Phía sau trang sách

Mùi hương – Câu chuyện một kẻ sát nhân hay con người và tận cùng của cô độc

Published

on

Mùi hương là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn người Đức Patrick Suskind. Xuất bản năm 1985, cuốn sách này ngay lập tức trở thành một hiện tượng trên văn đàn thế giới. Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ là một hiện tượng nhất thời như thế giới phù du của ‘mùi hương’ đến và đi không lưu lại chút dấu vết nào, nó đã được các nhà phê bình nhận định là một kiệt tác của văn học đương đại với những thông điệp lớn thông qua câu chuyện kỳ lạ của một kẻ sát nhân tại nước Pháp hơn 200 năm trước.

Nếu chỉ đơn giản là một câu chuyện kinh dị về một kẻ giết người máu lạnh thì có lẽ tiểu thuyết này cũng chẳng có gì hơn là một tiểu thuyết mang tính dọa dẫm thị trường câu khách. Tôi nhớ trên một trang web giới thiệu về 3 cuốn tiểu thuyết: Ring – Vòng tròn ác nghiệt của Suzuki Koji, Sự im lặng của bầy cừu của Thomas Harris và Mùi hương, đã có một độc giả nhận xét ở dưới rằng: “Sau khi đọc 3 cuốn sách này, anh/chị ta thấy chẳng có gì là đáng sợ như lời giới thiệu cả, quá bình thường, và yêu cầu nhà sách hãy xuất bản những cuốn ghê rợn hơn”. Nhắc đến chuyện này, ý của tôi là, nếu như bạn đang định tìm một cuốn sách với những bóng ma luôn chờ trực ở đâu đó lao ra tóm lấy ta, hay một kẻ sát nhân điên cuồng mất trí và đâm chém đẫm máu, thì có lẽ bạn hãy tìm đến với văn hóa kinh dị của Quỷ Cổ Nữ hay đại khái là những tác giả giỏi tạo ra những sự kiện thót tim, những tình tiết làm bạn thậm chí không dám bước ra cầu thang vì sợ có một bóng ma đang nằm sẵn ở đó kéo chân bạn xuống. Đó chỉ đơn giản là lời phân trần trước của tôi để lỡ bạn có đọc 3 cuốn sách này mà không thấy sợ thì cũng đừng cảm thấy thất vọng. Vì đơn giản, cái mà Koji, Harris hay Suskind hướng đến không phải dọa ma độc giả, mà nó hướng tới những nỗi sợ sâu kín nhất, bản chất nhất của mỗi chúng ta.

Vậy những nỗi sợ sâu kín nhất của con người ta là gì vậy? Con người sống trên đời có rất nhiều nỗi sợ hãi: sợ chết, sợ già nua, sợ xấu xí, sợ bóng tối, sợ độ cao, sợ nghèo đói, sợ bị mắng mỏ, sợ mất mát, sợ bị bỏ rơi, sợ cô độc. Trong số những nỗi sợ đó, tầm thường có mà cao quý cũng có, hiển hiện có, mà chôn giấu kỹ đến mức đôi khi đến tự bản thân không nhận ra cũng có. Qua câu chuyện về cuộn băng giết người, Suzuki Koji muốn nói tới những nỗi sợ bản năng đã tồn tại từ khi chúng ta chỉ là một hài nhi, nỗi sợ về một thế giới lan tràn cái ác, nơi mà con người ta phải bất chấp lương tâm để nhân bản cái ác nhằm cứu chính tính mạng của mình. Qua câu chuyện về bác sĩ tâm thần ăn thịt người Hannibal Lecter, Thomas Harris nói về nỗi sợ đối mặt với quá khứ, đó không chỉ là nỗi sợ bị tên bác sĩ nhai mất lưỡi và ăn mất gan, mà đó là nỗi sợ bị hắn kiểm soát, bị hắn thâm nhập vào tâm trí, để cuối cùng đánh mất chính mình. Còn với câu chuyện về kẻ sát nhân với khứu giác thiên tài, Grenouille, cái mà Suskind hướng đến đó chính là nỗi sợ về sự cô độc, nỗi sợ bị ném ra ngoài rìa xã hội, nỗi sợ trở thành một kẻ lạc loài không được chấp nhận.

Một tật xấu mỗi khi viết review của tôi đấy là lúc nào cũng dẫn dắt dài dòng, có lẽ một lúc nào đó, tôi sẽ dành thời gian viết riêng review cho Sự im lặng của bầy cừu và Ring, còn bây giờ, thì tôi sẽ thôi lan man và tập trung vào chủ đề chính của bài viết này.

Mùi hương kể về cuộc đời của Jean-Baptiste Grenouille, một thiên tài được sinh ra với khứu giác siêu phàm có thể nhận biết mọi mùi hương trên thế gian, nhưng bản thân lại không có một mùi hương nào trên người. Với khao khát chế tạo ra một thứ mùi hương cho riêng mình, hắn đã lên một kế hoạch kinh khủng để đánh cắp hương thơm trên những thiếu nữ trẻ. Và đó là sự khởi nguồn về tội ác đầy ám ảnh của một kẻ sát nhân quỷ dữ bị nguyền rủa.

Jean-Baptiste Grenouille là một kẻ cô độc cùng cực, thậm chí hơn cả cô độc, trạng thái cô độc của hắn không thể được diễn tả bằng một từ được, vì nó vượt qua giới hạn của sự cô độc mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Hắn bắt đầu bước vào thế giới này từ một góc chợ gớm ghiếc, bẩn thỉu và tanh lòm, và là đứa duy nhất trong số những anh em của hắn không chết dưới bàn tay giết chóc của chính mẹ đẻ mình. Grenouille đã là kẻ cô độc từ khi sinh ra.

Grenouille được chuyển nuôi từ hết người này sang người kia, chẳng ai muốn giữ hắn lại cả, từ những bà vú em đã quen nuôi sống bọn trẻ mồ côi, cho đến vị cha xứ với lòng bao dung và tình yêu thương của Chúa. Những người giữ hắn lại được, hầu hết đều chỉ vì hắn là kẻ được việc, vì hắn khỏe gấp đôi gấp ba kẻ khác, vì hắn có thể lao động như một con trâu mà tuyệt đối không kêu ca gì, tuyệt đối không mở miệng đòi hỏi bất cứ ân huệ gì, chỉ câm lặng và im lìm, vì hắn làm hùng hục, quần quật đêm ngày như thế mà không ốm đau, mà có ốm đau, dù thập tử nhất sinh, hắn cũng không chết, như một con rận dai dẳng bám víu lấy sự sống; hoặc nếu không thì vì hắn có cái thiên tài kỳ quặc mà người ta có thể khai thác để làm giàu, hắn là cái mỏ vàng ngầm không bao giờ cạn kiệt. Nhưng ngoài tất cả những cái đó, người ta vẫn, một cách nào đó, ghê tớm hắn, chính xác hơn là ghê sợ hắn, họ không muốn đụng chạm tới hắn, họ không coi hắn là một đồng loại của mình.

Grenouille âm thầm lớn lên trong những xó xỉnh của Paris hoa lệ, cùng với cái thiên tài về mùi hương của mình. Hắn xấu xí và gớm guốc, nhưng trên đời có vô vàn kẻ cũng gớm guốc và xấu xí, song không ai như hắn, không ai bị xã hội ruồng bỏ như hắn. Hắn có đủ đặc tính của một con người: chân, tay, mắt, mũi, thậm chí hắn còn là một kẻ có bộ óc thông minh, nhanh nhạy, nhưng cái kẻ có thể ngửi ra ngàn vạn mùi hương trên thế gian, mỉa mai thay, đến lượt mình, chính hắn lại không có một mùi hương nào cả: dù đó là hương thơm hay mùi hôi hám, ô uế, hắn cũng đều không có. Trống rỗng, hơn cả không khí lạnh, đó là Grenouille. Khi còn nhỏ, hắn không có mùi của một đứa trẻ con thông thường. Đến khi lớn lên, mọi thứ vẫn không có gì thay đổi. Người ta nói, hắn là hiện thân của quỷ dữ.

Có thể nói, hình tượng mùi hương xuyên suốt câu truyện này, đó không chỉ là thứ mà khứu giác cảm nhận được. Mang trong mình chất hiện thực huyền ảo (Magic realism) đặc trưng bởi dòng văn học của Mỹ Latin, hình tượng “mùi hương” của Suskind cũng giống như hình tượng “cái đuôi lợn” trong Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez, nó mang tinh thần chủ đạo của tác phẩm, về nỗi sợ hãi sự cô độc. Mùi hương trong Mùi hương đại diện cho danh tính mỗi người. Mùi hương của một người là cái để phân biệt người này với người kia, cũng như tên họ, thậm chí còn hơn cả tên họ, vì tên họ thậm chí trùng lặp (như Jean-Baptiste Grenouille là cái tên quá tầm thường nhưng kẻ sát nhân Jean-Baptiste Grenouille của Suskind chỉ có một mà thôi), nhưng mùi hương mỗi người là duy nhất.

Đến đây, tôi muốn quay trở lại với nỗi sợ đầy ám ảnh của Mùi hương mà tôi đã đề cập tới ban nãy. Grenouille, trái lại với hình ảnh một kẻ sát nhân máu lạnh, tôi cho rằng, chính hắn chứ không ai khác, là nạn nhân của nỗi sợ, tâm hồn hắn chưa đầy nỗi sợ, nếu như hắn cũng được coi là có tâm hồn. Grenouille đánh hơi được mọi mùi trên thế gian – hay nói cách khác, hắn đánh hơi được mọi tội ác trên thế gian. Trong mắt hắn, Paris là thành phố bị nhấn chìm bởi thứ mùi hôi hám, kinh tởm, mùi hôi thối của đường sá, phân chuột, gỗ mủn, bệnh tật, và cả con người, tất cả đều phả ra thứ mùi uế tạp. Nước hoa chỉ là thứ mặt nạ mà những nhà quý tộc hôi như những con dê già, nhà vua hôi như con thú dữ mượn lấy để che lấp mùi hương thật trên cơ thể. Hương thơm như hoa tỏa ra từ một vương tôn giàu có chỉ là dối trá, đằng sau tất cả những hương thơm mê đắm ấy, là một mùi hôi đến tởm lởm mà Grenouille đã có lúc từng không thể chịu đựng nổi. Hắn sợ con người, chính xác hơn là sợ mùi hôi thối của con người, chính xác hơn nữa, có lẽ là sợ sự độc ác của con người, nếu như hắn có quyền lên án kẻ khác là độc ác, và trong bảy năm ròng, Grenouille đã giải thoát mình bằng cách chạy xa khỏi thế giới, hắn đi tìm đến một nơi thật xa xôi, thật hẻo lánh, để tận hưởng sự cô độc của mình.

Hình ảnh Grenouille chạy trốn thế giới khiến chúng ta hoang mang về chính thế giới mà ta đang sống. Liệu những gì ta thấy có phải là sự thực? Đằng sau vẻ hoa lệ lấp lánh liệu có phải những dối trá và tội ác tinh vi mà chúng ta không cảm nhận được? Grenouille muốn tránh xa khỏi con người, càng xa càng tốt, bởi con người là nguồn gốc của tội ác, không phải con rắn trong Kinh Thánh mà Chúa cho rằng là loài mãng xà độc ác đáng bị nguyền rủa, mà chính là con người, vì lòng tham, vì sự vị kỷ, đã làm những điều xấu xa, gian dối, quỷ quyệt. Làm gì có quỷ dữ nào? Chỉ có con người mà thôi.

Grenouille sợ hãi thế giới như thế. Nhưng hắn còn một nỗi sợ khác lớn hơn, đó là nỗi sợ bị thế giới ruồng bỏ. Đúng, hắn đã xuất hiện là kẻ bất cẩn, không cần bạn bè, chẳng cần bằng hữu, chẳng cần yêu thương, nâng niu, hắn chỉ cần ngủ ở chuồng ngựa, ăn những thứ phế phẩm nhất, làm những việc nặng nhọc nhất, nguy hiểm nhất, hắn chưa từng, dù chỉ một thoáng nghĩ về việc được yêu thương, hay căm hờn vì không nhận được tình yêu thương, ngay cả tình yêu thương từ mẹ hắn, nhưng thẳm sâu trong hắn, vẫn là nỗi sợ bị bỏ rơi. Hắn yêu sự cô độc, nhưng cũng đồng thời muốn được là con người. Bởi nếu không phải như thế, hắn đã chẳng sợ hãi đến phát điên khi chết ngập trong thứ mùi-hương-trống-rỗng của bản thân, khi hắn thấy hắn khác tất cả, khi hắn nhận ra lý do hắn bị ruồng bỏ. Bởi nếu không phải như thế, hắn đã chẳng làm mọi cách để chiếm đoạt mùi hương thơm nhất trên trần gian này làm thành mùi hương của mình. Grenouille muốn nhận được tình yêu thương, cho dù đó là chỉ là tinh yêu giả trá, ồ không, còn hơn thế, Grenouille muốn được cả thế giới yêu kính và sùng bái như một vị thánh, như một Đức Chúa vĩ đại.

Grenouille, con cóc ghẻ bẩn thỉu ấy, dù cho không được coi là một con người, thì hắn cũng như mọi con người khác, cũng sợ trở thành kẻ lạc loài. Và mọi con người khác, cũng như Grenouille, sẵn sàng làm mọi thứ để không bị loại ra khỏi xã hội, kể cả việc che đậy con người thật của mình, để đeo một cái mặt nạ giống như ngàn vạn kẻ khác, không biết rằng, có khi ngàn vạn kẻ kia cũng chỉ đang che đậy bộ mặt thật bằng chiếc mặt nạ của riêng mình.

Ban đầu, Grenouille ngụy trang bằng thứ mùi hôi hám để được giống như người bình thường, để họ cảm nhận được sự tồn tại của hắn, để họ chấp nhận hắn là đồng loại của họ. Nhưng tham vọng của hắn, như đã nói, không dừng lại ở việc được chấp nhận, hắn còn muốn trở thành Grenouille Vĩ Đại được ngợi ca, được cả thế giới quỳ móp dưới chân. Và hắn quyết tâm đánh cắp mùi hương thơm nhất trên thế gian này, hương thơm của những thiếu nữ trẻ. Hương thơm của những thiếu nữ trẻ, ngọt hơn mật ong, dịu dàng hơn thủy tiên, tươi mát hơn nước nguồn, đó chính là ẩn dụ về phần thiện của con người, không chút ô hợp, chỉ tồn tại ở những cô gái thánh thiện, hiện thân của Đức mẹ Maria. Đó là mùi hương khác biệt hoàn toàn so với mùi hôi thối khác của loài người, và đó chính là thứ mà người ta tôn sùng, là tôn giáo, là Chúa mà chúng ta tôn thờ. Sau tất cả những tội ác đã gây ra, con người vẫn sợ hãi khi nhắc đến Chúa, vẫn đến xưng tội với Đức cha, vẫn bị khuất phục trước sự lương thiện của Chúa. Và Grenouille – hiện thân của satan, muốn đánh cắp điều đó.

Grenouille, kẻ sát nhân đáng lẽ bước ra pháp trường để chờ xử tử, cuối cùng lại đến nơi hành hình bằng xe ngựa, ăn vận như một hoàng tử, và tất cả những người có mặt lẽ ra phải căm giận nguyền rủa hắn cuối cùng lại quỳ rạp dưới chân hắn, tôn hắn làm vị thánh của họ. Ồ, một kẻ với hương thơm mê đắm đến thế, ngây thơ và trong sáng đến thế, hắn đâu thể là kẻ giết người ác độc như cáo buộc được, ngay cả những kẻ căm thù hắn nhất vì đã giết hại con gái họ, cũng ôm hắn trong vòng tay và nức nở. Đó là giờ phút vinh quang nhất trong đời của Grenouille, và lẽ ra là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời hắn, một kẻ tận cùng của cô độc, hơn cả bị chà đạp và ghê tởm, hắn bị ruồng bỏ và lãng quên, kẻ chưa từng nhận được bất kỳ một mảnh vụn tình yêu nào, giờ đây đang được cả thế giới yêu kính tôn sùng. Nhưng ngược lại:

“Nhưng vinh quang lại khiến gã kinh hoàng. […] Trong lúc gã bước xuống quảng trường chói nắng, phủ trên người lớp nước hoa mà gã đã thèm khát cả đời và phải mất hai năm làm việc ròng rã mới có được, thứ nước hoa khiến người ta yêu thích… trong lúc gã nhìn và ngửi thấy nước hoa ấy tỏa nhanh như gió, chế ngự mọi người quanh gã, không ai cưỡng lại được, thì cũng chính lúc ấy tất cả sự kinh tởm đối với con người lại cuồn cuộn lên trong gã, làm ô uế mọi vinh quang […] Trong cái khoảnh khắc của thành công thì nỗi khao khát được con người yêu thích trở nên không thể chịu đựng nổi, vì gã không yêu họ, gã ghét họ. […] Nhưng sự thù ghét gã dành cho con người không được con người đáp lại. Giờ đây gã càng ghét họ thì họ càng tôn sùng gã bởi vì họ không cảm nhận được gì từ gã ngoài cái tinh hoa vay mượn, cái mặt nạ mùi của gã, cái nước hoa ăn cướp của gã […] Gã chỉ muốn tiêu diệt bọn người ngu xuẩn, hôi hám, dâm ô này […] Gã mong họ nhận ra rằng gã ghét họ biết mấy […] Gã muốn được bộc lộ một lần trong đời. Gã muốn được một lần bộc lộ cõi lòng như mọi người khác. Một lần, chỉ một lần duy nhất thôi, gã muốn rằng sự hiện hữu thật sự của gã được ghi nhận và sự thù ghét, tình cảm thật duy nhất của gã được đáp lại.”

Giả trá biết bao, thế giới này, giả trá đến mức, đến Chúa cũng có thể là giả trá, và người ta có thể tôn sùng một con quỷ satan đội lốt Chúa chỉ vì nó có mùi hương giống như Chúa. Những kẻ đó không nhìn ra sự thật, bởi vì bản chất của chúng cũng độc ác, cũng đen tối, nông cạn, và chỉ cầu nguyện mà trong lòng vẫn đầy dục vọng xấu xa.

Còn Grenouille, hắn vẫn cô độc ngay cả trong vòng tay yêu thương, ngay cả khi được sùng kính. Hắn, sau rốt, vẫn chỉ là một kẻ vô danh tính, không được thừa nhận, cái mà họ thừa nhận đâu phải hắn, mà chỉ là hương thơm mà hắn phủ lên người, còn Grenouille-thực-sự chỉ là kẻ vô hình trong mắt họ. Nỗi khát khao được bộc lộ của Grenouille chính là nỗi tận-cùng-cô-độc của hắn. Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng, từng nói: Loneliness does not come from having no people around you, but from being unable to communicate the things that seem important to you. (Quả thực, bỗng dưng tôi ngồi viết review cho cuốn sách này, cũng vì tình cờ đọc được câu nói trên, và nó gợi tôi nhớ về câu chuyện của kẻ sát nhân cô độc Grenouille). Phải, không có gia đình là cô độc, không có bạn bè là cô độc, bị ghẻ lạnh xa lánh là cô độc, không được yêu thương là cô độc, nhưng không được bày tỏ chính mình mới là tận cùng của cô độc.

Ở một góc nhìn khác, có thể cho rằng, Grenouille là đứa con của giai đoạn đầu Thời kỳ Khai Sáng (Age of Enlightenment) đã xuất hiện ở châu Âu từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, thời đại gắn với những cuộc Cách Mạng Khoa Học, Triết học, Văn hóa, Nghệ thuật, khi Giáo hội dần mất vị trí của mình và thay vào đấy là sự lên ngôi của Khoa Học – Lý Tính – Cá Nhân – Tự Do. Cách Grenouille trở về góc chợ nơi hắn sinh ra, nhớp nhúa như đống ruột cá, đổ toàn bộ lượng nước hoa còn lại lên người mình, để rồi bị một bầy người tôn sùng đến mức ngốn ngấu hắn không còn một mảnh xương nào, đó chính là cách mà nhân loại đã khai tử Thời Kỳ Đen Tối (Dark Ages) với những phi lý, mê tín dị đoan và độc tài mà Giáo Hội đã áp đặt lên xã hội hàng trăm năm, khiến cho con người chết mòn trong tội ác, sự cô độc, đê hèn và không có quyền có tiếng nói, thậm chí không có quyền được làm chính mình.

Kết cục lại, Mùi hương, cũng giống như Ring hay Sự im lặng của bầy cừu, không phải một tác phẩm kinh dị điển hình, trong quá trình đọc, độc giả có thể sẽ không cảm thấy những cơn ớn lạnh dọc sống lưng, thậm chí sau khi gấp sách lại, cũng không thấy có gì sợ hãi. Nhưng rất có thể, một ngày nào đấy, nghĩ lại câu chuyện về kẻ bị ruồng bỏ Grenouille, bạn lại bất chợt thấy vã mồ hôi, đó là lúc nỗi sợ sâu kín nhất trong lòng mỗi chúng ta chợt trỗi dậy và nhấn chìm ta trong sự mênh mông đến vô tận của nó. Rốt cuộc, chẳng có bóng ma nào đeo bám chúng ta cả, chỉ có sự cô độc ám ảnh mà thôi.

Hết.

Hiền Trang

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng