọn lại. Cái tay có thể làm nhiều chức năng hơn viết, cầm nắm một thứ gì đó, một điều gì đó, một cơn điên loạn nào đó, và làm vụt mất một điều gì đó. Nhưng mất một điểm tựa, mất thời gian, nó như chỉ còn mỗi chức năng là có ở đó để được cái đồng hồ quấn quanh. Cái tay tôi hôm nay sao ấy nhỉ. Sao tự nhiên nó lại có cái suy nghĩ thật ra nó chỉ là một thứ để đặt bên cạnh đồng hồ. Cái tay có trước mà. Nhưng đồng hồ là thời gian. Và thời gian thì có trước cái tay. Hay là cái tay có trước thời gian. Thời gian vô nghĩa. Và dường như khi đánh mất ý nghĩa của nó, mọi thứ cũng vô nghĩa. Nghĩa là… nghĩa là… con người ta cần một điểm tựa. Nhưng thời gian thì không cần họ. Nó giống như một đồng minh lúc thì đồng thuận, lúc thì phản nghịch. Không phải lúc nào thời gian cũng đứng về phía con người. Việc đặt ra những cột mốc giúp người ta làm việc, nhưng thật ra đôi lúc việc hạn định những cột mốc đó làm người ta lại khó kiểm soát bản thân hơn, phải làm những thứ mà não trạng đã hoạch địch trong đầu. Đại loại thì vào thời điểm đó phải làm những việc đó, vào khoảng thời gian nào đó trong ngày, tôi phải làm việc này, việc kia. Tôi không thể làm việc đó cho đến khi… Đại khái thì không thể muốn là hành động. Mà thật ra việc có thể muốn rồi làm bất cứ lúc nào cũng không phải là thứ quan trọng. Đại loại người ta sống trong nó và cố gắng hòa nhập với nó hay vờ như hòa nhập với nó chứ không phải bản chất vốn là hòa nhập và hòa nhập với thời gian. Đại loại, đại loại vậy.

Năm ngoái. À không. Lâu lắm rồi. Năm kia. Không. Chưa tới. Kia nữa. Là cách đây mấy sự kia kia của năm. Đại loại, cột mốc thì không còn quan trọng nữa. A! Tôi mới phát hiện ra hôm nay mình thích chữ đại loại. Nó biểu hiện một sự vừa thỏa hiệp mà vừa không thỏa hiệp thì phải. Đã đồng thuận rồi đó nhưng còn phải xét thêm. Là chữ mang tính chất trung tính và hơi vô trách nhiệm. A ha, nó còn là chữ chứa trong mình sự mâu thuẫn nữa chứ. Nói chung là thích đó.

Quay lại với cái kia kia. Sao nhỉ? (Ồ, giờ thì tôi thấy là hôm nay mình cũng thích chữ sao nhỉ rồi). Ờ thì vào thời điểm của cái kia kia. Sự tàn nhẫn của tôi bộc lộ rõ. Tại sao tôi lại ghi nhớ nó và cứ lặp đi lặp lại mãi. Khoảng thời gian đó tôi cứ muốn đọc sách. Tôi cứ muốn có một luồng suy nghĩ chạy qua đầu mình để mình đỡ phải mất công suy nghĩ, hoài nghi, tự vấn… vân vân và vân vân  các công đoạn tư duy của nó. Và khoảng thời gian đó thì ông ngoại tôi bị bệnh. Điều tàn nhẫn nhất là hôm đó, khi nghe kết quả về bệnh của ông, mọi người trong nhà lo lắng. Chị tôi đã khóc khi biết bệnh của ông không còn phương cách nào cứu chữa. Hôm đó, tôi vẫn đang ngồi nhà đọc sách. Khoảng thời gian đó không hiểu sao tôi lại thích ngồi trong cửa phòng bấm chốt, tách ly với mọi thứ ngoài kia và đọc, không muốn bị ai làm phiền, kể cả là người nhà, kể cả là bất cứ thứ tin tức nào. Chị tôi gõ cửa. Phải gõ cửa nhiều lần tôi mới ra mở. Đơn thuần là tôi đang đọc dở một trang. Tôi còn một hai đoạn. Tôi còn một hai dòng. Tôi còn một vài chữ. Tôi phải đọc cho hết trọn một trang hay trọn một ý. Rồi tôi đánh dấu trang lại bằng một kẹp sách. Gấp cuốn sách lại và ra phòng mở cửa cho chị. Tôi làm tất cả các công đoạn đó một cách qui củ từng bước từng bước một với cái sự không có một điều gì có thể hối thúc tôi trong đầu. Chị tôi khóc rồi trách tôi vì sao không khóc, rồi trách tôi không khóc cũng được nhưng sao không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào cũng được nhưng sao có thể để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, đề lộ cái vẻ mặt bình thản như thế cũng được nhưng sao có thể giờ phút này mà vẫn còn tâm trí mà đọc sách, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, giờ phút này mà vẫn còn tâm trí đọc sách cũng được nhưng sao có thể vẫn chú tâm để làm một việc gì đó ngoài sự lo lắng chung của mọi người…Tại sao và tại sao? Tại sao hồi đó lại như thế? Tại sao tôi cứ muốn phải lặp lại những điều này, những chi tiết này? Chính tôi cũng không biết. “Cái gì được lặp lại nhiều lần nghĩa là cái đó là thứ thật sự quan trọng với mình,” nàng nói với tôi như thế.

Hôm nay cũng là một ngày tương tự như vậy nhưng mức độ nhẹ hơn. Tôi không ngờ và cũng không muốn cái cảm giác cách đây ba năm đó lặp lại, vào chính ngày này. Không có điều gì là giống nhau, mọi việc sẽ khác đi. Sẽ khác đi. Nếu nó trở thành một điều gì đó kinh khủng hơn, tôi chỉ mong một cơ chế nào đó bòn rút sức khỏe và nguồn sống của mình chia bớt cho mẹ. Tôi không muốn mình nhẫn tâm một cách vô trách nhiệm như thế nữa. Sự nhẫn tâm cũng là thứ cần phải có trách nhiệm.

Tôi không khóc.

Khi ông ngoại mất. Khi nhiều điều cứ lần lượt trôi tuột khỏi tay tôi, mọi thứ tình cảm, con người, những thứ mà tôi đặt cho nó cái tên quan trọng…

Vậy mà tôi lại khóc vì nàng, khóc khi nghe nàng nói có thể vứt bỏ tôi một cách dễ dàng, tôi chẳng là gì quan trọng với nàng cả. Tại sao vậy nhỉ? Tôi sợ mất nàng đến như thế ư? Tôi quen với cảm giác mất mát rồi mà. Có những lúc càng mất mát tôi càng thấy hưng phấn. Giống như cách người ta mang balô, đi đường trường rồi trên đường đi mệt mỏi quá mà cứ dần bỏ bớt những thứ mình mang theo để đi nhẹ nhàng hơn. Đó cũng là thứ mất mát làm người ta buồn, không, rất đau. Đôi lúc người ta cố làm cho mình trống đi mà, đôi lúc sự trống đi là cần thiết mà.

Sao nhỉ…
Tôi mâu thuẫn quá.
Nhưng, tôi yêu nàng. Tôi muốn thét lớn lên điều đó. Đó có phải là điều quan trọng không?

Tôi yêu cái cách nàng ngủ. Thi thoảng trán nàng lại nhăn như đang suy nghĩ, trông khuôn mặt của nàng lúc đó rất khó chịu. Có khi lại gợi cho tôi cảm giác hoang mang từ đôi mắt đang nhắm ấy. Tôi yêu cái cách những ngón tay nàng còn đập vào nhau trong lúc ngủ. Tôi yêu hơi thở nhè nhẹ đó. Yêu nó ấm nóng, phả vào ngực tôi đều đặn. Để tôi biết sự tồn tại của nàng. Nàng đang ở ngay đây, bên cạnh tôi. Và tôi sợ nàng biến mất.

Một đôi lúc tôi thoáng nghĩ, dường như tất cả những việc tôi làm ở tuổi 20, hay là cả ở những tuổi trước đó, tất cả đều nằm trong chuỗi nguyên nhân để dẫn đến việc tôi có thể gặp nàng, tôi được nàng yêu. Tôi yêu nàng. Và tôi biết nàng cũng yêu tôi. Điều đó khiến tôi hạnh phúc. Hạnh phúc kinh khủng. Nó là một cái gì đó thật tuyệt vời. Nàng như một ngọn lửa với tôi. Đôi lúc, tôi ôm nàng, tôi ở bên nàng mà cái tiếng nói trong đầu tôi: hãy đốt cháy tôi đi, đốt cháy tôi đi, làm cho tôi nổi loạn, tôi cười, tôi vui, tôi khóc, tôi buồn, tôi đi đứng, tôi chạy nhảy, tôi viết, tôi làm điều này điều kia, tôi chứng kiến sự vụ này sự vụ nọ với một cái gì đó nóng khủng khiếp, cái nóng của sự tiêu hủy và muốn phá hoại đi tất cả. Hãy cứ làm tôi đau. Chẳng sao cả. Vì tôi yêu em.

Ngọn lửa.
Nó là thứ tiêu hủy.
Nhưng đồng thời cũng là thứ mang lại ánh sáng.

Fretto Frek

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng