Trà chiều

Ngày tháng Mười chưa cười Nobel đã tới

Published

on

Kể từ đợt bùng nổ trong ngành xuất bản cách đây khoảng 15 năm, thị trường sách liên tục mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cùng với đó là một thế hệ người đọc mới ra đời – những người đồng thời tiếp xúc với sách vở và internet. Internet đã làm thay đổi thói quen đọc sách rất đáng kể, thay thế cho hệ thống truyền miệng-tay lỗi thời và thiếu chính xác với slogan “lưu hành nội bộ”, biến sự đọc trở thành văn hóa đại chúng đến nỗi có thể được đưa ra làm chủ đề trong bữa ăn tối ấm áp, khi mà ai đó vừa gỡ được miếng thịt mắc trong kẽ răng bèn thốt lên – khi TV vừa ra rả về ai khác đoạt giải Nobel Văn chương (NVC) – rằng thứ này khó nhai quá. Cứ như thế, rất tự nhiên, vào tháng 10 hằng năm thì người ta – những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương, cánh nhà báo hàng xóm, những người làm trong ngành xuất bản, những người đọc và không đọc, người da màu và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – lại hướng ánh nhìn về trời Âu để dõi theo lễ trao giải Nobel hay Booker đều đặn như bọn con nít nhiệt liệt chào mừng ngày 2*/*0 còn chị em ngóng trông Halloween. Chính vì mang sức hút khó cưỡng với mọi giai tầng như vậy nên không có gì bất ngờ khi NVC được thực thể hóa thành một con tắc kè liên tục chuyển mình giữa cơ man là màu sắc.

1.

Trở lại với những văn nhân cầm bút hoặc không, NVC rõ ràng mang màu sắc của sự công nhận: sự công nhận của giới mộ điệu văn chương, của những người đọc và không đọc, hay đôi khi là cả hai đối với những văn nhân cầm bút (hoặc không – như nhạc sĩ nào đó có thể là một văn nhân cầm bút mà cũng có thể không tùy vào đánh giá của giới mộ điệu văn chương và cánh nhà báo hàng xóm). Bằng cách đó, một cột mốc trong nghiệp viết của họ được đánh dấu, được tô son sơn bóng, được đem ra luận bàn (hoặc không) để thấy rằng nhiều năm công sức trước đó (và sau này) không hề vô ích, rằng họ vẫn có những người đọc (và không) không những đọc mà còn đề cao công sức, ngòi bút của mình (kể cả khi những văn nhân cầm bút không cần người đọc đi chăng nữa – có rất nhiều văn nhân cầm bút đã dứt khoát không chịu xuất bản sách vì sợ không ai đọc hiểu nổi nên họ quyết định không cần người đọc nữa). Vậy nên cứ vào tháng 10, những văn nhân cầm bút hoặc không hoàn toàn có quyền, hợp pháp và chính đáng, chờ đợi hoặc không tên mình được xướng lên ở Stockholm mà không phải bối rối hay ngại ngùng (trong lịch sử, có nhiều văn nhân cự tuyệt hay được cho rằng cự tuyệt các giải thưởng như NVC, nhưng thực tế chưa từng có ai không nhận NVC ngoại trừ một văn nhân bị chính đất nước mình ép buộc cự tuyệt, thành ra họ vẫn chờ trong khi không hề mong chờ). Ngay cả khi tên họ không được xướng lên thì vẫn còn đó giới mộ điệu văn chương của họ cùng cánh nhà báo hàng xóm sẵn sàng sẻ chia với những người làm trong ngành xuất bản rằng thật đáng tiếc, giống như trường hợp của văn nhân cầm bút người Nhật nào đó.

2.

Không như những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương hoàn toàn không phải bận tâm về chuyện tên ai được xướng lên bởi dù bất kỳ tên ai được xướng lên thì cũng không làm thay đổi bản chất sự mộ điệu văn chương của họ. Sự khác nhau có chăng chỉ ở tiểu tiết là họ đã đọc văn nhân cầm bút đó hay chưa và các dòng trạng thái mạng xã hội cũng chỉ thay đổi từ chúc mừng văn nhân cầm bút mà tôi yêu thích đã đoạt NVC thành chúc mừng văn nhân cầm bút (mà tôi chưa yêu thích) đã đoạt NVC. Khác biệt này nhỏ tới mức chỉ có cánh nhà báo hàng xóm hoặc phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – những người rất nhạy bén với sự thay đổi kể từ áp suất không khí trở đi – là nhận ra được. Có thể nói giới mộ điệu văn chương là những người trông ngóng sự kiện công bố NVC diễn ra nhất. Hãn hữu, NVC đóng vai trò như một lời khuyên – của một chuyên gia có số có má, của một nhóm người không phải cánh nhà báo hàng xóm mà cũng mộ điệu văn chương y chang mình – hữu ích giúp họ nắm bắt dòng chảy văn chương thế giới. Còn trong phần lớn trường hợp, giới mộ điệu văn chương không thể chấp nhận một lời khuyên nào khác nếu mớ ngôn từ đầy hoa mỹ đó không xuất phát từ lòng sùng kính văn chương toát ra từ tận đáy lòng rất sâu của họ trong những phiên hóa thân thành các hiệp sĩ của vua Arthur bàn về công cuộc chinh phục nước Pháp sao mãi mà chưa thành.  

3.

Dù có những trợ giúp rất đắc lực cho công cuộc mộ điệu hóa NVC, giới mộ điệu văn chương rốt cuộc cũng chỉ đóng vai trò khán giả trong trường quay, cùng lắm lên được tổ tư vấn tại chỗ; giữ trách nhiệm chính làm NVC lan tỏa trong tháng 10, dậy mùi trong tháng 9 và lưu mùi trong tháng 11 phải kể đến cánh nhà báo hàng xóm. Khỏi phải nói, với biệt tài khai thác thông tin triệt để thiên phú của mình, họ xâu chuỗi tất tần tật những sự kiện xung quanh vào NVC mà không vấp phải một lỗi logic nào – ít nhất là giới mộ điệu văn chương không thấy có vấn đề gì quá to tát làm ảnh hưởng tới sự mộ điệu của họ. Khu vườn thông tin của cánh nhà báo hàng xóm làm nhiễu động không khí Nobel trên cao (và cả dưới thấp), hứa hẹn tạo ra một cơn mưa những đồn đoán, sự thật trong đồn đoán và đồn đoán trong sự thật với mức độ chính xác ngang ngửa với dự báo thời tiết. Ngoài biệt tài truy dấu thông tin, cánh nhà báo hàng xóm còn gây choáng dư luận bằng sức đọc kinh người khi đưa ra những nhận xét vô cùng đáng giá và xác đáng về bất kỳ văn nhân cầm bút hoặc không nào đoạt NVC – những nhận xét với tầm vóc của g**dr**ds và am*z*n – làm cơ sở cho những người làm trong ngành xuất bản thai nghén một xuất bản phẩm để đời.

4.

Với những người làm trong ngành xuất bản mà nói, NVC giống như đợt lụt hằng năm ở châu thổ sông Nile thời cổ đại, vừa là cơ hội để họ gieo mầm cho mùa vụ xuất bản mới, đồng thời cũng đầy rủi ro cho ai dám bước đến một vùng nước lạ. NVC mang đến làn sóng quảng bá rộng rãi cho các văn nhân cầm bút đoạt giải và xuất bản thành phẩm của họ trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm mở rộng phạm vi phân bố người đọc (riêng với NVC là phạm vi toàn cầu) mà bình thường các đơn vị xuất bản không thể nào làm được. Không lạ gì nếu sau một kỳ NVC doanh số bán hàng của một số cuốn sách tăng vọt trong quý cuối năm, thậm chí là được tái bản – một động thái mà nhóm những người đọc và không đọc rất quan tâm còn giới mộ điệu văn chương thì thích thú – mặc dù chỉ mới bán được hết đợt sách xuất bản từ năm bảy năm trước đó hay ít nhất thì thị trường bản quyền cũng trở nên sôi động hơn khi văn nhân cầm bút nào đó được yêu thích giật giải NVC như trong những năm 20xx, 20xy, 20zt… hoặc là không – không giật giải cũng đâu có sao, miễn là sách bán chạy. Vì thế, những người làm trong ngành xuất bản dõi theo nhất cử nhất động của NVC, đâu phải vì cái danh hão mà NVC ịn lên đai obi, cũng đâu phải vì mớ lợi ích cỏn con thu được trong quý cuối năm nhất là khi đợt lũ năm ngoái gây thiệt hại nặng nề cho ba quý đầu năm bởi bầy cá sấu định danh Covid-19 không biết từ đâu đột nhiên chui ra; đâu phải những điều ấy, họ dõi theo cũng chỉ vì muốn đem văn chương hàn lâm phổ cập đại chúng – một việc làm hết sức cao quý mà chỉ có các lớp “bình dân học vụ” hơn bảy mươi năm trước mới sánh bằng.

5.

Những người đọc và không đọc tiếp nhận NVC nhẹ nhàng hơn những nhóm người khác. Họ không có sự nhiệt thành như giới mộ điệu văn chương, cũng không có một nền tảng kiến thức uyên thâm như cánh nhà báo hàng xóm, lại không có khả năng nắm bắt tinh tế như những người làm trong ngành xuất bản và hiển nhiên, càng không có tài năng văn chương như những văn nhân cầm bút (nên họ không mong chờ mình được xướng tên). Họ tiếp nhận NVC trong cách nhìn nhận gần sát với ý nghĩa sơ khai của nó, rằng NVC giống một sự bảo chứng cho tên tuổi của văn nhân cầm bút được Ủy ban Nobel công nhận và đôi khi tầm vóc của văn nhân cầm bút đó làm cho NVC có thêm sức nặng. Bởi cách nhìn nhận như vậy cùng truyền thống cho rằng NVC là một giải thưởng hàn lâm – khác với các giải thưởng đại chúng chẳng mấy quan trọng mà ai cũng đọc được (hoặc không) – được dựng nên bởi những văn nhân cầm bút hoặc không và giới mộ điệu văn chương, những người đọc và không đọc rất có thể sẽ đi theo hai hướng chính: những người đọc thì quyết định không đọc còn những người không đọc thì quyết định đọc hoặc tiếp tục không đọc – việc đọc đâu có ích gì khi đã có một hệ thống chỉ dẫn chi tiết để nói về những cuốn sách chưa đọc, mà hơn nữa rất có thể họ không đọc vì thực ra đã đọc rồi nhưng lại quên mất là đã đọc vì thế thôi thì cứ coi như đã đọc – văn nhân cầm bút hoặc không đoạt NVC năm đó. Rất có thể đó là những điều duy nhất họ nhớ về NVC hoặc không.   

6.

Trong những năm gần đây, khi nói đến một giải thưởng bất kỳ không thể không nhắc đến người da màu (không kể màu trắng vì đã nhắc đến quá nhiều rồi) và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia, tất nhiên là bởi những đóng góp quan trọng của họ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của đám trắng và đám không phải cộng đồng LGBT, đám đàn ông không thể có thai và đám chính trị gia. NVC cũng không ngoại lệ. NVC lúc này có ý nghĩa tựa một bản tuyên ngôn cho sự bình đẳng mà nhóm người ở trên khao khát như họ đã khao khát trong suốt chiều dài lịch sử văn minh nhân loại. Dưới con mắt những người này, NVC chỉ có ý nghĩa trong duy nhất khoảnh khắc xướng tên người đoạt giải, năm này qua năm khác chỉ khoảnh khắc đó, cho đến khi nó tích tụ đủ năng lượng, đủ để trở thành một món quà nhưng trông như scandal có hạng gửi thẳng hoặc xéo đến Ủy ban Nobel, nếu trong một thời gian đủ dài vẫn không có đủ người thuộc nhóm của họ may mắn đoạt giải như cách diễn đạt vô cùng khiêm tốn của cánh nhà báo hàng xóm – những người mong chờ món quà này như mong chờ bất cứ món quà nào khác trong bất cứ dịp nào khác của mọi kiếp luân hồi. Còn những văn nhân cầm bút hoặc không, những người đọc và không đọc và những người làm trong ngành xuất bản sẽ giữ một thái độ rất mực thờ ơ trong khi bày tỏ các quan điểm sắc nét rõ ràng lấp ló dưới tấm áo choàng biện chứng tài tình giàu hình ảnh ẩn dụ và tràn ngập màu sắc ý nghĩa mà tưởng chừng nếu họ không nói ra, không ai biết rằng cái món quà-scandal kia lại sâu sắc đến vậy.

0. Nhưng có thể, đối với tất cả, NVC cũng chỉ là một giải thưởng mà thôi!

Hết.

Thiên Nguyên

*

Chuyện Nobel Văn chương



Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng