Trà chiều

Ngày tháng Mười chưa cười Nobel đã tới

Published

on

Kể từ đợt bùng nổ trong ngành xuất bản cách đây khoảng 15 năm, thị trường sách liên tục mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cùng với đó là một thế hệ người đọc mới ra đời – những người đồng thời tiếp xúc với sách vở và internet. Internet đã làm thay đổi thói quen đọc sách rất đáng kể, thay thế cho hệ thống truyền miệng-tay lỗi thời và thiếu chính xác với slogan “lưu hành nội bộ”, biến sự đọc trở thành văn hóa đại chúng đến nỗi có thể được đưa ra làm chủ đề trong bữa ăn tối ấm áp, khi mà ai đó vừa gỡ được miếng thịt mắc trong kẽ răng bèn thốt lên – khi TV vừa ra rả về ai khác đoạt giải Nobel Văn chương (NVC) – rằng thứ này khó nhai quá. Cứ như thế, rất tự nhiên, vào tháng 10 hằng năm thì người ta – những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương, cánh nhà báo hàng xóm, những người làm trong ngành xuất bản, những người đọc và không đọc, người da màu và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – lại hướng ánh nhìn về trời Âu để dõi theo lễ trao giải Nobel hay Booker đều đặn như bọn con nít nhiệt liệt chào mừng ngày 2*/*0 còn chị em ngóng trông Halloween. Chính vì mang sức hút khó cưỡng với mọi giai tầng như vậy nên không có gì bất ngờ khi NVC được thực thể hóa thành một con tắc kè liên tục chuyển mình giữa cơ man là màu sắc.

1.

Trở lại với những văn nhân cầm bút hoặc không, NVC rõ ràng mang màu sắc của sự công nhận: sự công nhận của giới mộ điệu văn chương, của những người đọc và không đọc, hay đôi khi là cả hai đối với những văn nhân cầm bút (hoặc không – như nhạc sĩ nào đó có thể là một văn nhân cầm bút mà cũng có thể không tùy vào đánh giá của giới mộ điệu văn chương và cánh nhà báo hàng xóm). Bằng cách đó, một cột mốc trong nghiệp viết của họ được đánh dấu, được tô son sơn bóng, được đem ra luận bàn (hoặc không) để thấy rằng nhiều năm công sức trước đó (và sau này) không hề vô ích, rằng họ vẫn có những người đọc (và không) không những đọc mà còn đề cao công sức, ngòi bút của mình (kể cả khi những văn nhân cầm bút không cần người đọc đi chăng nữa – có rất nhiều văn nhân cầm bút đã dứt khoát không chịu xuất bản sách vì sợ không ai đọc hiểu nổi nên họ quyết định không cần người đọc nữa). Vậy nên cứ vào tháng 10, những văn nhân cầm bút hoặc không hoàn toàn có quyền, hợp pháp và chính đáng, chờ đợi hoặc không tên mình được xướng lên ở Stockholm mà không phải bối rối hay ngại ngùng (trong lịch sử, có nhiều văn nhân cự tuyệt hay được cho rằng cự tuyệt các giải thưởng như NVC, nhưng thực tế chưa từng có ai không nhận NVC ngoại trừ một văn nhân bị chính đất nước mình ép buộc cự tuyệt, thành ra họ vẫn chờ trong khi không hề mong chờ). Ngay cả khi tên họ không được xướng lên thì vẫn còn đó giới mộ điệu văn chương của họ cùng cánh nhà báo hàng xóm sẵn sàng sẻ chia với những người làm trong ngành xuất bản rằng thật đáng tiếc, giống như trường hợp của văn nhân cầm bút người Nhật nào đó.

2.

Không như những văn nhân cầm bút hoặc không, giới mộ điệu văn chương hoàn toàn không phải bận tâm về chuyện tên ai được xướng lên bởi dù bất kỳ tên ai được xướng lên thì cũng không làm thay đổi bản chất sự mộ điệu văn chương của họ. Sự khác nhau có chăng chỉ ở tiểu tiết là họ đã đọc văn nhân cầm bút đó hay chưa và các dòng trạng thái mạng xã hội cũng chỉ thay đổi từ chúc mừng văn nhân cầm bút mà tôi yêu thích đã đoạt NVC thành chúc mừng văn nhân cầm bút (mà tôi chưa yêu thích) đã đoạt NVC. Khác biệt này nhỏ tới mức chỉ có cánh nhà báo hàng xóm hoặc phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia – những người rất nhạy bén với sự thay đổi kể từ áp suất không khí trở đi – là nhận ra được. Có thể nói giới mộ điệu văn chương là những người trông ngóng sự kiện công bố NVC diễn ra nhất. Hãn hữu, NVC đóng vai trò như một lời khuyên – của một chuyên gia có số có má, của một nhóm người không phải cánh nhà báo hàng xóm mà cũng mộ điệu văn chương y chang mình – hữu ích giúp họ nắm bắt dòng chảy văn chương thế giới. Còn trong phần lớn trường hợp, giới mộ điệu văn chương không thể chấp nhận một lời khuyên nào khác nếu mớ ngôn từ đầy hoa mỹ đó không xuất phát từ lòng sùng kính văn chương toát ra từ tận đáy lòng rất sâu của họ trong những phiên hóa thân thành các hiệp sĩ của vua Arthur bàn về công cuộc chinh phục nước Pháp sao mãi mà chưa thành.  

3.

Dù có những trợ giúp rất đắc lực cho công cuộc mộ điệu hóa NVC, giới mộ điệu văn chương rốt cuộc cũng chỉ đóng vai trò khán giả trong trường quay, cùng lắm lên được tổ tư vấn tại chỗ; giữ trách nhiệm chính làm NVC lan tỏa trong tháng 10, dậy mùi trong tháng 9 và lưu mùi trong tháng 11 phải kể đến cánh nhà báo hàng xóm. Khỏi phải nói, với biệt tài khai thác thông tin triệt để thiên phú của mình, họ xâu chuỗi tất tần tật những sự kiện xung quanh vào NVC mà không vấp phải một lỗi logic nào – ít nhất là giới mộ điệu văn chương không thấy có vấn đề gì quá to tát làm ảnh hưởng tới sự mộ điệu của họ. Khu vườn thông tin của cánh nhà báo hàng xóm làm nhiễu động không khí Nobel trên cao (và cả dưới thấp), hứa hẹn tạo ra một cơn mưa những đồn đoán, sự thật trong đồn đoán và đồn đoán trong sự thật với mức độ chính xác ngang ngửa với dự báo thời tiết. Ngoài biệt tài truy dấu thông tin, cánh nhà báo hàng xóm còn gây choáng dư luận bằng sức đọc kinh người khi đưa ra những nhận xét vô cùng đáng giá và xác đáng về bất kỳ văn nhân cầm bút hoặc không nào đoạt NVC – những nhận xét với tầm vóc của g**dr**ds và am*z*n – làm cơ sở cho những người làm trong ngành xuất bản thai nghén một xuất bản phẩm để đời.

4.

Với những người làm trong ngành xuất bản mà nói, NVC giống như đợt lụt hằng năm ở châu thổ sông Nile thời cổ đại, vừa là cơ hội để họ gieo mầm cho mùa vụ xuất bản mới, đồng thời cũng đầy rủi ro cho ai dám bước đến một vùng nước lạ. NVC mang đến làn sóng quảng bá rộng rãi cho các văn nhân cầm bút đoạt giải và xuất bản thành phẩm của họ trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm mở rộng phạm vi phân bố người đọc (riêng với NVC là phạm vi toàn cầu) mà bình thường các đơn vị xuất bản không thể nào làm được. Không lạ gì nếu sau một kỳ NVC doanh số bán hàng của một số cuốn sách tăng vọt trong quý cuối năm, thậm chí là được tái bản – một động thái mà nhóm những người đọc và không đọc rất quan tâm còn giới mộ điệu văn chương thì thích thú – mặc dù chỉ mới bán được hết đợt sách xuất bản từ năm bảy năm trước đó hay ít nhất thì thị trường bản quyền cũng trở nên sôi động hơn khi văn nhân cầm bút nào đó được yêu thích giật giải NVC như trong những năm 20xx, 20xy, 20zt… hoặc là không – không giật giải cũng đâu có sao, miễn là sách bán chạy. Vì thế, những người làm trong ngành xuất bản dõi theo nhất cử nhất động của NVC, đâu phải vì cái danh hão mà NVC ịn lên đai obi, cũng đâu phải vì mớ lợi ích cỏn con thu được trong quý cuối năm nhất là khi đợt lũ năm ngoái gây thiệt hại nặng nề cho ba quý đầu năm bởi bầy cá sấu định danh Covid-19 không biết từ đâu đột nhiên chui ra; đâu phải những điều ấy, họ dõi theo cũng chỉ vì muốn đem văn chương hàn lâm phổ cập đại chúng – một việc làm hết sức cao quý mà chỉ có các lớp “bình dân học vụ” hơn bảy mươi năm trước mới sánh bằng.

5.

Những người đọc và không đọc tiếp nhận NVC nhẹ nhàng hơn những nhóm người khác. Họ không có sự nhiệt thành như giới mộ điệu văn chương, cũng không có một nền tảng kiến thức uyên thâm như cánh nhà báo hàng xóm, lại không có khả năng nắm bắt tinh tế như những người làm trong ngành xuất bản và hiển nhiên, càng không có tài năng văn chương như những văn nhân cầm bút (nên họ không mong chờ mình được xướng tên). Họ tiếp nhận NVC trong cách nhìn nhận gần sát với ý nghĩa sơ khai của nó, rằng NVC giống một sự bảo chứng cho tên tuổi của văn nhân cầm bút được Ủy ban Nobel công nhận và đôi khi tầm vóc của văn nhân cầm bút đó làm cho NVC có thêm sức nặng. Bởi cách nhìn nhận như vậy cùng truyền thống cho rằng NVC là một giải thưởng hàn lâm – khác với các giải thưởng đại chúng chẳng mấy quan trọng mà ai cũng đọc được (hoặc không) – được dựng nên bởi những văn nhân cầm bút hoặc không và giới mộ điệu văn chương, những người đọc và không đọc rất có thể sẽ đi theo hai hướng chính: những người đọc thì quyết định không đọc còn những người không đọc thì quyết định đọc hoặc tiếp tục không đọc – việc đọc đâu có ích gì khi đã có một hệ thống chỉ dẫn chi tiết để nói về những cuốn sách chưa đọc, mà hơn nữa rất có thể họ không đọc vì thực ra đã đọc rồi nhưng lại quên mất là đã đọc vì thế thôi thì cứ coi như đã đọc – văn nhân cầm bút hoặc không đoạt NVC năm đó. Rất có thể đó là những điều duy nhất họ nhớ về NVC hoặc không.   

6.

Trong những năm gần đây, khi nói đến một giải thưởng bất kỳ không thể không nhắc đến người da màu (không kể màu trắng vì đã nhắc đến quá nhiều rồi) và cộng đồng LGBT, phụ nữ có thai hoặc không và những người không phải chính trị gia, tất nhiên là bởi những đóng góp quan trọng của họ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của đám trắng và đám không phải cộng đồng LGBT, đám đàn ông không thể có thai và đám chính trị gia. NVC cũng không ngoại lệ. NVC lúc này có ý nghĩa tựa một bản tuyên ngôn cho sự bình đẳng mà nhóm người ở trên khao khát như họ đã khao khát trong suốt chiều dài lịch sử văn minh nhân loại. Dưới con mắt những người này, NVC chỉ có ý nghĩa trong duy nhất khoảnh khắc xướng tên người đoạt giải, năm này qua năm khác chỉ khoảnh khắc đó, cho đến khi nó tích tụ đủ năng lượng, đủ để trở thành một món quà nhưng trông như scandal có hạng gửi thẳng hoặc xéo đến Ủy ban Nobel, nếu trong một thời gian đủ dài vẫn không có đủ người thuộc nhóm của họ may mắn đoạt giải như cách diễn đạt vô cùng khiêm tốn của cánh nhà báo hàng xóm – những người mong chờ món quà này như mong chờ bất cứ món quà nào khác trong bất cứ dịp nào khác của mọi kiếp luân hồi. Còn những văn nhân cầm bút hoặc không, những người đọc và không đọc và những người làm trong ngành xuất bản sẽ giữ một thái độ rất mực thờ ơ trong khi bày tỏ các quan điểm sắc nét rõ ràng lấp ló dưới tấm áo choàng biện chứng tài tình giàu hình ảnh ẩn dụ và tràn ngập màu sắc ý nghĩa mà tưởng chừng nếu họ không nói ra, không ai biết rằng cái món quà-scandal kia lại sâu sắc đến vậy.

0. Nhưng có thể, đối với tất cả, NVC cũng chỉ là một giải thưởng mà thôi!

Hết.

Thiên Nguyên

*

Chuyện Nobel Văn chương



Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng