Phía sau trang sách

Rừng Na Uy, về Murakami và những kẻ cứ nghĩ là mình cô đơn lắm

Thì thỉnh thoảng mình ngước lên trời và tự hỏi mình đang làm gì giữa vũ trụ bao la này, hoặc đôi khi có những ngày thấy buồn chết đi được, chẳng muốn gặp mặt ai, chẳng muốn trò chuyện những thứ dông dài vô nghĩa, nhưng buồn đến như Naoko, buồn đến như Toru, buồn đến như Midori thì không bao giờ. Có khi toàn là những nỗi buồn được làm quá đấy thôi.

Published

on

Khi đứng lại và nhìn vào những chuyện đã qua, có những lúc đột ngột cảm thấy thế giới toàn những chuyện không thể nào đoán trước được. Chẳng hạn như vào một ngày nọ, Toru Watanabe đưa cô bạn gái say khướt của mình về hiệu sách Kobayashi, và trong khi cô đang ngủ ngon lành trong bộ y phục của người cha vừa chết, Toru đã tìm thấy một cuốn sách của Hermann Hesse mà anh từng đọc thời trung học. Nếu không có cái hoàn cảnh kỳ lạ ấy, có lẽ Toru đã chẳng bao giờ đọc lại cuốn sách này.

Tuần trước, mình vô tình đọc được trên một trang Confession, có người nói, đại để rằng, văn chương của Murakami thì có cái quái gì đâu cơ chứ, chỉ rặt làm màu, rồi những kẻ vỗ ngực nhận là fan của Murakami cũng vậy, chúng coi sách của ông như bộ quần áo mới của hoàng đế, tối ngày than vắn thở dài như thể mình sâu sắc hơn người. Giá như văn phong của người comment hay hơn một chút và lý lẽ thấu đáo hơn một chút, chắc mình sẽ nghĩ: À, cậu chàng Holden Caulfield trong Bắt trẻ đồng xanh đây rồi, có điều cách ăn nói của cậu ta tệ thật. Nhưng một cách chân thành nhất, mình vẫn muốn gửi lời cảm ơn tới người đó, bởi chỉ vì một lời ngắn ngủi ấy thôi mà mình đã đọc lại Rừng Na Uy, vừa đọc vừa bồi hồi tự hỏi: Có thật là suốt thời gian qua, mình đã làm màu không nhỉ?

Dễ là có lắm.

Ai lại đọc Rừng Na Uy vào những ngày này đâu. Mình thực sự nghĩ thế. Lẽ ra mình nên xem Euro. Không liên quan chút nào nhưng nếu không phải vì mải đọc lại Rừng Na Uy có lẽ mình đã xem Euro và không cần cảm thấy xa cách với phần còn lại của thế giới. Nhưng thôi, sau khi đọc xong cuốn sách này, mình sẽ thoải mái nằm xem bóng đá, còn giờ, mình sẽ đọc nó cho thật kỹ.

Rừng Na Uy gọi mình lại một giấc mơ nào đấy mà mình đã tỉnh dậy từ rất lâu về trước. Mình cứ chờ mãi để đọc tới đoạn Toru, Naoko và Reiko ngồi dưới ánh nến trong một đêm trăng, Reiko cầm cây đàn guitar và đánh những bài hát của The Beatles: Michelle, Yesterday, Nowhere Man, và tất nhiên, Norwegian Wood. Từng nốt nhạc vang lên rồi mất hút trong đêm tối, đột nhiên cảm thấy rất lạ lùng, rằng bao nhiêu năm đã trôi đi mà những giai điệu không hề thay đổi, chúng vẫn thế thôi, thế mà những con người thì đã khác xưa nhiều quá. Vào năm 1969 khi Reiko chơi những bản nhạc đó, Beatles vẫn còn chưa tan rã, Paul McCartney, Ringo Starr mới chỉ là những chàng trai chưa đến tuổi 30, John Lennon và George Harrison vẫn còn đang tận hưởng cuộc đời. Loáng một cái. Ai đó rơi xuống những cái giếng vô hình, chết mục bên dưới mảnh trăng lưỡi liềm ở tít trên cao. Cái người ta tạo ra thì sống, còn chính bản thân người ta thì chết. Đã từng có lúc thấy điều này kỳ diệu, giờ lại chỉ thấy đến là mỉa mai. Kiểu như luôn có một phần bên trong con người, mà thường là phần đẹp đẽ nhất, thủ thỉ với con người rằng: Ồ, sẽ sống bất kể người thế nào, mặc kệ ngươi, ta sẽ sống. Thế giới bỏ mình đã đành. Ngay đến chính mình cũng chả cần mình nữa, ngay cả nó cũng phản bội mình. Nhớ Woody Allen từng bảo: Tôi không muốn sống mãi trong trái tim các đồng bào của tôi, tôi muốn sống mãi trong căn nhà của tôi. Nhưng quên đi Allen ạ, rồi mai này những Manhattan, Annie Hall vẫn sẽ sống đời đời kiếp kiếp, trong khi ông đã thành bộ xương đeo kính cựa quậy trong chiếc quan tài chôn tít dưới đất sâu. Nhưng ông làm gì được?

Để đến được đoạn Reiko chơi guitar đó, mình sẽ phải đi qua rất nhiều đoạn khác nhau. Đầu tiên là đoạn Naoko cầu xin Toru hãy nhớ tới mình:

Mình muốn cậu luôn luôn nhớ đến mình. Cậu sẽ nhớ rằng mình đã tồn tại, rằng mình đã đứng cạnh cậu ở đây như thế này chứ?

Thế rồi, mùi đồng cỏ, tuyết, chiếc áo lông lạc đà, mái tóc đen của nàng, gương mặt nhìn nghiêng,… những thứ ngày hôm nay còn cảm thấy rõ ràng, ngày sau đã chỉ còn là một vệt mờ trên tấm kính. Nàng hy vọng gì? Cứ cho là Toru mãi nhớ đến nàng đi, nhưng cậu ấy cũng đâu sống mãi. Nghĩ thế cũng thấy thật kỳ. Những ký ức ấy đã đi đâu? Họ nói rằng năng lượng luôn được bảo toàn, chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này qua dạng khác. Vậy thì những ký ức ấy đi đâu cả rồi, chúng đã biến thành cái gì rồi, sao không ai đưa ra được lời đáp nào cụ thể?

Cho nên mình chẳng hiểu tại sao Naoko phải làm như vậy. Nếu là mình, mình sẽ không mong ai nhớ tới. Họ cứ quên phứt đi là hơn. Một cuộc đời như thế cũng chẳng có gì đáng nhớ. Giá mà cứ như con kiến chẳng bao giờ tiến hóa mà Midori nhắc tới. Chúng cứ ngày đêm làm việc chăm chỉ mà không thiết tha gì đến chuyện có ai sẽ nhớ tới chúng. Ừ thì nếu ai đó có ý định giết chết chúng, bản năng sinh tồn cũng mách bảo chúng phải chạy đi, nhưng chúng hoàn toàn không hay biết tới cõi hư vô đang chờ đợi bên mép cuộc đời. Chúng không định nghĩa được ngày mai nên chỉ sống ở giây phút này. Chúng không chờ đợi nên không thất vọng. Chúng không yêu đương nên không đau khổ. Khi sống, chúng chỉ sống. Khi chết, chúng chỉ chết. Không ai làm tang ma cho một con kiến, chúng trôi tuột vào ống thời gian, trôi tuột vào cái giếng sâu hoắm, không ai vui cũng chẳng ai buồn, không ai quan tâm đến điều đó. Xong là xong.

Sân bay Hamburg ngày hôm ấy, tiếng nhạc Norwegian Wood cất lên, cất lên cả một thời đã nằm lại sau lưng Toru. Ai đó nói âm nhạc như một cỗ máy thời gian, đưa người ta quay về những ngày đã mất. Ký ức như một cơn mưa nhẹ, rỏ xuống từng giọt, tạo thành cả một vũng nước phản chiếu mây trời, tất cả những thứ ở rất xa xôi kia bỗng chốc thành hình rõ nét, rõ nét đến mức tưởng chừng có thể chạm vào, nhưng không bao giờ chạm được, thế rồi nắng lên và chúng bốc hơi đi hết.

Thôi đừng để ý tới những điều mình viết. Toàn là làm màu cả đấy. Sự thật là mình có thể tràng giang đại hải về những nỗi buồn trong khi bản thân đang vui cười hạnh phúc. 24 giờ một ngày, mình chẳng hơi đâu mà buồn bã hay suy tư về cuộc đời nhiều đến thế đâu. Thì thỉnh thoảng mình ngước lên trời và tự hỏi mình đang làm gì giữa vũ trụ bao la này, hoặc đôi khi có những ngày thấy buồn chết đi được, chẳng muốn gặp mặt ai, chẳng muốn trò chuyện những thứ dông dài vô nghĩa, nhưng buồn đến như Naoko, buồn đến như Toru, buồn đến như Midori thì không bao giờ. Có khi toàn là những nỗi buồn được làm quá đấy thôi.

Dẫu vậy, nếu như mình có thể kể lại một câu chuyện về cuộc đời mình, mình có cảm giác nó sẽ có hơi hướng như Toru hay ông già cha của Midori vậy. Mà mình nghĩ, có lẽ phần đông thế giới này cũng như mình, cho nên họ mới thích Rừng Na Uy đến thế. Họ muốn kể lại đời mình nhưng lại thấy tầm thường và vô vị quá, vì thế mà khi người ta thấy Toru cũng vô vị và tầm thường, thế mà vẫn có thể kể lại tất cả như một áng thơ lãng đãng trong chiều tuyết trắng, người ta thấy hạnh phúc vô ngần vì hóa ra cuộc đời xấu xí đến mấy cũng vẫn có thể nên thơ. Chuyện đó chỉ những kẻ tầm thường mới hiểu được, những con người với cuộc đời vẻ vang, viên mãn, tất nhiên họ không thể tìm được điểm chung. Đó không phải lỗi của họ, cũng không phải lỗi của Murakami. Đơn giản là có những người không bao giờ có thì giờ để nhìn hoàng hôn bởi vì cuộc đời họ quá bận rộn để làm việc đó. Họ thật may mắn vì chỉ những kẻ rách việc như mình mới phải nhìn hoàng hôn để khỏa lấp thời gian trôi chảy. Mình chẳng có gì để tự hào khi thích khóc lóc vì một câu truyện tiểu thuyết hay cảm nhận được một bộ phim hay. Nó chỉ cho thấy mình biếng lười và chậm tiến, nó chỉ cho thấy mình là gánh nặng mà thế giới phải đèo bòng. Mình đâu muốn thế, nhưng nói như Murakami, thì cái tạng người mình nó vậy, muốn cũng không biết phải làm thế nào để sống khác đi và có ích hơn.

Tuổi trẻ của những nhân vật trong Rừng Na Uy đã diễn ra vào những năm 69, cái thời kỳ biến động như thế, ấy vậy mà suốt cả truyện, hoàn cảnh lịch sử chỉ là một cái phông mờ. Cũng có nhắc đến vài ba cuộc bãi khóa, cũng có nói đến chiến tranh, cũng có nói đến chính trị chính em rồi xã hội chủ nghĩa của Karl Marx, nhưng là nhắc tới với sự thờ ơ đến tột cùng. Nếu Rừng Na Uy là một chiếc máy ảnh, thì hoàn cảnh lịch sử gần như đã bị blur. Ôi, những biến động của thời cuộc chẳng bao giờ ngừng lại. Hết đánh nhau ở Việt Nam họ lại kéo sang Iraq, hết Iraq lại tới Syria, rồi sau này còn những nơi nào nữa, ai mà biết trước. Còn mình, mình cóc cần biết. Có lẽ là mình thuộc giống loài vô cảm và ích kỷ, mình chẳng lo cho trẻ em ở châu Phi đang đói rách hay nội chiến Ukraine đâu, và chừng nào chiến tranh còn chưa gõ cửa nhà mình thì mình cũng mặc, rồi kể cả nếu Trung Quốc có chiếm biển Đông thì mình chắc chắn cũng không tức sôi máu lên mà một phen sống mái với chúng. Thế giới điên loạn diễn ra nhưng mình vẫn sống. Như Toru vẫn yêu, vẫn rối loạn vì tình yêu, vẫn đam mê tình dục, vẫn sửa một chiếc xe đạp, vẫn giặt và là quần áo mỗi tuần một lần, vẫn đọc F. Scott Fitzgerald và nghe nhạc rock. Chẳng có điều gì sẽ thay đổi được những quy luật sống ấy trừ cái chết. John Lennon đấu tranh cho hòa bình và ông cũng chết. Muhammad Ali thà vào tù chứ không chịu đi chiến đấu và ông cũng chết. Paul McCartney viết ra bao giai điệu đẹp đẽ về những nỗi đau nhưng rồi một mai cũng chết. Mình chẳng làm được gì ngoài bao biện cho sự vô dụng của bản thân và mình cũng chết. Khác gì nhau đâu. Cái chết san bằng tất cả. Cũng may sao thế giới không phải toàn những kẻ vô dụng như Toru và như mình.

Vậy đấy, Toru và những nhân vật của Rừng Na Uy chỉ là những kẻ lạc loài trong thời cuộc rối ren, họ hoàn toàn không nằm trong vòng lịch sử. Cha mẹ họ là đứa con của những thế hệ hoang mang và lạc lối. Đến lượt mình, họ tưởng như mình đang lạc vào một cảnh trí không liên quan gì tới họ, họ không biết cái quái gì đang diễn ra xung quanh mình, họ chỉ còn tin vào sự nổi loạn và cái chết sẽ cứu rỗi tâm hồn. Họ tự hủy hoại con người mình bằng đủ cách khác nhau: sống buông thả, gái điếm, tự cắt cổ tay, dùng hơi ga tự vẫn, treo cổ trong một khu rừng… Nhưng đâu phải cứ tự hủy hoại bản thân có nghĩa là vì chán ghét cuộc sống, có đôi khi, đó là cách yêu cuộc sống đến điên cuồng và tuyệt vọng. Giống như psychedelic rock mà Beatles đã tạo nên, giống như ma túy gây ra một loại ảo giác ở miền cực lạc, tách họ khỏi niềm tin lầm lạc và những khổ ải thế gian dù chỉ trong đôi ba phút. Kết cục lại, họ chỉ muốn hạnh phúc thôi. Tất nhiên, những người đã hài lòng với hạnh phúc của mình có sẽ không hiểu được chuyện này. Đây cũng không phải lỗi của bất cứ ai.

Trong tất cả những cuốn sách của Murakami mà mình đã đọc, Rừng Na Uy là cuốn mình kém yêu thích nhất. Mình đọc nó chỉ vì cái tên là bài hát của The Beatles, và sau khi đọc xong nó lần đầu tiên, những gì mình thích nhất vẫn là cái tên ấy. Lời cuối cùng của bài hát Rừng Na Uy có mấy câu mà mình tạm dịch là:

“Khi tôi thức giấc, tôi chỉ còn lại một mình
Cánh chim đã bay đi
Tôi châm một mồi lửa
Vậy có ổn không, Rừng Na Uy?
Vậy có được không, Rừng Na Uy?”

Như kiểu đốt một giấc mơ. Âm nhạc của Beatles vào thời Rubber Soul là sự chuyển mình từ hiện thực sang trạng thái nửa tình nửa mê, để rồi tới Sgt Pepper’s Lonely Hearts Club Band (album mà Naoko đã mở trong ngày sinh nhật của mình) thì hoàn toàn mộng mị. Mình vẫn tưởng tượng ai đó đã vẽ Rừng Na Uy, căn nhà, chiếc ghế, con chim, cô gái, bồn tắm, lên một trang giấy trắng, rồi đốt sạch nó đi, để lại bụi bay lả tả. Con chim bay đi không phải điểm kết thúc của khuôn hình, điểm kết thúc của nó nằm ở hành động “đốt” – hành động mà Ray Bradbury từng gọi là “một cái thú đặc biệt khi thấy thứ này thứ nọ bị ngốn ngấu dần”. Còn Naoko, nàng chết không phải vì nàng đã chết, nàng chết là bởi nàng sẽ bị lãng quên bởi Toru, những ký ức về nàng đã từng chỉ tốn năm giây để nhớ về, rồi dần dần là 10 giây, 20 giây, một tiếng, một năm, và rồi, một đời.

Đó chính là lý do mà ngày ấy mình đã không chịu đựng nổi cuốn sách này. Mình không thể nào hiểu nổi làm sao người ta có thể già đi được với tất cả những nỗi đau như thế? Làm sao người ta có thể tiếp tục sống sau khi những người mà người ta từng yêu đã băng qua cây cầu dẫn lối tới thế giới bên kia? Chỉ nội nghĩ tới việc tiếp tục sống đã thật là khó tin. Họ nhìn thấy mối tình đầu của mình, người đã cùng mình nắm tay giữa trời tuyết trắng, ngân nga một khúc ca tươi đẹp như Here Comes The Sun, ôm lấy mình và nói với mình rằng đừng quên cô ấy, họ nhìn thấy mối tình đầu ấy bị nhốt trong chiếc quan tài đóng kín, bất động và lạnh căm. Làm sao người ta có thể quên cái hình ảnh ấy, nỗi ám ảnh ấy, nỗi đau thương ấy, để mà tiếp tục duy trì hít thở? Mình ghê sợ họ, mình ghê sợ tình yêu cuộc sống của họ, mình ghê sợ sự lì lợm của họ và sự gắng gượng của họ. Họ nói họ đau khổ đến chết nhưng họ vẫn vượt qua. Trái tim họ vỡ ra từng mảnh rồi mà họ vẫn có thể đứng dậy, hàn gắn nó, và sống với con tim băng bó và yêu thêm người khác bằng con tim băng bó, và vẫn yêu nhiệt thành như lần đầu tiên ấy. Mình thật sự đã không chịu đựng nổi chuyện này.

Nhưng mình đã học cách chịu đựng được nó. Bởi nếu không chịu đựng được, giờ này mình cũng chẳng còn ngồi ở đây. Như Toru đã dần dần quên bẵng đi người con gái anh yêu thuở 17, song chỉ một giai điệu của Rừng Na Uy, ký ức về nàng lại dần hiện lên như thể nó mới diễn ra hôm qua hôm kia vậy. Vừa viết, mình vừa đeo tai nghe và mở lại Yesterday, lắng nghe lời Paul hát: “Oh I believe in yesterday”, bỗng dưng mới hiểu vì sao Paul đã viết ra lời ca như vậy. Cái gì đã từng xảy ra sẽ luôn còn ở đó, dù người ta có quên hết, quên sạch, thì nó vẫn luôn ở đó, bất biến, vĩnh hằng. Đó là sự bao dung của thời gian, tuy một đi không trở lại, nhưng nơi nào đã đi qua, vết hằn của nó sẽ còn đọng lại mãi, có thể là đọng lại trong lòng một ai đấy, cũng có thể không đọng lại trong lòng một ai cả, nhưng vẫn có một dấu li ti mà nếu nhìn thật kỹ sẽ thấy khoảnh khắc đó sáng lên như chiếc đèn dẫn đường chỉ lối.

Nhất định rồi, cái thời đại buồn bã và hoang mang ấy sẽ qua đi. Kiểu như trong Tâm trạng khi yêu, Châu Mộ Văn thì thầm vào hốc đá của đền Angkor hùng vĩ, và khi bước ra, trông anh như đã bước ra khỏi mê lộ của lòng mình. Và để đáp lại câu hỏi “Vậy có ổn không, Rừng Na Uy?”, Rừng Na Uy sẽ đáp, giờ thì chưa, nhưng sẽ đến lúc mọi sự đều ổn và chúng ta đều tốt.

Đã thế thì cứ kệ đi, kệ đi mà lênh đênh trong những năm tháng điên rồ này, bởi vì mọi thứ rồi sẽ qua cả thôi, cho nên khi còn thời gian, hãy cứ ngụp lặn trong những nỗi buồn vô nghĩa, để mai này yên tâm rằng những hoài nghi không đáng để cuộc sống ngừng lại. Khi ấy, chúng ta sẽ sống thật tốt, còn ngay lúc này, tuổi trẻ là để lãng phí, tuổi trẻ là để buồn, nếu không buồn ngay lúc đó, sẽ lại phải trả giá như Naoko và Kizuki.

Những dòng chữ cuối cùng trong Rừng Na Uy, Toru gọi điện cho Midori, nàng hỏi rằng anh đang ở đâu, Toru ngẩng đầu lên và nhìn ra bên ngoài, tự hỏi mình đang ở đâu thế nhỉ? “Tôi đang ở đâu. Tôi không biết. Không biết một tí gì hết. Mắt tôi chỉ là vô số những hình nhân đang bước đi về nơi vô định nào chẳng hay. Tôi gọi Midori, gọi mãi, từ giữa ổ lòng lặng ngắt của chốn vô định ấy.”

Khung cảnh của một chiều mưa lâm thâm bên ngoài trạm điện thoại công cộng màu đỏ, những mặt người hối hả bước đi, tiến đến gần, lùi ra xa, biến mất. Nó nhắc mình nhớ tới câu hát trong Eleanor Rigby (lại một khúc ca khác của Beatles):

“All the lonely people.
Where do they all come from?
All the lonely people.
Where do they all belong?
Ah, look at all the lonely people.”

(Tất cả những con người cô độc đó.
Tất cả họ đến từ đâu?
Tất cả những con người cô độc đó.
Tất cả họ thuộc về chốn nào?
Ôi, nhìn xem những bóng người cô độc đó.)

Dẫu chẳng biết họ tới từ đâu và thuộc về chốn nào, nhưng mình có một linh cảm chắc chắn rằng, chính họ là những người đã say mê Rừng Na Uy bằng tất cả những nỗi buồn mơ hồ nhưng vô phương cứu chữa.

Hết.

Hiền Trang


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng