Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Cánh cửa đi vào cảm xúc của người liên giới tính

Published

on

Chủ đề đồng tính, song tính và hoán tính đã xuất hiện từ lâu trong thần thoại phương Tây, từ trường ca Iliad của Homer với mối quan hệ của Achilles (chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia, con trai của Thetis) với Patroclus (con trai của Menoetius) đến mối quan hệ giữa Alexander Đại đế (con trai của nữ hoàng Olympias) với người yêu là Hephaestion (con trai của Amyntor, là một nhà quý tộc người Macedonia cổ đại và là một vị tướng trong quân đội của Alexander Đại đế). Văn học hiện đại viết về đồng tính có Chết ở Venice (Thomas Mann), Một con người (Christopher Isherwood), Chuyện tình núi Brokeback (Annie Proulx), Gọi em bằng tên anh (André Aciman); viết về đề tài chuyển giới có Orlando (Virginia Woolf), Cô gái Đan Mạch (David Ebershoff). Tuy nhiên, viết về người liên giới tính (lưỡng tính) hầu như chưa có tác phẩm nào ngoài Lưỡng giới (Middlesex) của Jeffrey Eugenides.

Liên giới tính là trạng thái mà một cá nhân bẩm sinh đã có kết cấu cơ quan sinh sản hoặc bộ phận sinh dục không hoàn toàn thuộc về đặc điểm sinh học của nam hay nữ theo cách hiểu thông thường. Thần thoại Hy Lạp từng nhắc đến Tiresias, người khi thì là đàn ông, khi thì là phụ nữ. Chuyện kể rằng, nhà tiên tri Tiresias khi thấy hai con rắn đang ân ái trong rừng cây xanh um đã dùng gậy đập chúng. Vậy là, ông bị biến đổi từ đàn ông thành đàn bà. Trong suốt bảy năm, ông sống dưới hình hài yểu điệu của một người phụ nữ. Năm thứ tám, ông gặp lại cặp rắn và nói: “Từ khi đánh chúng mày một gậy thì sức mạnh kì diệu đến và thay đổi giới tính của người đánh. Bây giờ ta lại đánh chúng mày một lần nữa đây”. Thế là ông trở lại hình dạng đàn ông như vốn có. Vào thế kỉ XX, trạng thái liên giới tính một lần nữa tái xuất trong Lưỡng giới thông qua nhân vật trung tâm Cal, hay Calliope Stephanides, một người “sinh ra hai lần: lần đầu là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petosky, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974”.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Lưỡng giới.

*

Liên giới tính như là hậu quả của tội loạn luân

“Chị hứa sẽ tìm cho em một cô gái Hy Lạp tử tế. E hèm. Chị chứ ai vào đây nữa.

Hồi ức trong Lưỡng giới bắt đầu như cuộn băng tua ngược, truy tìm căn nguyên từ đời thứ nhất ở bán đảo Tiểu Á. Khoảnh khắc mở đầu mang hơi hướm Homer và có không khí của thần thoại Hy Lạp: Jeffrey Eugenides đã “khai quật” cả một niên sử dòng họ Stephanides, một chuyến chu du huy hoàng trước khi Cal/Calliope xuất hiện trên thế giới này, chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase đã tồn tại và vượt qua những hành trình lưu lạc kỳ vĩ – từ bán đảo Tiểu Á thời loạn lạc tới vùng Trung Tây nước Mỹ thời Cấm Rượu những năm 1920, thời Đại Suy Thoái, thời bùng nổ kinh tế – chiếc gen ấy được giấu kín qua những đời người và những ái lực vừa trần tục vừa thần thoại, ái lực đã đẩy bà nội Desdemona vào tội loạn luân với cậu em ruột Lefty.

Như trong Những bông hoa trên tầng áp mái của V. C. Andrews hay Chuyện tình núi Brokeback của Annie Proulx, tình cảm thường nảy nở giữa những người cùng được sinh ra và sống cùng nhau trong môi trường thiếu thốn tình thương hay bị cách ly khỏi xã hội. Như trong thần thoại Hy Lạp, Zeus và Hera lấy nhau, Lefty và Desdemona từ mối quan hệ chị em, họ trở thành vợ chồng. Trải qua hành trình gian nan để đến được nước Mỹ, trên chuyến tàu định mệnh, Desdemona và Lefty tự thay đổi chính mình, biến bản thân trở thành những con người khác. Dẫu đã rời vùng núi Bithynios, Hy Lạp đến Detroit, Mỹ, mặc cảm và lo sợ vẫn luôn ám ảnh Desdemona. Nỗi lo kéo dài khi bà mang thai và sinh con đứa đầu tiên, Milton. Khi biết được hầu hết các ca dị dạng ở trẻ em là do hôn nhân cận huyết, mặt Desdemona trắng bệch ra. “Ngu độn, rối loạn đông máu di truyền. Cứ nhìn nhà Romanov thì biết ngay. Cứ nhìn bất cứ gia tộc hoàng gia nào. Đột biến gen, tất cả bọn họ”.

Những tưởng lời nguyền hôn nhân cận huyết sẽ dừng lại khi họ đặt chân đến vùng đất mới, nhưng bi kịch này một lần nữa diễn ra với chính bố mẹ của Calliope – Milton và Tessie. Mặc cho sự ngăn cản của gia đình, Milton nhất quyết lấy bằng được bà chị họ của mình. Lời nguyền lại ám lên gia đình họ Stephanides: chị em họ lấy nhau. Desdemona đã rất lo sợ điều này, bà kịch liệt ngăn cản việc Milton và Tessie mang thai đứa thứ hai – nhân vật chính Cal/Calliope. Cây phả hệ nhà Stephanides là một gia phả đầy những rắc rối do quan hệ gần và vai vế chồng chéo, cũng đầy những chiếc gen đột biến lặn ẩn nấp trong mỗi cá nhân mà mắt thường không nhìn thấy được. Chiếc thìa của Desdemona xuất hiện như một lời cảnh báo, thông báo về những lưu ý trong giới tính đứa trẻ sắp sinh. Chiếc thìa bạc chưa từng đoán sai bao giờ: Thật sự, Calliope là một bé trai chứ không phải bé gái.

Định mệnh loạn luân đeo bám gia đình nhà Stephandies. Bí mật này bị thời gian chôn kín, cho đến khi cô bé Callie ngày xưa nay trở về nhà với thân phận và hình hài của một cậu trai. “Một người được thừa kế nhà cửa, số khác thừa kế tranh hay tay kéo vĩ cầm được bảo hiểm ở mức cao. Thậm chí số khác còn được nhận tủ tansu Nhật Bản hoặc một cái tên rất nổi. Tôi thì được nhận cái gen lặn ở nhiễm sắc thể số năm và vài thứ bảo vật gia truyền rất quý hiếm”. Cal/Callie là người “thừa kế” một chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase, điều đó khiến Cal/Callie trở thành người liên giới tính.

Lạc lõng trong tình yêu

Một người liên giới tính sẽ có xu hướng tình dục thế nào? Họ sẽ yêu ra sao, có giống những người bình thường không? Đó hẳn là một vấn đề đáng chú ý khi nói về tình yêu của những người liên giới tính. Nhà tiên tri Tiresias, một người là nam nhưng đã có bảy năm sống dưới hình hài của nữ và sau đó trở lại thành nam trong trường ca Biến thể của Ovid đã phán: “Nếu niềm vui ái tình là mười phần, thì ba lần ba thuộc về đàn bà. Một phần thuộc về đàn ông”.

Khi người ta muốn có cuộc sống bình thường thì không thể yêu một tình yêu bất thường, mà Cal/Calliope lại là một người có tình yêu bất thường, ít nhất là so với quan niệm tình yêu của xã hội lúc bấy giờ. Đối Tượng Mơ Hồ, sau được gọi với cái tên Đối Tượng, là nhân vật làm Cal cảm nhận những thay đổi đầu tiên trong suy nghĩ và xu hướng tính dục của bản thân. Tình bạn, sự thu hút của Cal/Callie với Đối Tượng biến thành thứ tình yêu tuổi mới lớn từ lúc nào không hay.

Tuy nhiên, trong chuyến dã ngoại với gia đình Đối Tượng, việc có một người con trai thích Cal/Callie được tiết lộ, điều đó chứng tỏ Cal/Callie có sức hút với cả hai giới. Cal cũng đã từng quan hệ với anh trai Đối Tượng, Jerome, nhưng hai người dường như thấy điều gì đó không bình thường, chính xác hơn là phía Cal/Callie. “Đau như bị dao đâm, đau như bị lửa bén. Nó rạch toạc vào trong người tôi. Nó xé toác bụng tôi lên tận núm vú. Tôi thở hổn hển; tôi mở mắt ra; tôi nhìn lên và thấy Jerome nhìn xuống mình. Bọn tôi há hốc mồm nhìn nhau và tôi biết anh biết. Jerome biết tôi là cái gì, cũng như tôi bất chợt nhận ra, lần đầu tiên hiểu rõ ràng tôi không phải con gái mà là một thứ gì đó ở giữa”. Qua trải nghiệm với Jerome, Cal/Callie nhận ra bản thân không phải là một cô gái, cũng không phải là một người có thể dùng tên gọi để chỉ đúng tên tức thì, mà là một cái gì đó ở giữa, giữa nam và nữ, không biết mình là nam hay nữ.

Đây cũng là lúc Cal/Callie lờ mờ nhìn thấy được sự bất thường của bản thân. Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi chuyện của Cal/Callie và Đối Tượng bị Jerome bắt gặp và cảnh báo: “Chia tay đứt đuôi nòng nọc ở đây nhé, Stephanides nhé. Xéo khỏi đây và đừng bao giờ quay lại nữa. Với cả đừng bén mảng lại gần em gái anh”. Sau lời đuổi cổ của Jemome, Callie bỏ đi, chạy trốn khỏi căn nhà đó. Tai nạn xảy ra và mọi chuyện đi theo một hướng khác mà chính Cal/Callie và cả gia đình y đã thật khó để chấp nhận.

Cal/Callie y không tự tin về cơ thể mình. Về sau này, khi đã là một người đàn ông, y vẫn chạy trốn với mặc cảm thân thể và không dám quan hệ với một ai. Cal/Callie sợ những người kia sẽ phát hiện ra khiếm khuyết cơ thể, sợ họ sợ hãi y, họ bỏ y… Cal/Callie có từng yêu, nhưng mặc cảm giới tính và thân thể làm y luôn chạy trốn và biệt tích trước khi lên giường cùng họ. “Nhưng thứ bảo vệ cuối cùng, cái quần đùi thùng thình, cái quần đùi kín đáo thì tôi không cởi ra. Không bao giờ mà tôi bỏ đi, phịa ra lý do nào đó. Tôi bỏ đi và không bao giờ gọi lại cho họ nữa. Hệt như một thằng đàn ông”. Cal/Calliope tự ti với bản thân hay chính bản thân y biết được mọi chuyện sẽ không có hồi kết, tệ hơn, y sợ những người yêu y, quan hệ với y biết được giới tính thật, một điều mà họ khó chấp nhận được. “Chả có lí do gì đề cập những thứ lập dị của tôi, việc tôi lang thang trong mê cung suốt nhiều năm qua, tránh bị nhìn thấy. Và tránh cả tình yêu nữa”.

Hành trình đi tìm bản dạng giới: Lạc lõng trong xã hội

Trong thần thoại Hy Lạp đã từng xuất hiện hình ảnh người lưỡng giới (liên giới tính). Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai là Hermaphroditos. Tiên nữ Salmacis đem lòng yêu Hermaphroditos nhưng bị từ chối, Salmacis đã ước nguyện thân thể hai người nhập làm một. Lời ước được chứng giám và xuất hiện một con người vừa nam vừa nữ, hình tượng được thể hiện như là vừa có vú vừa có dương vật.

Trước khi biết mình vốn nên là nam, Callie là một cô bé thuần tính nữ. Callie hiểu và biết mình đẹp, đã ngắm nghía bản thân nhiều giờ liền trước gương và cũng có nhu cầu làm đẹp như các bé gái khác. Nhưng khi các cô bạn đồng trang lứa bắt đầu thay đổi cơ thể rõ ràng ở tuổi dậy thì: phát triển ngực và có kinh nguyệt, dường như chẳng có gì tương đồng xuất hiện ở Cal/Calliope cả: cô vẫn thấp bé và phẳng lì. Điều này dẫn đến nỗi lo sợ trong Callie. Sự biến đổi khác diễn ra và tác động lên thân thể cũng như tâm lý, được Callie cảm nhận được ngay khi cô/anh bước vào tuổi mười ba. Từ một bé gái, sau một vụ tai nạn, Cal phát hiện mình là bé trai – đây quả thật là một chuyện khó chấp nhận với tất cả mọi người. Giới tính con người có nhiều bí ẩn mà không phải khoa học hay một cá nhân nào có thể lí giải được. Hoảng loạn và lạc lõng là biểu hiện đầu tiên khi Cal/Calliope biết giới tính thật của mình. Người ta tự hào khẳng định bản thân mình là độc nhất, là khác biệt, nhưng họ không chấp nhận sự khác biệt trong giới tính của người khác. Nhớ lại xem, trong quá khứ, những người đồng tính đã bị đối xử như thế nào? Trong Chuyện tình núi Brokeback, một người đàn ông bị đánh chết do người ta bảo ông ấy là đồng tính, bệnh hoạn, biến thái, điều đó ám ảnh Jack. Jack chọn việc kết hôn với một người phụ nữ, thực hiện vai trò là chồng, là cha. Jack muốn sống với Ennis, nhưng vì Ennis bị ám ảnh bởi sự kiện lúc còn nhỏ, khi một người bị nghi là đồng tính bị giết, Jack từ chối và y đánh mất hạnh phúc của mình.

Với Cal/Callie, trở thành một người đặc biệt vô tình biến y thành chuột lang thí nghiệm của y học. Di chuyển từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để người ta sờ, nắn, bóp, quyền riêng tư và quyền thân thể mất đi những vẫn không giúp được gì cho Cal cả. Khủng hoảng, chối bỏ căn cước mà bác sĩ và bố mẹ lựa chọn, Cal/Callie quyết định chạy trốn. Chạy trốn là quá trình tìm lại căn cước, tìm lại bản thân. Căn cước là từ dùng để chỉ quê quán lai lịch, tiểu sử hành tung và bản sắc riêng của một người. Dù thời gian làm trí nhớ ta mù mờ đi, dù nhiều thứ ta thấy khi còn trẻ đã mất hút, dù mọi thứ bị con người lãng quên thì tế bào vẫn nhớ. Vậy nên để là chính mình, mỗi con người phải tìm về với căn cước của họ. Hành trình phiêu lưu của chiếc gen là hệ quả mà Cal/Calliope “phải” gánh chịu. Chính sự đặc biệt của nó đã mang lại cảm giác lạ lùng như cách nó xuất hiện.

Mang cảm giác lạc lõng và đề phòng, không thấy bản thân giống những đứa trẻ bỏ nhà đi bụi khác và biết giới tính của bản thân cũng vậy, Cal/Callie tránh xa chúng để không gây rắc rối cho bản thân. Thời điểm xảy ra chuyện, Cal/Callie vẫn là một đứa trẻ vị thành niên. Việc đó khiến Cal/Callie nhanh chóng lấy lại tinh thần, với suy nghĩ người trẻ thường không thể sống mà ôm nỗi buồn quá lâu được, Cal/Callie lấy lại tinh thần khi bỏ nhà đến sống ở Đức. Sự khác biệt cũng làm Cal/Calliope trở nên trầm tính hơn “Tôi sống đời mình và chăm sóc những vết thương riêng”. Khi rời xa vòng tay của bố mẹ, thận trọng là lựa chọn của Cal/Callie.

Nhu cầu được thấu hiểu, được chia sẻ của người lưỡng tính rất bình thường và giống với tất cả những người bình thường. Không phải ai cũng kì thị người liên giới tính nhưng bản thân họ mang mặc cảm. Biết được tâm lí này, bác sĩ Pete Luce an ủi Cal bằng câu nói: “Tất cả những con người đang sống này, những đứa con trai và con gái của Chúa, bạn muốn biết rằng, dù này dù nọ, họ vẫn là con người”. Ông bà Lefty và Desdemona chạy khỏi quê hương vì chiến tranh, để rồi hơn năm mươi năm sau, Cal/Callie cũng bỏ chạy, dưới bí danh của một giới tính mới, tái sinh với dáng hình mới, cũng giống Lefty và Desdemona ngày ấy. Trên hành trình này, một mình Cal/Callie bước đi. Cal/Callie chấp nhận và hoàn thiện bản thân với tư cách là một người thiểu số, y cũng không còn tự ti về việc là thiểu số của bản thân. Đó là tín hiệu đáng mừng cho chính y và những người liên giới tính.

*

Hình ảnh hoa huệ tây không chỉ xuất hiện ở bìa sách, nó còn được nhắc đến trong nội dung tác phẩm. Nghệ tây (crocus sativus) là một loài hoa đặc biệt. Nhụy hoa huệ tây (saffron) được tìm thấy đầu tiên ở Hy Lạp, đây cũng là quê gốc của dòng tộc nhân vật chính cũng như bản thân tác giả. Về bản thân huệ tây, đây là loài hoa lưỡng tính, có cả nhị (đực) và nhụy (cái) trên cùng một hoa. Đặc điểm này cũng giống như nhân vật chính của tác phẩm bị kẹt giữa thế lưỡng nan về giới.

Trong thời Lưỡng Hà cổ, cây hoa nghệ tây được liên tưởng đến thần Ishtar, nữ thần hiện thân cho cả tạo hóa (sinh sản/ người phụ nữ) lẫn hủy diệt (chiến tranh/ người đàn ông). Nhà thảo dược đương đại Matthew Wood viết: “Hoa này mang vẻ thuần khiết (đại diện cho phái nữ) nhưng lại mang dục tính mạnh (người đàn ông).” Phần củ ở dưới tượng trưng cho cơ quan sinh sản của người phụ nữ, còn phần thân ở trên lại giống của người nam. Loài cây này mang hình dáng, bản chất của cả hai giới và nhiều ý nghĩa, là một đại diện, biểu tượng của người lưỡng tính.

*

Lưỡng giới trao cho người đọc cơ hội đối mặt và cảm nhận đời sống của nhân vật liên giới tính: trong xã hội tiêu chuẩn hóa dị tính, việc bản thân là người liên giới tính làm Cal/Callie gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống. Dị tính là đa số, việc biến đa số trở thành tiêu chuẩn sẽ giết chết đa dạng và tự do cá nhân. Cal/Callie luôn mang tâm trạng lạc lõng trong xã hội, trong gia đình, trong bản thân và trong tình yêu của chính mình; y mải miết đi trên hành trình tìm kiếm bản dạng giới, hay cũng là hành trình định danh bản thân.

Điều đặc biệt là Jeffrey Eugenides đã lựa chọn Calliope làm người kể chuyện, một nhân vật mang đặc trưng của hai giới, từng là bé gái và sau này trở thành bé trai. Thông qua hành động và cảm nhận của nhân vật này, người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu về hai giới. Cuộc khủng hoảng giới và hành trình tìm giới tính thật cũng là một sự đánh liều số phận của Cal/Callie. May mắn thay Cal/Callie đã được là chính mình, hay nói đúng hơn, nói theo cách nào đó, y hài lòng với lựa chọn của mình.

Hết.

Hoàng Anh

Đọc những bài viết của Hoàng Anh

Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng