Phía sau trang sách

Mùi hương – Câu chuyện một kẻ sát nhân hay con người và tận cùng của cô độc

Published

on

Mùi hương là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn người Đức Patrick Suskind. Xuất bản năm 1985, cuốn sách này ngay lập tức trở thành một hiện tượng trên văn đàn thế giới. Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ là một hiện tượng nhất thời như thế giới phù du của ‘mùi hương’ đến và đi không lưu lại chút dấu vết nào, nó đã được các nhà phê bình nhận định là một kiệt tác của văn học đương đại với những thông điệp lớn thông qua câu chuyện kỳ lạ của một kẻ sát nhân tại nước Pháp hơn 200 năm trước.

Nếu chỉ đơn giản là một câu chuyện kinh dị về một kẻ giết người máu lạnh thì có lẽ tiểu thuyết này cũng chẳng có gì hơn là một tiểu thuyết mang tính dọa dẫm thị trường câu khách. Tôi nhớ trên một trang web giới thiệu về 3 cuốn tiểu thuyết: Ring – Vòng tròn ác nghiệt của Suzuki Koji, Sự im lặng của bầy cừu của Thomas Harris và Mùi hương, đã có một độc giả nhận xét ở dưới rằng: “Sau khi đọc 3 cuốn sách này, anh/chị ta thấy chẳng có gì là đáng sợ như lời giới thiệu cả, quá bình thường, và yêu cầu nhà sách hãy xuất bản những cuốn ghê rợn hơn”. Nhắc đến chuyện này, ý của tôi là, nếu như bạn đang định tìm một cuốn sách với những bóng ma luôn chờ trực ở đâu đó lao ra tóm lấy ta, hay một kẻ sát nhân điên cuồng mất trí và đâm chém đẫm máu, thì có lẽ bạn hãy tìm đến với văn hóa kinh dị của Quỷ Cổ Nữ hay đại khái là những tác giả giỏi tạo ra những sự kiện thót tim, những tình tiết làm bạn thậm chí không dám bước ra cầu thang vì sợ có một bóng ma đang nằm sẵn ở đó kéo chân bạn xuống. Đó chỉ đơn giản là lời phân trần trước của tôi để lỡ bạn có đọc 3 cuốn sách này mà không thấy sợ thì cũng đừng cảm thấy thất vọng. Vì đơn giản, cái mà Koji, Harris hay Suskind hướng đến không phải dọa ma độc giả, mà nó hướng tới những nỗi sợ sâu kín nhất, bản chất nhất của mỗi chúng ta.

Vậy những nỗi sợ sâu kín nhất của con người ta là gì vậy? Con người sống trên đời có rất nhiều nỗi sợ hãi: sợ chết, sợ già nua, sợ xấu xí, sợ bóng tối, sợ độ cao, sợ nghèo đói, sợ bị mắng mỏ, sợ mất mát, sợ bị bỏ rơi, sợ cô độc. Trong số những nỗi sợ đó, tầm thường có mà cao quý cũng có, hiển hiện có, mà chôn giấu kỹ đến mức đôi khi đến tự bản thân không nhận ra cũng có. Qua câu chuyện về cuộn băng giết người, Suzuki Koji muốn nói tới những nỗi sợ bản năng đã tồn tại từ khi chúng ta chỉ là một hài nhi, nỗi sợ về một thế giới lan tràn cái ác, nơi mà con người ta phải bất chấp lương tâm để nhân bản cái ác nhằm cứu chính tính mạng của mình. Qua câu chuyện về bác sĩ tâm thần ăn thịt người Hannibal Lecter, Thomas Harris nói về nỗi sợ đối mặt với quá khứ, đó không chỉ là nỗi sợ bị tên bác sĩ nhai mất lưỡi và ăn mất gan, mà đó là nỗi sợ bị hắn kiểm soát, bị hắn thâm nhập vào tâm trí, để cuối cùng đánh mất chính mình. Còn với câu chuyện về kẻ sát nhân với khứu giác thiên tài, Grenouille, cái mà Suskind hướng đến đó chính là nỗi sợ về sự cô độc, nỗi sợ bị ném ra ngoài rìa xã hội, nỗi sợ trở thành một kẻ lạc loài không được chấp nhận.

Một tật xấu mỗi khi viết review của tôi đấy là lúc nào cũng dẫn dắt dài dòng, có lẽ một lúc nào đó, tôi sẽ dành thời gian viết riêng review cho Sự im lặng của bầy cừu và Ring, còn bây giờ, thì tôi sẽ thôi lan man và tập trung vào chủ đề chính của bài viết này.

Mùi hương kể về cuộc đời của Jean-Baptiste Grenouille, một thiên tài được sinh ra với khứu giác siêu phàm có thể nhận biết mọi mùi hương trên thế gian, nhưng bản thân lại không có một mùi hương nào trên người. Với khao khát chế tạo ra một thứ mùi hương cho riêng mình, hắn đã lên một kế hoạch kinh khủng để đánh cắp hương thơm trên những thiếu nữ trẻ. Và đó là sự khởi nguồn về tội ác đầy ám ảnh của một kẻ sát nhân quỷ dữ bị nguyền rủa.

Jean-Baptiste Grenouille là một kẻ cô độc cùng cực, thậm chí hơn cả cô độc, trạng thái cô độc của hắn không thể được diễn tả bằng một từ được, vì nó vượt qua giới hạn của sự cô độc mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Hắn bắt đầu bước vào thế giới này từ một góc chợ gớm ghiếc, bẩn thỉu và tanh lòm, và là đứa duy nhất trong số những anh em của hắn không chết dưới bàn tay giết chóc của chính mẹ đẻ mình. Grenouille đã là kẻ cô độc từ khi sinh ra.

Grenouille được chuyển nuôi từ hết người này sang người kia, chẳng ai muốn giữ hắn lại cả, từ những bà vú em đã quen nuôi sống bọn trẻ mồ côi, cho đến vị cha xứ với lòng bao dung và tình yêu thương của Chúa. Những người giữ hắn lại được, hầu hết đều chỉ vì hắn là kẻ được việc, vì hắn khỏe gấp đôi gấp ba kẻ khác, vì hắn có thể lao động như một con trâu mà tuyệt đối không kêu ca gì, tuyệt đối không mở miệng đòi hỏi bất cứ ân huệ gì, chỉ câm lặng và im lìm, vì hắn làm hùng hục, quần quật đêm ngày như thế mà không ốm đau, mà có ốm đau, dù thập tử nhất sinh, hắn cũng không chết, như một con rận dai dẳng bám víu lấy sự sống; hoặc nếu không thì vì hắn có cái thiên tài kỳ quặc mà người ta có thể khai thác để làm giàu, hắn là cái mỏ vàng ngầm không bao giờ cạn kiệt. Nhưng ngoài tất cả những cái đó, người ta vẫn, một cách nào đó, ghê tớm hắn, chính xác hơn là ghê sợ hắn, họ không muốn đụng chạm tới hắn, họ không coi hắn là một đồng loại của mình.

Grenouille âm thầm lớn lên trong những xó xỉnh của Paris hoa lệ, cùng với cái thiên tài về mùi hương của mình. Hắn xấu xí và gớm guốc, nhưng trên đời có vô vàn kẻ cũng gớm guốc và xấu xí, song không ai như hắn, không ai bị xã hội ruồng bỏ như hắn. Hắn có đủ đặc tính của một con người: chân, tay, mắt, mũi, thậm chí hắn còn là một kẻ có bộ óc thông minh, nhanh nhạy, nhưng cái kẻ có thể ngửi ra ngàn vạn mùi hương trên thế gian, mỉa mai thay, đến lượt mình, chính hắn lại không có một mùi hương nào cả: dù đó là hương thơm hay mùi hôi hám, ô uế, hắn cũng đều không có. Trống rỗng, hơn cả không khí lạnh, đó là Grenouille. Khi còn nhỏ, hắn không có mùi của một đứa trẻ con thông thường. Đến khi lớn lên, mọi thứ vẫn không có gì thay đổi. Người ta nói, hắn là hiện thân của quỷ dữ.

Có thể nói, hình tượng mùi hương xuyên suốt câu truyện này, đó không chỉ là thứ mà khứu giác cảm nhận được. Mang trong mình chất hiện thực huyền ảo (Magic realism) đặc trưng bởi dòng văn học của Mỹ Latin, hình tượng “mùi hương” của Suskind cũng giống như hình tượng “cái đuôi lợn” trong Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez, nó mang tinh thần chủ đạo của tác phẩm, về nỗi sợ hãi sự cô độc. Mùi hương trong Mùi hương đại diện cho danh tính mỗi người. Mùi hương của một người là cái để phân biệt người này với người kia, cũng như tên họ, thậm chí còn hơn cả tên họ, vì tên họ thậm chí trùng lặp (như Jean-Baptiste Grenouille là cái tên quá tầm thường nhưng kẻ sát nhân Jean-Baptiste Grenouille của Suskind chỉ có một mà thôi), nhưng mùi hương mỗi người là duy nhất.

Đến đây, tôi muốn quay trở lại với nỗi sợ đầy ám ảnh của Mùi hương mà tôi đã đề cập tới ban nãy. Grenouille, trái lại với hình ảnh một kẻ sát nhân máu lạnh, tôi cho rằng, chính hắn chứ không ai khác, là nạn nhân của nỗi sợ, tâm hồn hắn chưa đầy nỗi sợ, nếu như hắn cũng được coi là có tâm hồn. Grenouille đánh hơi được mọi mùi trên thế gian – hay nói cách khác, hắn đánh hơi được mọi tội ác trên thế gian. Trong mắt hắn, Paris là thành phố bị nhấn chìm bởi thứ mùi hôi hám, kinh tởm, mùi hôi thối của đường sá, phân chuột, gỗ mủn, bệnh tật, và cả con người, tất cả đều phả ra thứ mùi uế tạp. Nước hoa chỉ là thứ mặt nạ mà những nhà quý tộc hôi như những con dê già, nhà vua hôi như con thú dữ mượn lấy để che lấp mùi hương thật trên cơ thể. Hương thơm như hoa tỏa ra từ một vương tôn giàu có chỉ là dối trá, đằng sau tất cả những hương thơm mê đắm ấy, là một mùi hôi đến tởm lởm mà Grenouille đã có lúc từng không thể chịu đựng nổi. Hắn sợ con người, chính xác hơn là sợ mùi hôi thối của con người, chính xác hơn nữa, có lẽ là sợ sự độc ác của con người, nếu như hắn có quyền lên án kẻ khác là độc ác, và trong bảy năm ròng, Grenouille đã giải thoát mình bằng cách chạy xa khỏi thế giới, hắn đi tìm đến một nơi thật xa xôi, thật hẻo lánh, để tận hưởng sự cô độc của mình.

Hình ảnh Grenouille chạy trốn thế giới khiến chúng ta hoang mang về chính thế giới mà ta đang sống. Liệu những gì ta thấy có phải là sự thực? Đằng sau vẻ hoa lệ lấp lánh liệu có phải những dối trá và tội ác tinh vi mà chúng ta không cảm nhận được? Grenouille muốn tránh xa khỏi con người, càng xa càng tốt, bởi con người là nguồn gốc của tội ác, không phải con rắn trong Kinh Thánh mà Chúa cho rằng là loài mãng xà độc ác đáng bị nguyền rủa, mà chính là con người, vì lòng tham, vì sự vị kỷ, đã làm những điều xấu xa, gian dối, quỷ quyệt. Làm gì có quỷ dữ nào? Chỉ có con người mà thôi.

Grenouille sợ hãi thế giới như thế. Nhưng hắn còn một nỗi sợ khác lớn hơn, đó là nỗi sợ bị thế giới ruồng bỏ. Đúng, hắn đã xuất hiện là kẻ bất cẩn, không cần bạn bè, chẳng cần bằng hữu, chẳng cần yêu thương, nâng niu, hắn chỉ cần ngủ ở chuồng ngựa, ăn những thứ phế phẩm nhất, làm những việc nặng nhọc nhất, nguy hiểm nhất, hắn chưa từng, dù chỉ một thoáng nghĩ về việc được yêu thương, hay căm hờn vì không nhận được tình yêu thương, ngay cả tình yêu thương từ mẹ hắn, nhưng thẳm sâu trong hắn, vẫn là nỗi sợ bị bỏ rơi. Hắn yêu sự cô độc, nhưng cũng đồng thời muốn được là con người. Bởi nếu không phải như thế, hắn đã chẳng sợ hãi đến phát điên khi chết ngập trong thứ mùi-hương-trống-rỗng của bản thân, khi hắn thấy hắn khác tất cả, khi hắn nhận ra lý do hắn bị ruồng bỏ. Bởi nếu không phải như thế, hắn đã chẳng làm mọi cách để chiếm đoạt mùi hương thơm nhất trên trần gian này làm thành mùi hương của mình. Grenouille muốn nhận được tình yêu thương, cho dù đó là chỉ là tinh yêu giả trá, ồ không, còn hơn thế, Grenouille muốn được cả thế giới yêu kính và sùng bái như một vị thánh, như một Đức Chúa vĩ đại.

Grenouille, con cóc ghẻ bẩn thỉu ấy, dù cho không được coi là một con người, thì hắn cũng như mọi con người khác, cũng sợ trở thành kẻ lạc loài. Và mọi con người khác, cũng như Grenouille, sẵn sàng làm mọi thứ để không bị loại ra khỏi xã hội, kể cả việc che đậy con người thật của mình, để đeo một cái mặt nạ giống như ngàn vạn kẻ khác, không biết rằng, có khi ngàn vạn kẻ kia cũng chỉ đang che đậy bộ mặt thật bằng chiếc mặt nạ của riêng mình.

Ban đầu, Grenouille ngụy trang bằng thứ mùi hôi hám để được giống như người bình thường, để họ cảm nhận được sự tồn tại của hắn, để họ chấp nhận hắn là đồng loại của họ. Nhưng tham vọng của hắn, như đã nói, không dừng lại ở việc được chấp nhận, hắn còn muốn trở thành Grenouille Vĩ Đại được ngợi ca, được cả thế giới quỳ móp dưới chân. Và hắn quyết tâm đánh cắp mùi hương thơm nhất trên thế gian này, hương thơm của những thiếu nữ trẻ. Hương thơm của những thiếu nữ trẻ, ngọt hơn mật ong, dịu dàng hơn thủy tiên, tươi mát hơn nước nguồn, đó chính là ẩn dụ về phần thiện của con người, không chút ô hợp, chỉ tồn tại ở những cô gái thánh thiện, hiện thân của Đức mẹ Maria. Đó là mùi hương khác biệt hoàn toàn so với mùi hôi thối khác của loài người, và đó chính là thứ mà người ta tôn sùng, là tôn giáo, là Chúa mà chúng ta tôn thờ. Sau tất cả những tội ác đã gây ra, con người vẫn sợ hãi khi nhắc đến Chúa, vẫn đến xưng tội với Đức cha, vẫn bị khuất phục trước sự lương thiện của Chúa. Và Grenouille – hiện thân của satan, muốn đánh cắp điều đó.

Grenouille, kẻ sát nhân đáng lẽ bước ra pháp trường để chờ xử tử, cuối cùng lại đến nơi hành hình bằng xe ngựa, ăn vận như một hoàng tử, và tất cả những người có mặt lẽ ra phải căm giận nguyền rủa hắn cuối cùng lại quỳ rạp dưới chân hắn, tôn hắn làm vị thánh của họ. Ồ, một kẻ với hương thơm mê đắm đến thế, ngây thơ và trong sáng đến thế, hắn đâu thể là kẻ giết người ác độc như cáo buộc được, ngay cả những kẻ căm thù hắn nhất vì đã giết hại con gái họ, cũng ôm hắn trong vòng tay và nức nở. Đó là giờ phút vinh quang nhất trong đời của Grenouille, và lẽ ra là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời hắn, một kẻ tận cùng của cô độc, hơn cả bị chà đạp và ghê tởm, hắn bị ruồng bỏ và lãng quên, kẻ chưa từng nhận được bất kỳ một mảnh vụn tình yêu nào, giờ đây đang được cả thế giới yêu kính tôn sùng. Nhưng ngược lại:

“Nhưng vinh quang lại khiến gã kinh hoàng. […] Trong lúc gã bước xuống quảng trường chói nắng, phủ trên người lớp nước hoa mà gã đã thèm khát cả đời và phải mất hai năm làm việc ròng rã mới có được, thứ nước hoa khiến người ta yêu thích… trong lúc gã nhìn và ngửi thấy nước hoa ấy tỏa nhanh như gió, chế ngự mọi người quanh gã, không ai cưỡng lại được, thì cũng chính lúc ấy tất cả sự kinh tởm đối với con người lại cuồn cuộn lên trong gã, làm ô uế mọi vinh quang […] Trong cái khoảnh khắc của thành công thì nỗi khao khát được con người yêu thích trở nên không thể chịu đựng nổi, vì gã không yêu họ, gã ghét họ. […] Nhưng sự thù ghét gã dành cho con người không được con người đáp lại. Giờ đây gã càng ghét họ thì họ càng tôn sùng gã bởi vì họ không cảm nhận được gì từ gã ngoài cái tinh hoa vay mượn, cái mặt nạ mùi của gã, cái nước hoa ăn cướp của gã […] Gã chỉ muốn tiêu diệt bọn người ngu xuẩn, hôi hám, dâm ô này […] Gã mong họ nhận ra rằng gã ghét họ biết mấy […] Gã muốn được bộc lộ một lần trong đời. Gã muốn được một lần bộc lộ cõi lòng như mọi người khác. Một lần, chỉ một lần duy nhất thôi, gã muốn rằng sự hiện hữu thật sự của gã được ghi nhận và sự thù ghét, tình cảm thật duy nhất của gã được đáp lại.”

Giả trá biết bao, thế giới này, giả trá đến mức, đến Chúa cũng có thể là giả trá, và người ta có thể tôn sùng một con quỷ satan đội lốt Chúa chỉ vì nó có mùi hương giống như Chúa. Những kẻ đó không nhìn ra sự thật, bởi vì bản chất của chúng cũng độc ác, cũng đen tối, nông cạn, và chỉ cầu nguyện mà trong lòng vẫn đầy dục vọng xấu xa.

Còn Grenouille, hắn vẫn cô độc ngay cả trong vòng tay yêu thương, ngay cả khi được sùng kính. Hắn, sau rốt, vẫn chỉ là một kẻ vô danh tính, không được thừa nhận, cái mà họ thừa nhận đâu phải hắn, mà chỉ là hương thơm mà hắn phủ lên người, còn Grenouille-thực-sự chỉ là kẻ vô hình trong mắt họ. Nỗi khát khao được bộc lộ của Grenouille chính là nỗi tận-cùng-cô-độc của hắn. Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng, từng nói: Loneliness does not come from having no people around you, but from being unable to communicate the things that seem important to you. (Quả thực, bỗng dưng tôi ngồi viết review cho cuốn sách này, cũng vì tình cờ đọc được câu nói trên, và nó gợi tôi nhớ về câu chuyện của kẻ sát nhân cô độc Grenouille). Phải, không có gia đình là cô độc, không có bạn bè là cô độc, bị ghẻ lạnh xa lánh là cô độc, không được yêu thương là cô độc, nhưng không được bày tỏ chính mình mới là tận cùng của cô độc.

Ở một góc nhìn khác, có thể cho rằng, Grenouille là đứa con của giai đoạn đầu Thời kỳ Khai Sáng (Age of Enlightenment) đã xuất hiện ở châu Âu từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, thời đại gắn với những cuộc Cách Mạng Khoa Học, Triết học, Văn hóa, Nghệ thuật, khi Giáo hội dần mất vị trí của mình và thay vào đấy là sự lên ngôi của Khoa Học – Lý Tính – Cá Nhân – Tự Do. Cách Grenouille trở về góc chợ nơi hắn sinh ra, nhớp nhúa như đống ruột cá, đổ toàn bộ lượng nước hoa còn lại lên người mình, để rồi bị một bầy người tôn sùng đến mức ngốn ngấu hắn không còn một mảnh xương nào, đó chính là cách mà nhân loại đã khai tử Thời Kỳ Đen Tối (Dark Ages) với những phi lý, mê tín dị đoan và độc tài mà Giáo Hội đã áp đặt lên xã hội hàng trăm năm, khiến cho con người chết mòn trong tội ác, sự cô độc, đê hèn và không có quyền có tiếng nói, thậm chí không có quyền được làm chính mình.

Kết cục lại, Mùi hương, cũng giống như Ring hay Sự im lặng của bầy cừu, không phải một tác phẩm kinh dị điển hình, trong quá trình đọc, độc giả có thể sẽ không cảm thấy những cơn ớn lạnh dọc sống lưng, thậm chí sau khi gấp sách lại, cũng không thấy có gì sợ hãi. Nhưng rất có thể, một ngày nào đấy, nghĩ lại câu chuyện về kẻ bị ruồng bỏ Grenouille, bạn lại bất chợt thấy vã mồ hôi, đó là lúc nỗi sợ sâu kín nhất trong lòng mỗi chúng ta chợt trỗi dậy và nhấn chìm ta trong sự mênh mông đến vô tận của nó. Rốt cuộc, chẳng có bóng ma nào đeo bám chúng ta cả, chỉ có sự cô độc ám ảnh mà thôi.

Hết.

Hiền Trang

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng