Trà chiều

Ngày tháng Mười chưa cười Nobel đã tới

Published

on

Kể từ đợt bùng nổ trong ngành xuất bản cách đây khoảng 15 năm, thị trường sách liên tục mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cùng với đó là một thế hệ người đọc mới ra đời – những người đồng thời tiếp xúc với sách vở và internet. Internet đã làm thay đổi thói quen đọc sách rất đáng kể, thay thế cho hệ thống truyền miệng-tay lỗi thời và thiếu chính xác với slogan “lưu hành nội bộ”, biến sự đọc trở thành văn hóa đại chúng đến nỗi có thể được đưa ra làm chủ đề trong bữa ăn tối ấm áp, khi mà ai đó vừa gỡ được miếng thịt mắc trong kẽ răng bèn thốt lên – khi TV vừa ra rả về ai khác đoạt giải Nobel Văn chương (NVC) – rằng thứ này khó nhai quá. Cứ như thế, rất tự nhiên, vào tháng 10 hằng năm thì người ta – những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương, cánh nhà báo hàng xóm, những người làm trong ngành xuất bản, những người đọc và không đọc, người da màu và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – lại hướng ánh nhìn về trời Âu để dõi theo lễ trao giải Nobel hay Booker đều đặn như bọn con nít nhiệt liệt chào mừng ngày 2*/*0 còn chị em ngóng trông Halloween. Chính vì mang sức hút khó cưỡng với mọi giai tầng như vậy nên không có gì bất ngờ khi NVC được thực thể hóa thành một con tắc kè liên tục chuyển mình giữa cơ man là màu sắc.

1.

Trở lại với những văn nhân cầm bút hoặc không, NVC rõ ràng mang màu sắc của sự công nhận: sự công nhận của giới mộ điệu văn chương, của những người đọc và không đọc, hay đôi khi là cả hai đối với những văn nhân cầm bút (hoặc không – như nhạc sĩ nào đó có thể là một văn nhân cầm bút mà cũng có thể không tùy vào đánh giá của giới mộ điệu văn chương và cánh nhà báo hàng xóm). Bằng cách đó, một cột mốc trong nghiệp viết của họ được đánh dấu, được tô son sơn bóng, được đem ra luận bàn (hoặc không) để thấy rằng nhiều năm công sức trước đó (và sau này) không hề vô ích, rằng họ vẫn có những người đọc (và không) không những đọc mà còn đề cao công sức, ngòi bút của mình (kể cả khi những văn nhân cầm bút không cần người đọc đi chăng nữa – có rất nhiều văn nhân cầm bút đã dứt khoát không chịu xuất bản sách vì sợ không ai đọc hiểu nổi nên họ quyết định không cần người đọc nữa). Vậy nên cứ vào tháng 10, những văn nhân cầm bút hoặc không hoàn toàn có quyền, hợp pháp và chính đáng, chờ đợi hoặc không tên mình được xướng lên ở Stockholm mà không phải bối rối hay ngại ngùng (trong lịch sử, có nhiều văn nhân cự tuyệt hay được cho rằng cự tuyệt các giải thưởng như NVC, nhưng thực tế chưa từng có ai không nhận NVC ngoại trừ một văn nhân bị chính đất nước mình ép buộc cự tuyệt, thành ra họ vẫn chờ trong khi không hề mong chờ). Ngay cả khi tên họ không được xướng lên thì vẫn còn đó giới mộ điệu văn chương của họ cùng cánh nhà báo hàng xóm sẵn sàng sẻ chia với những người làm trong ngành xuất bản rằng thật đáng tiếc, giống như trường hợp của văn nhân cầm bút người Nhật nào đó.

2.

Không như những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương hoàn toàn không phải bận tâm về chuyện tên ai được xướng lên bởi dù bất kỳ tên ai được xướng lên thì cũng không làm thay đổi bản chất sự mộ điệu văn chương của họ. Sự khác nhau có chăng chỉ ở tiểu tiết là họ đã đọc văn nhân cầm bút đó hay chưa và các dòng trạng thái mạng xã hội cũng chỉ thay đổi từ chúc mừng văn nhân cầm bút mà tôi yêu thích đã đoạt NVC thành chúc mừng văn nhân cầm bút (mà tôi chưa yêu thích) đã đoạt NVC. Khác biệt này nhỏ tới mức chỉ có cánh nhà báo hàng xóm hoặc phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – những người rất nhạy bén với sự thay đổi kể từ áp suất không khí trở đi – là nhận ra được. Có thể nói giới mộ điệu văn chương là những người trông ngóng sự kiện công bố NVC diễn ra nhất. Hãn hữu, NVC đóng vai trò như một lời khuyên – của một chuyên gia có số có má, của một nhóm người không phải cánh nhà báo hàng xóm mà cũng mộ điệu văn chương y chang mình – hữu ích giúp họ nắm bắt dòng chảy văn chương thế giới. Còn trong phần lớn trường hợp, giới mộ điệu văn chương không thể chấp nhận một lời khuyên nào khác nếu mớ ngôn từ đầy hoa mỹ đó không xuất phát từ lòng sùng kính văn chương toát ra từ tận đáy lòng rất sâu của họ trong những phiên hóa thân thành các hiệp sĩ của vua Arthur bàn về công cuộc chinh phục nước Pháp sao mãi mà chưa thành.  

3.

Dù có những trợ giúp rất đắc lực cho công cuộc mộ điệu hóa NVC, giới mộ điệu văn chương rốt cuộc cũng chỉ đóng vai trò khán giả trong trường quay, cùng lắm lên được tổ tư vấn tại chỗ; giữ trách nhiệm chính làm NVC lan tỏa trong tháng 10, dậy mùi trong tháng 9 và lưu mùi trong tháng 11 phải kể đến cánh nhà báo hàng xóm. Khỏi phải nói, với biệt tài khai thác thông tin triệt để thiên phú của mình, họ xâu chuỗi tất tần tật những sự kiện xung quanh vào NVC mà không vấp phải một lỗi logic nào – ít nhất là giới mộ điệu văn chương không thấy có vấn đề gì quá to tát làm ảnh hưởng tới sự mộ điệu của họ. Khu vườn thông tin của cánh nhà báo hàng xóm làm nhiễu động không khí Nobel trên cao (và cả dưới thấp), hứa hẹn tạo ra một cơn mưa những đồn đoán, sự thật trong đồn đoán và đồn đoán trong sự thật với mức độ chính xác ngang ngửa với dự báo thời tiết. Ngoài biệt tài truy dấu thông tin, cánh nhà báo hàng xóm còn gây choáng dư luận bằng sức đọc kinh người khi đưa ra những nhận xét vô cùng đáng giá và xác đáng về bất kỳ văn nhân cầm bút hoặc không nào đoạt NVC – những nhận xét với tầm vóc của g**dr**ds và am*z*n – làm cơ sở cho những người làm trong ngành xuất bản thai nghén một xuất bản phẩm để đời.

4.

Với những người làm trong ngành xuất bản mà nói, NVC giống như đợt lụt hằng năm ở châu thổ sông Nile thời cổ đại, vừa là cơ hội để họ gieo mầm cho mùa vụ xuất bản mới, đồng thời cũng đầy rủi ro cho ai dám bước đến một vùng nước lạ. NVC mang đến làn sóng quảng bá rộng rãi cho các văn nhân cầm bút đoạt giải và xuất bản thành phẩm của họ trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm mở rộng phạm vi phân bố người đọc (riêng với NVC là phạm vi toàn cầu) mà bình thường các đơn vị xuất bản không thể nào làm được. Không lạ gì nếu sau một kỳ NVC doanh số bán hàng của một số cuốn sách tăng vọt trong quý cuối năm, thậm chí là được tái bản – một động thái mà nhóm những người đọc và không đọc rất quan tâm còn giới mộ điệu văn chương thì thích thú – mặc dù chỉ mới bán được hết đợt sách xuất bản từ năm bảy năm trước đó hay ít nhất thì thị trường bản quyền cũng trở nên sôi động hơn khi văn nhân cầm bút nào đó được yêu thích giật giải NVC như trong những năm 20xx, 20xy, 20zt… hoặc là không – không giật giải cũng đâu có sao, miễn là sách bán chạy. Vì thế, những người làm trong ngành xuất bản dõi theo nhất cử nhất động của NVC, đâu phải vì cái danh hão mà NVC ịn lên đai obi, cũng đâu phải vì mớ lợi ích cỏn con thu được trong quý cuối năm nhất là khi đợt lũ năm ngoái gây thiệt hại nặng nề cho ba quý đầu năm bởi bầy cá sấu định danh Covid-19 không biết từ đâu đột nhiên chui ra; đâu phải những điều ấy, họ dõi theo cũng chỉ vì muốn đem văn chương hàn lâm phổ cập đại chúng – một việc làm hết sức cao quý mà chỉ có các lớp “bình dân học vụ” hơn bảy mươi năm trước mới sánh bằng.

5.

Những người đọc và không đọc tiếp nhận NVC nhẹ nhàng hơn những nhóm người khác. Họ không có sự nhiệt thành như giới mộ điệu văn chương, cũng không có một nền tảng kiến thức uyên thâm như cánh nhà báo hàng xóm, lại không có khả năng nắm bắt tinh tế như những người làm trong ngành xuất bản và hiển nhiên, càng không có tài năng văn chương như những văn nhân cầm bút (nên họ không mong chờ mình được xướng tên). Họ tiếp nhận NVC trong cách nhìn nhận gần sát với ý nghĩa sơ khai của nó, rằng NVC giống một sự bảo chứng cho tên tuổi của văn nhân cầm bút được Ủy ban Nobel công nhận và đôi khi tầm vóc của văn nhân cầm bút đó làm cho NVC có thêm sức nặng. Bởi cách nhìn nhận như vậy cùng truyền thống cho rằng NVC là một giải thưởng hàn lâm – khác với các giải thưởng đại chúng chẳng mấy quan trọng mà ai cũng đọc được (hoặc không) – được dựng nên bởi những văn nhân cầm bút hoặc không và giới mộ điệu văn chương, những người đọc và không đọc rất có thể sẽ đi theo hai hướng chính: những người đọc thì quyết định không đọc còn những người không đọc thì quyết định đọc hoặc tiếp tục không đọc – việc đọc đâu có ích gì khi đã có một hệ thống chỉ dẫn chi tiết để nói về những cuốn sách chưa đọc, mà hơn nữa rất có thể họ không đọc vì thực ra đã đọc rồi nhưng lại quên mất là đã đọc vì thế thôi thì cứ coi như đã đọc – văn nhân cầm bút hoặc không đoạt NVC năm đó. Rất có thể đó là những điều duy nhất họ nhớ về NVC hoặc không.   

6.

Trong những năm gần đây, khi nói đến một giải thưởng bất kỳ không thể không nhắc đến người da màu (không kể màu trắng vì đã nhắc đến quá nhiều rồi) và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia, tất nhiên là bởi những đóng góp quan trọng của họ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của đám trắng và đám không phải cộng đồng LGBT, đám đàn ông không thể có thai và đám chính trị gia. NVC cũng không ngoại lệ. NVC lúc này có ý nghĩa tựa một bản tuyên ngôn cho sự bình đẳng mà nhóm người ở trên khao khát như họ đã khao khát trong suốt chiều dài lịch sử văn minh nhân loại. Dưới con mắt những người này, NVC chỉ có ý nghĩa trong duy nhất khoảnh khắc xướng tên người đoạt giải, năm này qua năm khác chỉ khoảnh khắc đó, cho đến khi nó tích tụ đủ năng lượng, đủ để trở thành một món quà nhưng trông như scandal có hạng gửi thẳng hoặc xéo đến Ủy ban Nobel, nếu trong một thời gian đủ dài vẫn không có đủ người thuộc nhóm của họ may mắn đoạt giải như cách diễn đạt vô cùng khiêm tốn của cánh nhà báo hàng xóm – những người mong chờ món quà này như mong chờ bất cứ món quà nào khác trong bất cứ dịp nào khác của mọi kiếp luân hồi. Còn những văn nhân cầm bút hoặc không, những người đọc và không đọc và những người làm trong ngành xuất bản sẽ giữ một thái độ rất mực thờ ơ trong khi bày tỏ các quan điểm sắc nét rõ ràng lấp ló dưới tấm áo choàng biện chứng tài tình giàu hình ảnh ẩn dụ và tràn ngập màu sắc ý nghĩa mà tưởng chừng nếu họ không nói ra, không ai biết rằng cái món quà-scandal kia lại sâu sắc đến vậy.

0. Nhưng có thể, đối với tất cả, NVC cũng chỉ là một giải thưởng mà thôi!

Hết.

Thiên Nguyên

*

Chuyện Nobel Văn chương



Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng