Phía sau trang sách

Nghiệt tử: Bài ca khát sống

Tất cả đau thương cứ rơi lả tả như trận mưa không dứt tỏa xuống từ công viên này.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

“Tớ sẽ cho cậu thấy, tớ thực sự đang sống trong một vở kịch như thế nào” – đấy là câu thoại mà Tiểu Ngọc nói cùng Thanh trong bản chuyển thể điện ảnh của Nghiệt tử vào năm 2003. Và quả thật cũng đúng như vậy, bằng quyển tiểu thuyết này, Bạch Tiên Dũng đã âm thầm dựng lên một sân khấu lớn, tuyển chọn diễn viên và cứ thế action không cần kịch bản. Vốn dĩ chẳng cần một dòng chữ nào bởi họ đang sống như chính là mình, phơi bày ra trước thế giới rộng lớn bản chất thật nhất của mình, kể câu chuyện đời mình. Họ là đội quân những bóng ma lang thang vô định trong từng mét vuông sân khấu, phê pha tận hưởng từng khoảnh khắc vẻ vang hay đớn đau, và tất cả được Bạch Tiên Dũng ghi lại dưới con mắt lành nghề vừa mang vẻ tinh tế, nhưng cũng đồng thời, thật đến tan nát cõi lòng. Với Nghiệt tử, ông không hẳn cho thấy cái tréo ngoe cùa những con người vốn được coi như một trò đùa của tạo hóa, mà ngay cả những người tưởng như bình thường nhất, những người con theo đúng ý định của Adam và Eva nhất, cũng đồng thời mang trong mình cái gen tréo ngoe mà hễ sinh ra là kiếp con người, ai rồi cũng sẽ nếm mật nằm gai.

Nghiệt tử như cơn đồng sàng dị mộng rất khó tiêu hóa, khi một bên là đời sống bên ngoài ở Công viên Mới, một bên là những thẳm sâu bên trong mỗi nhân vật. Lấy câu chuyện của Thanh làm mạch sườn chính, Bạch Tiên Dũng tạo ra ban đầu một sự tiếp cận vô cùng tuần tự. Một thanh niên đang tuổi nổi loạn bùng cháy những khát khao yêu đương hừng hực tuổi trẻ, nhưng hà khắc ở chỗ, tình yêu ấy chưa bao giờ được chấp nhận bởi những phụ huynh vẫn tin lí tưởng của mình trên hết, và một xã hội dẫu được Tây hóa từ rất lâu như Đài Loan vẫn phải chào thua. Những đứa trẻ một khi đã như những con thiêu thân lao đầu vào thứ tình cảm ấy, đều có một số phận không mấy êm đẹp. Như lời lão Quách từng nói khi mở tập ảnh Bầy chim Thanh xuân rằng: “Chính dòng máu trong người đã thôi thúc chúng bây, chúng bây là lũ nhóc hoang dại sinh ra trên hòn đảo này, giống như bão tố và động đất trên đảo. Chúng bây là bầy chim non đã mất đi tổ ấm. Giống như bầy chim én bay vượt đại dương, chỉ biết gồng mình bay về phía trước, rồi sẽ bay đến nơi đâu chúng bây cũng không biết được.”

Ở đó tồn tại một vương quốc nơi những con người lạc loài như họ hàng ngày vẫn tề tựu về như chốn dung dưỡng tâm hồn. Đó là một vương quốc không phân giàu nghèo, sang hèn, già trẻ hay mạnh yếu, mà đó là chốn thỏa bày, là nơi hợp nhất những sự tuyệt vọng như hai dấu trừ của môn đại số, để rồi từ đó bật lên là những cảm thông, là sự chia sẻ qua hết ngày dài đoạn tháng. Từ Công viên Mới ấy, Bạch Tiên Dũng tỏa ra nhiều ngã, sử dụng những câu chuyện nhỏ như nét chấm phá gợi lên đôi chút thương đau. Về anh thầy giáo thể dục, về cậu thiếu niên nhảy cầu Đạm Thủy, về cậu bé vẫn mãi trông chờ người tình nước Mỹ của mình đến mức hóa rồ hay cả chuyện tình ly kì của Phượng,… Tất cả đau thương cứ rơi lả tả như trận mưa không dứt tỏa xuống từ công viên này.  Chật chội, ám ảnh và đè nén như những thước phim đặc tả cái cô đơn đậm chất Hongkong của Vương Gia Vệ bằng những khung hình chật hẹp, Bạch Tiên Dũng cũng phả vào đây thứ hơi nghẹn đắng ứ đầy ở cổ: “Thứ mà tất cả chúng tôi đều có, là những tấm thân bị dục vọng thiêu đốt đến tột cùng đau đớn, là những trái tim cô đơn đến cuồng dại. Những trái tim cô đơn đến cuồng dại ấy, cứ đến lúc nửa đêm, lại như một bầy mãnh thú phá tan hoang tù ngục giam cầm, nhe nanh múa vuốt, gầm gừ bắt đầu cuộc sục sạo săn tìm. Dưới bóng hắt của vầng trăng đỏ bầm, chúng tôi như lũ con bệnh mộng du, mỗi kẻ giẫm lên một chiếc bóng, bắt đầu cuộc truy tìm cuồng nhiệt vòng quanh hồ hoa súng không ngừng không nghỉ, luân hồi bất tận, theo đuổi cơn ác mộng khổng lồ ngập ngụa yêu thương và dục vọng.”

Thế nhưng ở đó không chỉ là những thiêu đốt của dục vọng thấp hèn, mà ngoài ánh sáng, họ vẫn là những con người hàng ngày quay cuồng với cõi nhân gian. Bạch Tiên Dũng rõ ràng không quá cố gắng khi chỉ khai thác cái sầu thảm hay duy bi kịch, mà ông đạt đến trạng thái cân bằng và sau đó dùng nó làm chiếc đòn bẩy như niềm tiếc nuối cho những tháng ngày đã qua. Hình ảnh cậu em của Thanh không chỉ xuất hiện trong tác phẩm như cách để làm dài thêm, mà đó là cách con người họ sống, là kí ức đẹp và sự xót thương. Hay Tiểu Ngọc với giấc mơ Nhật đi tìm người cha lừa dối mẹ mình, không biết mặt mũi ông sao, chỉ biết tên họ dẫu cho Nakajima trăm ngàn phổ biến ấy biết có thật không? Chuột và người anh Qụa, dẫu có bị hành hạ vô cớ hay đánh đến mềm rũ người, cậu ta vẫn cười hề hề sau mỗi trận đánh, vì sống với Qụa đã quá quen rồi!? Hay như Ngô Mẫn, cậu trai mềm yếu từng cắt tay mình vì một người đàn ông cho cậu giấc mơ về cuộc sống tưởng quá êm đềm: “Cậu không biết phòng tắm nhà anh Trương thích đến mức nào đâu, toàn bộ lát gạch men màu xanh lam, đến bồn tắm cũng màu xanh nốt… Tớ chưa bao giờ nhìn thấy cái bồn tắm nào đẹp đến thế, bên trên bồn tắm có van gas, mở vòi là nước nóng chảy ra ào ào. Tớ xả đầy một bồn nước nóng, ngâm mình trong đó, không muốn bước chân ra ngoài nữa, cứ ngâm đến khi cả người đỏ au lên… Lần đầu tiên trong đời tớ được tắm thỏa thích đến thế”. Tất cả bọn họ đều là những người rất ư bình thường, đều có gia đình, những mối quan hệ, đã từng hay đang mơ ước thứ này thứ khác, những thứ giản đơn… Bạch Tiên Dũng từ đây lại gợi một sự cân bằng, dẫu cho sai khác một mặt nào đó, họ vẫn là những sinh thể dưới ánh mặt trời, khát khao yêu thương, đam mê cả thế giới này. Từ một tác phẩm tưởng như viết riêng cho một cộng đồng người, Nghiệt tử lại như tiếng nói nhân sinh cho mọi con người như lời thiết sống.

Nghiệt tử mang trong lòng mình dáng dấp một tác phẩm lớn. Nói thế, bởi Nghiệt tử vô cùng toàn diện, khi không những phác họa thành công những nhân-vật-chính của mình, mà đồng thời, nó còn gom cả xã hội ôm vào trong mình, thành sự phản ánh hai chiều đầy đủ giác quan, nghe-nhìn-cảm nhận. Đó là cha của Lý Thanh, người cha suốt cả một đời chinh chiến nhưng không may bị bắt làm tù binh, để rồi sau đó không còn lại gì: chức tước, danh lợi, địa vị,… Là mẹ Lý Thanh, người đàn bà trẻ khi mới 19 đã lấy cha anh, lúc ấy 45 để rồi sau này say đắm bản tính nghệ sĩ cuốn gói đi xa bỏ mặc cả hai người con. Như chính cái tên dãi dầu của chị – Hoàng Lệ Hà, những năm cuối đời là những kí ức vô cùng muốn quên. Hoảng loạn, cuồng nộ như cơn bão lớn, Thanh viết: “Mẹ tôi suốt đời không ngừng trốn chạy, phiêu bạt, kiếm tìm, để đến cuối cùng phải nằm liệt trên chiếc giường chồng chất những chăn bông chua loét mồ hôi, chụp kín trong cánh màn nhem nhuốc, bệnh độc đầy người, thoi thóp hơi tàn chờ chết.” Là mẹ Tiểu Ngọc, người đàn bà phốp pháp phấn son lem luốc, trót đem lòng tin người đàn ông Nhật để rồi khổ sở cả đời. Là Lệ Nguyệt, người đàn bà đẹp, nhưng quá đa cảm tin vào tình yêu,… Mỗi một người họ đều như những con mồi ngon của thứ thời cuộc ủ men quá độ, đều là những thân những kiếp của loài côn trùng khoác lên trên mình bộ cánh đẹp đẽ, nhưng nào biết rằng họ đang dấn bước vào trong khu rừng của loài nắp ấm, chỉ tiến quá gần, rồi sẽ tiêu tan.

Một điểm rất đáng chú ý ở Nghiệt tử là nó không hề chứa đựng một phút giây nào của những đặc tả ham muốn thể xác. Việc chối từ một mặt tối quan trọng của những tiểu thuyết mô tả bản chất con người của Bạch Tiên Dũng rõ ràng là một ca lạ. Vì như từ trước đến nay, sex trong văn chương vẫn luôn được coi như một thành tố vừa đi sâu vào lòng bản chất, vừa như một lối hướng theo thị hiếu đọc giả. Nói sex trong văn chương châu Á vẫn chưa rộng đường, còn hơi tế nhị cũng chưa hẳn đúng; vì Trương Ái Linh cùng Sắc, Giới hay bộ phim chuyển thể của Lý An sau này đã như một sự phản hồi. Chuyển từ những cảnh tính dục sang những mô tả tình cảm vô cùng thần sầu, mối quan hệ cha – con trong Nghiệt tử là chi tiết cá nhân nhất mà Bạch Tiên Dũng mang vào. Giữ Vương Quỳ Long như nhân vật mang chính hình dáng chính mình, ông khắc sâu vào lòng độc giả thế đối lập tư tưởng giữa những cánh chim hoang dã và người cha của họ. Cụ Phó Sùng Sơn, Vương Thượng Đức và cha Lý Thanh là ba người được ông khắc họa cùng chung một khuôn, như đại diện cho những con người cứng cỏi nhất của thời bấy giờ, khi từng chinh chiến, giữ chức vụ cao và hơn hết, là những kỳ vọng lớn lao vào con trai họ. Trong khi Phó Vệ, Vương Quỳ Long và Lý Thanh, lại là ba con chim hoang dã không chịu khuất phục, lao mình vào lửa không màng kết cục. Sự kình chống tư tưởng giữa mỗi người họ giống như cách nhìn của xã hội Đài Loan lúc bấy giờ, nhưng trong trường hợp này, còn hơn thế nữa, khi nó còn là bộ mặt, còn là thanh danh. Kết cục là cái chết tự kết liễu mình của Phó Vệ, là sự thù hằn không bao giờ nguôi của Vương Thượng Đức và nỗi nhớ nhà nhưng đành bất lực của Lý Thanh. Tất cả xoay vòng thành một hỗn thế, đầy đủ hết mọi xúc cảm: hối hận, căm tức, phẫn nộ, đau khổ,… Nhưng rồi ông lại thắp lên ánh sáng sau đường hầm tối, khi rồi nhìn lại, cụ Phó dang tay cứu giúp những đứa trẻ trong công viên Mới, hay một lần khác ông ngồi trầm ngâm dưới hương ngải tiên vào ngày giỗ của con trai mình. Chi tiết Vương Quỳ Long chất vấn cụ Phó vì sự lạnh lùng của cha mình, để rồi nhận lại câu nói: “Ông ấy không nỡ gặp con… Đến nhắm mắt rồi cũng không nỡ gặp con…”, hay giọt nước mắt của cha Lý Thanh và tiếng gào thét khan đặc gọi cậu quay lại ở bản điện ảnh, tất cả đã như một câu trả lời.

Đài Loan những năm 70 chìm trong bầu không khí ngột ngạt của nền kinh tế chuyển mình, rón rén bước chân trở thành một trong bốn con rồng châu Á, giống như lời Bạch Tiên Dũng mô tả một con ngõ nhỏ: “Trong con ngõ số 125 đường Nam Kinh Đông, quán ăn, nhà hàng san sát. Đầu ngõ là Phượng Thành, một nhà hàng chuyên món Quảng Đông rất đắt khách […] Sát bên cạnh là một nhà hàng Nhật Bản tên là Mai Uyển, tiếp nữa là quán thịt nướng Hàn Quốc Arirang, đối diện với Arirang là nhà hàng Âu Golden Angel.” Một cách gần giống với Us của đạo diễn Jordan Peele, ở đâu đó trong đêm trường tăm tối, cả một cộng đồng mới đã dần thành hình. Nhưng khác với nhóm những người song trùng đầy những hận thù của Red, cộng đồng những con chim hoang dại tập hợp ở đây chỉ với một mục đích duy nhất, khát khao sống. Đọc Nghiệt tử, ta thấy họ cũng như những con người khác, cũng mong manh trước những thân phận, nhưng cũng mạnh mẽ đứng lên trước những khó khăn. Nghiệt tử là một tác phẩm lớn, khi nó không chỉ khắc họa sự lênh đênh của những con người bị tạo hóa trêu đùa, mà nó còn như nét màu hoàn thiện bức tranh nhân quần đầy chuyển động, cạnh đó là một xã hội Đài Loan thu nhỏ với nhịp sống về đêm vô cùng nhộn nhịp, là chốn vui chơi lạc thú bên cạnh những thân xác rã rời. Với Nghiệt tử, Bạch Tiên Dũng đã tự đưa mình vào hàng ngũ những cây bút ngoài Đại Lục vô cùng tài hoa, bên cạnh những Kim Dung, Trương Ái Linh, Lưu Dĩ Sưởng,… từng làm nức lòng xứ Cảng Thơm biết bao thế hệ.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Bài viết có chủ đề liên quan



Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng