Trà chiều

Ngọn lửa của tôi

Published

on

Ngọn lửa. Ngọn lửa. Ngọn lửa.

Đột nhiên tôi chẳng nghĩ được điều gì ngoài hình ảnh đó. Hay là trong đầu tôi có nhiều suy nghĩ về những sự vụ khác nhau nhưng xét theo tần suất xuất hiện thì hình ảnh đó lặp đi lặp lại nhiều lần. Thế là tôi vớ đại nó theo cơ chế ngẫu nhiên. Ờ, ngẫu nhiên mà thôi. Đáng lẽ tôi phải suy nghĩ một hình ảnh nào đó nghiêm túc hơn chẳng hạn, có tính toán và ý đồ hơn chẳng hạn. Dù gì hôm nay cũng là sinh nhật tôi, dù gì tôi cũng muốn viết một cái gì đó cho hôm nay, dù gì tôi cũng muốn nó phải là thứ gì đó có ý nghĩa, dù gì nó cũng là một cái cột mốc 20 năm, dù gì… Khi suy nghĩ về tất cả những cái dù gì đó, sự bội thực vì cái dù gì đó… tôi lại nhận thấy dường như chẳng có gì là quan trọng cả. Thật kì lạ. Cách vài phút, à không, cách đây vài giờ, vài ngày, vài tháng trước, vài năm trước, vài những giờ khắc mà tôi không còn nhớ nó hoạt động ra sao, tôi đã từng nghĩ rằng có nhiều thứ quan trọng và mình đã xác quyết được thứ quan trọng đó. Nhưng rồi đột nhiên tất cả giống như một khoảnh khắc những đám mây che hờ hờ xung quanh bầu trời vụt tan biến mất, và một luồng ánh sáng xung quanh chói lóa, mọi thứ xóa nhòa trong ánh nắng đó, mọi vật chìm lấp trong khoảng sáng đó, không cái gì được nhìn rõ nữa. Khoảnh khắc đó nhanh thôi. Nhưng có thật. Và thế là tôi quên mất thứ quan trọng với mình là gì. Giống như nó đã chìm đi cùng cơn sáng đó. Hay là giống như nó vốn thể là thứ ngay từ đầu đã chẳng tồn tại.

Đâu phải chỉ trong bóng đêm mọi thứ mới biến mất. Ánh sáng cũng là một thứ hủy diệt những tồn lưu của các sự vật/sự vụ chung quanh nó một cách ghê gớm. Mà thật ra, sự tiêu hủy của ánh sáng còn kinh khủng hơn là bóng đêm. Đơn giản vì khi một thứ nào đó biến mất trong bóng tối, người ta còn có thể dùng ánh sáng để tìm lại nó được. Nhưng một thứ biến mất trong ánh sáng thì không thể lấy một thứ sáng hơn mà thắp lên tìm nó. Theo cơ chế suy luận nghịch thì đơn giản là người ta có thể lấy một thứ tối hơn mà đốt lên. Đốt, đốt, đốt. Đốt cái thứ tối ấy lên để tìm vật đã mất. Nhưng không ai đốt lên cả. Không phải vì chất tối để đốt cháy không tồn tại. Đơn thuần là vì nếu có một người nào đó đốt chất tối lên để tìm kiếm, họ sẽ lập tức bị đám đông dị nghị. Nó là một cách khác của sự thừa nhận rằng: “Tôi có mang bóng tối trong mình”. Mà ở thế giới này, dường như chẳng có ai dám thừa nhận điều đó. Thế nên mọi người để những thứ mình đã mất chìm trong ánh sáng, ánh sáng của những điều đẹp đẽ nhưng làm người ta mê mị, ngu muội, ánh sáng của những tầng không vốn chứa trong nó sự giả dối. Vậy cái gì là thật đây?

Ờ. Đại loại thì tôi nhẫn tâm, độc ác. Chẳng ai ném thẳng những lời đó cho tôi như nàng. Nàng cho tôi cái chất có thế đốt lên bóng tối ấy. Chỉ có nàng là nhận ra sự ác độc của tôi. Hoặc giả mọi người cũng nhận ra nhưng họ không nói. Và như thế, tôi yêu nàng. Nàng đã nhận ra bản chất của tôi.

Sao nhỉ? Sao nhỉ? Sao nhỉ?

Đại loại khi viết những câu hỏi đó, trong lòng tôi thực sự chẳng nghi vấn điều gì cả. Nó chỉ là những tiếng đệm vô nghĩa. Nó giống như một trạm dừng chân cho sự hụt hơi của tôi trong việc đuổi bắt suy nghĩ của mình. Khi viết nghiêm túc, tôi viết rất chậm. Tôi đánh mất thói quen viết nhanh đã từ lâu. Tôi làm mọi thứ trong sự chậm rãi của mình. Đôi lúc, sự chậm rãi đó khiến chính bản thân tôi phát bực. Tôi vừa muốn ở trong sự chậm đó. Nó có thú vị của riêng nó. Đồng thời tôi vừa muốn thoát khỏi nó. Vậy nên khi xác định không phải viết một cái gì đó nghiêm túc, một cái gì đó chỉ viết để thỏa hiệp với khao khát muốn viết đơn thuần giữa đôi tay và tâm thức thì tôi sẽ viết nhanh. Viết để đạt được sự đồng thuận cho bản thân thì không nên viết chậm tự hành hạ mình nữa làm gì. À, cái trạm dừng chân của tôi. Chắc là tôi đã nghỉ ngơi ở đó xong rồi. Nãy giờ là bao nhiêu phút nhỉ?

Phút à. Cái đồng hồ của tôi đã biến mất trên tay tôi ngày hôm nay. Nó nằm trong phòng thi của kì tuyển sinh cao đẳng. Có lẽ nó lướt qua một vài thí sinh, rồi lướt qua một vài hạt bụi. Bụi màu trắng, vàng, đỏ gì đó… trên nền bảng trắng, đen, xanh gì đó… để ghi. Ghi chính cái trạng thái đang hiển hiện của nó. À, đơn giản là em gái tôi mượn tôi đồng hồ để đi coi thi thôi mà. Nhưng cảm giác hôm nay lạ nhỉ. Tôi không đeo đồng hồ một ngày và nhận thấy sự lệ thuộc của mình vào nó. Tôi cứ liếc vào khoảng da sáng trên cổ tay của mình – nơi mà đáng lẽ thường khi vẫn có chiếc đồng hồ ở đó. Màu nâu, lớp kính mặt trước đã bị nứt vỡ, vòng tròn để giữ dây thì bị đứt và mất đi, bản thân sợi dây cũng nhàu nhĩ, những lỗ trên dây thì tưa ra, thành một khoảng trống lớn hơn sự tồn tại vốn có của nó ban đầu. May quá. Chiếc kim vẫn chạy. Thế giới vẫn xoay tròn trong đó. Và hôm nay nó tạm nghỉ việc trên tay tôi. Tay tôi cảm thấy trống. Cứ như thể là cái đồng hồ ấy đã truyền cả chức năng của nó cho cái tay. Cái tay bé mọn lại. Cái tay có thể làm nhiều chức năng hơn viết, cầm nắm một thứ gì đó, một điều gì đó, một cơn điên loạn nào đó, và làm vụt mất một điều gì đó. Nhưng mất một điểm tựa, mất thời gian, nó như chỉ còn mỗi chức năng là có ở đó để được cái đồng hồ quấn quanh. Cái tay tôi hôm nay sao ấy nhỉ. Sao tự nhiên nó lại có cái suy nghĩ thật ra nó chỉ là một thứ để đặt bên cạnh đồng hồ. Cái tay có trước mà. Nhưng đồng hồ là thời gian. Và thời gian thì có trước cái tay. Hay là cái tay có trước thời gian. Thời gian vô nghĩa. Và dường như khi đánh mất ý nghĩa của nó, mọi thứ cũng vô nghĩa. Nghĩa là… nghĩa là… con người ta cần một điểm tựa. Nhưng thời gian thì không cần họ. Nó giống như một đồng minh lúc thì đồng thuận, lúc thì phản nghịch. Không phải lúc nào thời gian cũng đứng về phía con người. Việc đặt ra những cột mốc giúp người ta làm việc, nhưng thật ra đôi lúc việc hạn định những cột mốc đó làm người ta lại khó kiểm soát bản thân hơn, phải làm những thứ mà não trạng đã hoạch địch trong đầu. Đại loại thì vào thời điểm đó phải làm những việc đó, vào khoảng thời gian nào đó trong ngày, tôi phải làm việc này, việc kia. Tôi không thể làm việc đó cho đến khi… Đại khái thì không thể muốn là hành động. Mà thật ra việc có thể muốn rồi làm bất cứ lúc nào cũng không phải là thứ quan trọng. Đại loại người ta sống trong nó và cố gắng hòa nhập với nó hay vờ như hòa nhập với nó chứ không phải bản chất vốn là hòa nhập và hòa nhập với thời gian. Đại loại, đại loại vậy.

Năm ngoái. À không. Lâu lắm rồi. Năm kia. Không. Chưa tới. Kia nữa. Là cách đây mấy sự kia kia của năm. Đại loại, cột mốc thì không còn quan trọng nữa. A! Tôi mới phát hiện ra hôm nay mình thích chữ đại loại. Nó biểu hiện một sự vừa thỏa hiệp mà vừa không thỏa hiệp thì phải. Đã đồng thuận rồi đó nhưng còn phải xét thêm. Là chữ mang tính chất trung tính và hơi vô trách nhiệm. A ha, nó còn là chữ chứa trong mình sự mâu thuẫn nữa chứ. Nói chung là thích đó.

Quay lại với cái kia kia. Sao nhỉ? (Ồ, giờ thì tôi thấy là hôm nay mình cũng thích chữ sao nhỉ rồi). Ờ thì vào thời điểm của cái kia kia. Sự tàn nhẫn của tôi bộc lộ rõ. Tại sao tôi lại ghi nhớ nó và cứ lặp đi lặp lại mãi. Khoảng thời gian đó tôi cứ muốn đọc sách. Tôi cứ muốn có một luồng suy nghĩ chạy qua đầu mình để mình đỡ phải mất công suy nghĩ, hoài nghi, tự vấn… vân vân và vân vân  các công đoạn tư duy của nó. Và khoảng thời gian đó thì ông ngoại tôi bị bệnh. Điều tàn nhẫn nhất là hôm đó, khi nghe kết quả về bệnh của ông, mọi người trong nhà lo lắng. Chị tôi đã khóc khi biết bệnh của ông không còn phương cách nào cứu chữa. Hôm đó, tôi vẫn đang ngồi nhà đọc sách. Khoảng thời gian đó không hiểu sao tôi lại thích ngồi trong cửa phòng bấm chốt, tách ly với mọi thứ ngoài kia và đọc, không muốn bị ai làm phiền, kể cả là người nhà, kể cả là bất cứ thứ tin tức nào. Chị tôi gõ cửa. Phải gõ cửa nhiều lần tôi mới ra mở. Đơn thuần là tôi đang đọc dở một trang. Tôi còn một hai đoạn. Tôi còn một hai dòng. Tôi còn một vài chữ. Tôi phải đọc cho hết trọn một trang hay trọn một ý. Rồi tôi đánh dấu trang lại bằng một kẹp sách. Gấp cuốn sách lại và ra phòng mở cửa cho chị. Tôi làm tất cả các công đoạn đó một cách qui củ từng bước từng bước một với cái sự không có một điều gì có thể hối thúc tôi trong đầu. Chị tôi khóc rồi trách tôi vì sao không khóc, rồi trách tôi không khóc cũng được nhưng sao không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào cũng được nhưng sao có thể để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, đề lộ cái vẻ mặt bình thản như thế cũng được nhưng sao có thể giờ phút này mà vẫn còn tâm trí mà đọc sách, rồi trách tôi không khóc, không biểu lộ chút lo lắng hay buồn bã nào, để lộ cái vẻ mặt bình thản như thế, giờ phút này mà vẫn còn tâm trí đọc sách cũng được nhưng sao có thể vẫn chú tâm để làm một việc gì đó ngoài sự lo lắng chung của mọi người…Tại sao và tại sao? Tại sao hồi đó lại như thế? Tại sao tôi cứ muốn phải lặp lại những điều này, những chi tiết này? Chính tôi cũng không biết. “Cái gì được lặp lại nhiều lần nghĩa là cái đó là thứ thật sự quan trọng với mình,” nàng nói với tôi như thế.

Hôm nay cũng là một ngày tương tự như vậy nhưng mức độ nhẹ hơn. Tôi không ngờ và cũng không muốn cái cảm giác cách đây ba năm đó lặp lại, vào chính ngày này. Không có điều gì là giống nhau, mọi việc sẽ khác đi. Sẽ khác đi. Nếu nó trở thành một điều gì đó kinh khủng hơn, tôi chỉ mong một cơ chế nào đó bòn rút sức khỏe và nguồn sống của mình chia bớt cho mẹ. Tôi không muốn mình nhẫn tâm một cách vô trách nhiệm như thế nữa. Sự nhẫn tâm cũng là thứ cần phải có trách nhiệm.

Tôi không khóc.

Khi ông ngoại mất. Khi nhiều điều cứ lần lượt trôi tuột khỏi tay tôi, mọi thứ tình cảm, con người, những thứ mà tôi đặt cho nó cái tên quan trọng…

Vậy mà tôi lại khóc vì nàng, khóc khi nghe nàng nói có thể vứt bỏ tôi một cách dễ dàng, tôi chẳng là gì quan trọng với nàng cả. Tại sao vậy nhỉ? Tôi sợ mất nàng đến như thế ư? Tôi quen với cảm giác mất mát rồi mà. Có những lúc càng mất mát tôi càng thấy hưng phấn. Giống như cách người ta mang balô, đi đường trường rồi trên đường đi mệt mỏi quá mà cứ dần bỏ bớt những thứ mình mang theo để đi nhẹ nhàng hơn. Đó cũng là thứ mất mát làm người ta buồn, không, rất đau. Đôi lúc người ta cố làm cho mình trống đi mà, đôi lúc sự trống đi là cần thiết mà.

Sao nhỉ…
Tôi mâu thuẫn quá.
Nhưng, tôi yêu nàng. Tôi muốn thét lớn lên điều đó. Đó có phải là điều quan trọng không?

Tôi yêu cái cách nàng ngủ. Thi thoảng trán nàng lại nhăn như đang suy nghĩ, trông khuôn mặt của nàng lúc đó rất khó chịu. Có khi lại gợi cho tôi cảm giác hoang mang từ đôi mắt đang nhắm ấy. Tôi yêu cái cách những ngón tay nàng còn đập vào nhau trong lúc ngủ. Tôi yêu hơi thở nhè nhẹ đó. Yêu nó ấm nóng, phả vào ngực tôi đều đặn. Để tôi biết sự tồn tại của nàng. Nàng đang ở ngay đây, bên cạnh tôi. Và tôi sợ nàng biến mất.

Một đôi lúc tôi thoáng nghĩ, dường như tất cả những việc tôi làm ở tuổi 20, hay là cả ở những tuổi trước đó, tất cả đều nằm trong chuỗi nguyên nhân để dẫn đến việc tôi có thể gặp nàng, tôi được nàng yêu. Tôi yêu nàng. Và tôi biết nàng cũng yêu tôi. Điều đó khiến tôi hạnh phúc. Hạnh phúc kinh khủng. Nó là một cái gì đó thật tuyệt vời. Nàng như một ngọn lửa với tôi. Đôi lúc, tôi ôm nàng, tôi ở bên nàng mà cái tiếng nói trong đầu tôi: hãy đốt cháy tôi đi, đốt cháy tôi đi, làm cho tôi nổi loạn, tôi cười, tôi vui, tôi khóc, tôi buồn, tôi đi đứng, tôi chạy nhảy, tôi viết, tôi làm điều này điều kia, tôi chứng kiến sự vụ này sự vụ nọ với một cái gì đó nóng khủng khiếp, cái nóng của sự tiêu hủy và muốn phá hoại đi tất cả. Hãy cứ làm tôi đau. Chẳng sao cả. Vì tôi yêu em.

Ngọn lửa.
Nó là thứ tiêu hủy.
Nhưng đồng thời cũng là thứ mang lại ánh sáng.

Fretto Frek

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng