Phía sau trang sách

Ngầm: Vì sao những con người ưu tú của xã hội Nhật lại giết hại người vô tội lạnh lùng như thế?

Đọc “Ngầm”, tôi sợ. Tôi thấy mình cứ yếu đi dần dần với mỗi chân dung người hiện ra. Chưa có quyển sách nào của Murakami lại khiến tôi sợ đến vậy.

Published

on

Thường sách của Murakami sẽ khiến tôi hơi khó hiểu chỗ này chỗ kia, bối rối và mệt mỏi truy tìm ý nghĩa một chút. Ngầm thì là sách phi hư cấu, nhưng lại khiến tôi sợ kinh khủng. Không phải nỗi sợ mơ hồ những điều không đoán định được như ma quỷ, mà vì những điều tăm tối nhất trong con người (cả con người tôi, nhất là con người tôi), vốn bị nén chặt ở tầng sâu ý thức, đang được mời lên và truy vấn để lộ diện rõ ràng nhất. Những điều đen tối đó có sức mạnh huỷ diệt và khiến người ta sợ (vì thế người ta mới phải nhốt chúng cho thật sâu chứ.)

Thật ra, Ngầm có hai phần. Và phần 1 phỏng vấn về những nạn nhân sarin thì tôi không sợ chút nào. Bất cứ câu chuyện về sự vượt qua thảm hoạ và khủng hoảng dù bi thương đến đâu cũng đều mang đến cảm giác dễ chịu và tin tưởng về sức mạnh của con người. Sự hồi sinh sau huỷ diệt, kiểu thế. Suốt cả tuần tôi đọc phần này, thấy lòng mình bình lặng và vui vẻ.

Đến cuối tuần, tôi mới bắt đầu đọc phần Hậu-Ngầm, phần phỏng vấn về những thành viên của Aum, giáo phái tổ chức rải sarin. Trước đó, khi đọc về những câu chuyện của nạn nhân sarin, tôi cũng hết sức thắc mắc về Aum rồi.

Tôi luôn có kiểu thắc mắc về động cơ đằng sau những hành động độc ác của con người. Có dạo tôi đi đọc về phát xít Đức, những kẻ giết người hàng loạt và những kẻ ăn thịt người các loại. Là người hoàn toàn ghê sợ bạo lực dưới mọi hình thức, tôi luôn không thể hiểu nổi điều gì dẫn bất cứ một con người nào đến những hành vi dã man như vậy. Tôi không thể quy dẫn đơn giản rằng có những người sinh ra đơn giản là độc ác thế. Mình cứ yên tâm đứng ở phía này của Thiện là ổn rồi, còn bọn Ác kia thì mặc kệ chúng với tất cả những hỏng hóc kinh khủng của chúng. Một trong những bài học quan trọng nhất tôi đã học trong thời gian học đại học, là chẳng có gì tuyệt đối đen trắng cả, chỉ có những góc nhìn khác nhau và màu xám là tuyệt đối thôi.

Vậy nên vừa đọc đoạn đầu câu chuyện về vụ sarin năm 1995, tôi cứ thắc mắc mãi. Điều gì dẫn những con người ưu tú và xuất sắc hết mực của xã hội Nhật đi đến hành vi giết hại những người vô tội lạnh lùng như thế. Tại sao họ lại đi theo Aum nếu đó chỉ là một trò hề khủng bố ngu ngốc và độc ác của một tên giáo chủ tuyên bố mình đã đạt được giác ngộ? Tôi xem Youtube, thấy người của Aum mặc áo quần trắng kì dị, nghe cuộn băng thu ma quái lặp đi lặp lại một lời gì đó, thực hành những hình thức hành xác dưới nước trong khi Giáo chủ lẩm bẩm gì đó. Khi Giáo chủ ra lệnh, không ai có thể cưỡng lại mệnh lệnh ấy. Trong những bài viết về Aum trên BBC, Guardian và nhiều báo khác, chữ brainwash (tẩy não) được lặp đi lặp lại.

Tôi bắt đầu đọc phần Hậu-Ngầm trong tâm thế tràn ngập định kiến về Aum như một tổ chức ma quỷ tẩy não người, khiến họ mụ mị, đánh mất ý thức.

Thế mà, trong sự kinh ngạc tuyệt đối, tôi nhận ra những cựu thành viên và thành viên hiện tại của Aum lại hoá ra là những người bình thường, có thật, với khát vọng đi tìm một điều gì đó có ý nghĩa hơn đời sống mỏi mòn này. Họ thật tâm đi tìm ánh sáng với những động cơ trong sáng, đẹp đẽ và chân thành nhất. Họ truy tìm ánh sáng, và khi thấy ánh sáng đó, họ sẵn sàng rũ bỏ tất cả để bắt đầu hành trình đến gần với bản thể mình hơn. Họ sẵn sàng bỏ công việc, bạn bè, gia đình, của cải,… để gia nhập Aum, cống hiến bản thân cho một lý tưởng cao đẹp, tu tập gian nan để sống cuộc đời có ý nghĩa, thay đổi những điều đang xảy ra trong xã hội.

Đi tìm ánh sáng, họ lại gặp bóng tối. Đoạn cuối của câu chuyện chất độc sarin là hàng thành viên Aum đứng trước vành móng ngựa, với mức án tử hình và chung thân vì tội ác chống lại loài người.

Tôi thích cách lý giải của Murakami, không phải là câu hỏi, tại sao họ lại tham gia Aum trong khi họ là những người ưu tú, xuất sắc nhất, mà là họ đã trở thành tín đồ của Aum vì họ đã ưu tú, xuất sắc và luôn tuyệt vọng muốn đi tìm ý nghĩa của cuộc sống như vậy. Nhưng rồi lại bị dẫn dắt sai lầm. Giống như là loài động vật giáp xác, bỏ đi những lớp vỏ để trở nên thành thật nhất và dễ bị lung lạc nhất. Họ đã đánh mất bản thể và bị lung lạc bởi những ý tưởng – những ý tưởng thật sự nguy hiểm. Nó có sức mạnh kinh khủng để dời non lấp bể, để giết người, để huỷ diệt.

Shoko Asahara – giáo chủ của Aum
Ảnh: Independent UK

Ở Aum, như mọi tôn giáo khác, lại là ý tưởng về sự nhân danh, mục đích vượt trên phương tiện. Từ lý thuyết của Phật Giáo Mật tông, không giống Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa, Mật tông cho rằng có con đường đi đến giác ngộ ngắn hơn. Đi con đường tắt ấy, người ta có thể vượt qua lằn ranh phân biệt thiện và ác. Asahara sử dụng lý thuyết đó để che lấp cho những mầm ác dần dần nảy sinh trong Aum. Tín đồ đầu tiên chết trong một nghi thức hành xác tôn giáo. (Để truy tìm sự giác ngộ, Aum sử dụng những phương pháp tu khổ hạnh, gần như là tra tấn, đưa con người đến những giới hạn của cơ thể. Tín đồ phải vượt qua những giới hạn đó để đạt đến những mức khác nhau của sự giác ngộ.) Cái chết bị che đậy để bảo vệ thanh danh cho Aum. Vì một sứ mệnh cao hơn của Aum, Asahara và những lãnh đạo cấp cao của Aum lại quyết định giết một tín đồ khác, để bí mật về cái chết thứ nhất không lộ ra. Dần dần, Aum đi theo con đường bạo lực và khủng bố để loại bỏ tất cả những chướng ngại ngăn trở sứ mệnh tôn giáo và mục tiêu thay đổi thế giới trở thành một nơi tốt hơn của Aum. Và cuối cùng sarin được những nhà khoa học ưu tú nhất của Bộ Khoa học và Công nghệ điều chế ra để chứng minh và đẩy nhanh hơn đến Ngày Phán xử Cuối cùng sẽ huỷ diệt, để từ đó Aum xây dựng lại tất cả theo lời tiên tri của Asahara.

Toàn bộ câu chuyện nghe như một kịch bản rẻ tiền của một bộ phim rẻ tiền. Vậy mà bấy nhiêu tín đồ đã nhất nhất làm theo. Murakami lý giải, họ tuân theo không phải là vì đó là một kịch bản hay mà vì bản thân việc được nghe theo – cảm giác bình yên khi trao tất cả quyền quyết định cùng tất cả những bất định của họ cho một người ở trên. Chỉ cần nhất nhất đi theo con đường đó, họ được hứa hẹn cứu rỗi. Họ đánh mất bản thể, đánh mất sự tự do, vì họ MUỐN như vậy.

Câu chuyện của Aum làm tôi nhớ đến lý thuyết trốn khỏi tự do (escape from freedom) của Erich Fromm. Fromm sử dụng câu chuyện về Adam và Eva để nói về sự tự do của con người. Khi ăn quả từ Cây Tri Thức và có lý trí, họ vươn khỏi bóng tối mù mờ bản năng của thế giới động vật, họ của không còn là một phần của tự nhiên nữa. Họ trở thành con người, với tất cả ý thức về sự hữu hạn và sự bất lực, nhỏ bé của mình trước tự nhiên. Tự nhiên là lòng mẹ ấm áp mà họ đã không còn đường trở về. Cùng với sự tự do để hành động độc lập theo lý trí của mình, con người luôn luôn cảm thấy nỗi đau chia cách. Con người hiểu rằng họ chỉ là một thực thể bất toàn, bất định và cô đơn giữa thế giới.

Để chạy trốn, họ tìm cách rũ bỏ sự tự do của mình. Trong Aum, các tín đồ quy phục ý chí tối cao của một giáo chủ tuyệt đối để bỏ đi sự cô đơn và bất định của mình.

Vẫn là ý tưởng muôn thuở, con người là mục đích tự thân. Không được hy sinh con người nhân danh bất kì một điều gì cả. Tất cả mọi điều xấu xa trên thế giới này đều sinh ra vì sự nhân danh. Vì bất kì điều tốt đẹp nào. Không được nhân danh Thánh Allah, không được nhân danh Chúa Jesus, không được nhân danh Đức Phật, không được nhân danh toàn thể loài người, không nhân danh công lý, không nhân danh bình đẳng – bác ái. Mục đích tối thượng sẽ làm người ta hy sinh chính con người. Không được biến con người thành phương tiện, vì con người là mục đích tự thân.

*

Tôi thích đọc Murakami, vì sau khi được dẫn đi sâu thật sâu vào tất cả những tầng tâm thức đen tối đó, tôi lại được dẫn lên, và được chỉ cho thấy, kia là ánh sáng, đây là cuộc sống cứ mới hoài, đi vào cuộc sống đi.

Bởi thế, Ngầm làm tôi sợ vì chỉ cho tôi thấy con người dễ bị lừa mị và thoát khỏi vòng kiểm soát của lý trí biết bao. Ngầm cảnh báo về cái ác, nhưng lại chỉ ra rằng không có cái ác tuyệt đối, mà chính cái ác có thể sinh ra từ khát vọng lương thiện. Kết luận cuối cùng về những người tham gia Aum, Murakami nói “những người gia nhập các giáo phái đều không phải là người dị thường, họ không có điểm gì thiệt thòi, họ không lệch lạc…Có thể họ đã nghĩ về mọi chuyện hơi quá nghiêm túc một chút. Có thể trong nội tâm họ có nỗi đau nào đó họ cứ mang theo. Họ không giỏi bày tỏ cảm xúc của mình cho người khác và có phần nào đó bất an. Họ không thể tìm ra cách thích hợp để tự diễn đạt bản thân, và cứ đắn đo qua lại giữa cảm giác kiêu hãnh và cảm giác mình thiếu năng lực. Tôi rất có thể là như thế. Và cả bạn nữa.”

Đọc xong Ngầm, tôi thấy mình như vừa đi qua những cơn lốc xoáy của những bình nguyên và cánh đồng cuộc sống. Cảm xúc của tôi mạnh đến mức không thể gom những suy nghĩ và cảm xúc của mình thành điều gì khả dĩ đọc được sau đó. Mãi sau hai tháng, tôi mới mở review này ra để viết lại. Đọc xong Ngầm, tôi thấy mình cần ánh sáng kinh khủng. Tôi như vừa trở lại từ thế giới bên trong, vẫn còn lơ mơ. Không cần chi ánh sáng của tri thức hay hiểu biết, mà chỉ là ánh nắng ấm của cuộc sống hằng ngày thôi.

Thật ra, đôi khi phải trèo xuống sâu trong những suy nghĩ nặng nề của đầu mình, để cảm thấy rõ khao khát ánh sáng đó hơn. Chẳng cần lo gì, vì chỉ cần còn nguyên nỗi khát thèm sống lại này thì sự sống đâu được mệt mỏi và hẹp hòi quá lâu.

Hết.

Chi Mai


Muôn màu của Haruki Murakami




2 Comments

2 Bình luận

  1. Pingback: Rừng Na Uy – Về Murakami và những kẻ cứ nghĩ là mình cô đơn lắm – Bookish

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng