Trà chiều

Ngày tháng Mười chưa cười Nobel đã tới

Published

on

Kể từ đợt bùng nổ trong ngành xuất bản cách đây khoảng 15 năm, thị trường sách liên tục mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cùng với đó là một thế hệ người đọc mới ra đời – những người đồng thời tiếp xúc với sách vở và internet. Internet đã làm thay đổi thói quen đọc sách rất đáng kể, thay thế cho hệ thống truyền miệng-tay lỗi thời và thiếu chính xác với slogan “lưu hành nội bộ”, biến sự đọc trở thành văn hóa đại chúng đến nỗi có thể được đưa ra làm chủ đề trong bữa ăn tối ấm áp, khi mà ai đó vừa gỡ được miếng thịt mắc trong kẽ răng bèn thốt lên – khi TV vừa ra rả về ai khác đoạt giải Nobel Văn chương (NVC) – rằng thứ này khó nhai quá. Cứ như thế, rất tự nhiên, vào tháng 10 hằng năm thì người ta – những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương, cánh nhà báo hàng xóm, những người làm trong ngành xuất bản, những người đọc và không đọc, người da màu và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – lại hướng ánh nhìn về trời Âu để dõi theo lễ trao giải Nobel hay Booker đều đặn như bọn con nít nhiệt liệt chào mừng ngày 2*/*0 còn chị em ngóng trông Halloween. Chính vì mang sức hút khó cưỡng với mọi giai tầng như vậy nên không có gì bất ngờ khi NVC được thực thể hóa thành một con tắc kè liên tục chuyển mình giữa cơ man là màu sắc.

1.

Trở lại với những văn nhân cầm bút hoặc không, NVC rõ ràng mang màu sắc của sự công nhận: sự công nhận của giới mộ điệu văn chương, của những người đọc và không đọc, hay đôi khi là cả hai đối với những văn nhân cầm bút (hoặc không – như nhạc sĩ nào đó có thể là một văn nhân cầm bút mà cũng có thể không tùy vào đánh giá của giới mộ điệu văn chương và cánh nhà báo hàng xóm). Bằng cách đó, một cột mốc trong nghiệp viết của họ được đánh dấu, được tô son sơn bóng, được đem ra luận bàn (hoặc không) để thấy rằng nhiều năm công sức trước đó (và sau này) không hề vô ích, rằng họ vẫn có những người đọc (và không) không những đọc mà còn đề cao công sức, ngòi bút của mình (kể cả khi những văn nhân cầm bút không cần người đọc đi chăng nữa – có rất nhiều văn nhân cầm bút đã dứt khoát không chịu xuất bản sách vì sợ không ai đọc hiểu nổi nên họ quyết định không cần người đọc nữa). Vậy nên cứ vào tháng 10, những văn nhân cầm bút hoặc không hoàn toàn có quyền, hợp pháp và chính đáng, chờ đợi hoặc không tên mình được xướng lên ở Stockholm mà không phải bối rối hay ngại ngùng (trong lịch sử, có nhiều văn nhân cự tuyệt hay được cho rằng cự tuyệt các giải thưởng như NVC, nhưng thực tế chưa từng có ai không nhận NVC ngoại trừ một văn nhân bị chính đất nước mình ép buộc cự tuyệt, thành ra họ vẫn chờ trong khi không hề mong chờ). Ngay cả khi tên họ không được xướng lên thì vẫn còn đó giới mộ điệu văn chương của họ cùng cánh nhà báo hàng xóm sẵn sàng sẻ chia với những người làm trong ngành xuất bản rằng thật đáng tiếc, giống như trường hợp của văn nhân cầm bút người Nhật nào đó.

2.

Không như những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương hoàn toàn không phải bận tâm về chuyện tên ai được xướng lên bởi dù bất kỳ tên ai được xướng lên thì cũng không làm thay đổi bản chất sự mộ điệu văn chương của họ. Sự khác nhau có chăng chỉ ở tiểu tiết là họ đã đọc văn nhân cầm bút đó hay chưa và các dòng trạng thái mạng xã hội cũng chỉ thay đổi từ chúc mừng văn nhân cầm bút mà tôi yêu thích đã đoạt NVC thành chúc mừng văn nhân cầm bút (mà tôi chưa yêu thích) đã đoạt NVC. Khác biệt này nhỏ tới mức chỉ có cánh nhà báo hàng xóm hoặc phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – những người rất nhạy bén với sự thay đổi kể từ áp suất không khí trở đi – là nhận ra được. Có thể nói giới mộ điệu văn chương là những người trông ngóng sự kiện công bố NVC diễn ra nhất. Hãn hữu, NVC đóng vai trò như một lời khuyên – của một chuyên gia có số có má, của một nhóm người không phải cánh nhà báo hàng xóm mà cũng mộ điệu văn chương y chang mình – hữu ích giúp họ nắm bắt dòng chảy văn chương thế giới. Còn trong phần lớn trường hợp, giới mộ điệu văn chương không thể chấp nhận một lời khuyên nào khác nếu mớ ngôn từ đầy hoa mỹ đó không xuất phát từ lòng sùng kính văn chương toát ra từ tận đáy lòng rất sâu của họ trong những phiên hóa thân thành các hiệp sĩ của vua Arthur bàn về công cuộc chinh phục nước Pháp sao mãi mà chưa thành.  

3.

Dù có những trợ giúp rất đắc lực cho công cuộc mộ điệu hóa NVC, giới mộ điệu văn chương rốt cuộc cũng chỉ đóng vai trò khán giả trong trường quay, cùng lắm lên được tổ tư vấn tại chỗ; giữ trách nhiệm chính làm NVC lan tỏa trong tháng 10, dậy mùi trong tháng 9 và lưu mùi trong tháng 11 phải kể đến cánh nhà báo hàng xóm. Khỏi phải nói, với biệt tài khai thác thông tin triệt để thiên phú của mình, họ xâu chuỗi tất tần tật những sự kiện xung quanh vào NVC mà không vấp phải một lỗi logic nào – ít nhất là giới mộ điệu văn chương không thấy có vấn đề gì quá to tát làm ảnh hưởng tới sự mộ điệu của họ. Khu vườn thông tin của cánh nhà báo hàng xóm làm nhiễu động không khí Nobel trên cao (và cả dưới thấp), hứa hẹn tạo ra một cơn mưa những đồn đoán, sự thật trong đồn đoán và đồn đoán trong sự thật với mức độ chính xác ngang ngửa với dự báo thời tiết. Ngoài biệt tài truy dấu thông tin, cánh nhà báo hàng xóm còn gây choáng dư luận bằng sức đọc kinh người khi đưa ra những nhận xét vô cùng đáng giá và xác đáng về bất kỳ văn nhân cầm bút hoặc không nào đoạt NVC – những nhận xét với tầm vóc của g**dr**ds và am*z*n – làm cơ sở cho những người làm trong ngành xuất bản thai nghén một xuất bản phẩm để đời.

4.

Với những người làm trong ngành xuất bản mà nói, NVC giống như đợt lụt hằng năm ở châu thổ sông Nile thời cổ đại, vừa là cơ hội để họ gieo mầm cho mùa vụ xuất bản mới, đồng thời cũng đầy rủi ro cho ai dám bước đến một vùng nước lạ. NVC mang đến làn sóng quảng bá rộng rãi cho các văn nhân cầm bút đoạt giải và xuất bản thành phẩm của họ trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm mở rộng phạm vi phân bố người đọc (riêng với NVC là phạm vi toàn cầu) mà bình thường các đơn vị xuất bản không thể nào làm được. Không lạ gì nếu sau một kỳ NVC doanh số bán hàng của một số cuốn sách tăng vọt trong quý cuối năm, thậm chí là được tái bản – một động thái mà nhóm những người đọc và không đọc rất quan tâm còn giới mộ điệu văn chương thì thích thú – mặc dù chỉ mới bán được hết đợt sách xuất bản từ năm bảy năm trước đó hay ít nhất thì thị trường bản quyền cũng trở nên sôi động hơn khi văn nhân cầm bút nào đó được yêu thích giật giải NVC như trong những năm 20xx, 20xy, 20zt… hoặc là không – không giật giải cũng đâu có sao, miễn là sách bán chạy. Vì thế, những người làm trong ngành xuất bản dõi theo nhất cử nhất động của NVC, đâu phải vì cái danh hão mà NVC ịn lên đai obi, cũng đâu phải vì mớ lợi ích cỏn con thu được trong quý cuối năm nhất là khi đợt lũ năm ngoái gây thiệt hại nặng nề cho ba quý đầu năm bởi bầy cá sấu định danh Covid-19 không biết từ đâu đột nhiên chui ra; đâu phải những điều ấy, họ dõi theo cũng chỉ vì muốn đem văn chương hàn lâm phổ cập đại chúng – một việc làm hết sức cao quý mà chỉ có các lớp “bình dân học vụ” hơn bảy mươi năm trước mới sánh bằng.

5.

Những người đọc và không đọc tiếp nhận NVC nhẹ nhàng hơn những nhóm người khác. Họ không có sự nhiệt thành như giới mộ điệu văn chương, cũng không có một nền tảng kiến thức uyên thâm như cánh nhà báo hàng xóm, lại không có khả năng nắm bắt tinh tế như những người làm trong ngành xuất bản và hiển nhiên, càng không có tài năng văn chương như những văn nhân cầm bút (nên họ không mong chờ mình được xướng tên). Họ tiếp nhận NVC trong cách nhìn nhận gần sát với ý nghĩa sơ khai của nó, rằng NVC giống một sự bảo chứng cho tên tuổi của văn nhân cầm bút được Ủy ban Nobel công nhận và đôi khi tầm vóc của văn nhân cầm bút đó làm cho NVC có thêm sức nặng. Bởi cách nhìn nhận như vậy cùng truyền thống cho rằng NVC là một giải thưởng hàn lâm – khác với các giải thưởng đại chúng chẳng mấy quan trọng mà ai cũng đọc được (hoặc không) – được dựng nên bởi những văn nhân cầm bút hoặc không và giới mộ điệu văn chương, những người đọc và không đọc rất có thể sẽ đi theo hai hướng chính: những người đọc thì quyết định không đọc còn những người không đọc thì quyết định đọc hoặc tiếp tục không đọc – việc đọc đâu có ích gì khi đã có một hệ thống chỉ dẫn chi tiết để nói về những cuốn sách chưa đọc, mà hơn nữa rất có thể họ không đọc vì thực ra đã đọc rồi nhưng lại quên mất là đã đọc vì thế thôi thì cứ coi như đã đọc – văn nhân cầm bút hoặc không đoạt NVC năm đó. Rất có thể đó là những điều duy nhất họ nhớ về NVC hoặc không.   

6.

Trong những năm gần đây, khi nói đến một giải thưởng bất kỳ không thể không nhắc đến người da màu (không kể màu trắng vì đã nhắc đến quá nhiều rồi) và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia, tất nhiên là bởi những đóng góp quan trọng của họ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của đám trắng và đám không phải cộng đồng LGBT, đám đàn ông không thể có thai và đám chính trị gia. NVC cũng không ngoại lệ. NVC lúc này có ý nghĩa tựa một bản tuyên ngôn cho sự bình đẳng mà nhóm người ở trên khao khát như họ đã khao khát trong suốt chiều dài lịch sử văn minh nhân loại. Dưới con mắt những người này, NVC chỉ có ý nghĩa trong duy nhất khoảnh khắc xướng tên người đoạt giải, năm này qua năm khác chỉ khoảnh khắc đó, cho đến khi nó tích tụ đủ năng lượng, đủ để trở thành một món quà nhưng trông như scandal có hạng gửi thẳng hoặc xéo đến Ủy ban Nobel, nếu trong một thời gian đủ dài vẫn không có đủ người thuộc nhóm của họ may mắn đoạt giải như cách diễn đạt vô cùng khiêm tốn của cánh nhà báo hàng xóm – những người mong chờ món quà này như mong chờ bất cứ món quà nào khác trong bất cứ dịp nào khác của mọi kiếp luân hồi. Còn những văn nhân cầm bút hoặc không, những người đọc và không đọc và những người làm trong ngành xuất bản sẽ giữ một thái độ rất mực thờ ơ trong khi bày tỏ các quan điểm sắc nét rõ ràng lấp ló dưới tấm áo choàng biện chứng tài tình giàu hình ảnh ẩn dụ và tràn ngập màu sắc ý nghĩa mà tưởng chừng nếu họ không nói ra, không ai biết rằng cái món quà-scandal kia lại sâu sắc đến vậy.

0. Nhưng có thể, đối với tất cả, NVC cũng chỉ là một giải thưởng mà thôi!

Hết.

Thiên Nguyên

*

Chuyện Nobel Văn chương



Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng