Phía sau trang sách

Lời thì thầm của cây

“Hãy bước ra ngoài kia, cầm cuốc xẻng lên để trồng một mầm non cho mai sau.”

Published

on

WHAT THE TREES SAY

Thomas Pakenham

Vào năm 1664, John Evelyn – nhà biên khảo, chủ đồn điền và cao ủy viên dưới thời vua Charles II đã xuất bản một cuốn sách phi thường về các loài cây: Sylva, or a Discourse of Forest Trees (Tạm dịch: Sylva, hay cuộc luận bàn về các rừng cây), một trong những cuốn sách được quan tâm bậc nhất thế kỷ 17. Evelyn thật sự là đứa con chính tông của thời Phục Hưng khi đó là cuốn sách đầy uyên thâm, sắc sảo, thực tế và nồng nhiệt dù ở khía cạnh nào; để rồi sau này không một tác phẩm nào viết về thực vật lại có sức ảnh hưởng lên công luận nước Anh như thế. Thông điệp của ông? Một thông điệp thức thời: Chúng ta đang cần ghê gớm các loài cây; vì thế, hãy ra khỏi nhà, cầm xẻng lên, và bắt đầu gieo một mầm non.

Sylva, or a Discourse of Forest Trees
Ảnh: AbeBooks.com

Mặc cho những thảm họa đã khiến London tê liệt hai năm sau đó – trận đại dịch và đại hỏa hoạn – Evelyn vẫn sống sót để chứng kiến cuốn sách của mình được in lại đến bốn lần. Một thế kỷ sau, nó được tái bản và bổ sung thêm những minh họa chạm khắc mạ đồng thanh lịch cùng nhiều bình luận thấu đáo để cập nhật với thời đại hơn. Tiếp đến là những phiên bản gần đây nhất (rút gọn tên thành Sylva). Rất nhiều cây bút hiện đại cố gắng viết với tinh thần của Evelyn. Nhưng bằng một cách nào đó, Sylva vẫn nghiễm nhiên đứng đấy với một vị thế khó ai sánh kịp. Cứ như thế cho đến hiện tại. Hai cuốn sách mới nhất về các loài cây được đánh giá cao là The long, long life of trees (Tạm dịch: Một cuộc đời dài, rất dài của các loài cây)The hidden life of trees (Phương Nam Book đã dịch và phát hành tại Việt Nam với tựa đề Đời sống bí ẩn của cây). Với những phương thức khác nhau, chúng vẫn mang đậm “phẩm chất” Evelyn.

Một cuộc đời dài, rất dài của các loài cây viết bởi Fiona Stafford được đánh giá là tiệm cận nhất với tư tưởng Sylva. Đúng là Evelyn có sự mạo hiểm hơn trong việc chọn lựa giống loài cây để đi sâu khai thác miêu tả. Ông bao hàm một phạm vi rộng đáng kinh ngạc lên đến hơn 31 chi: từ những loài mới ở Bờ Đông Mỹ như sồi đỏ và thông Weymouth, cho đến những loài ngoại lai ở Anh như tuyết tùng Leban hay cây dâu tây Ireland. Trong khi đó, với cuốn sách của mình, Stafford khoanh vùng trong phạm vi an toàn hơn với chỉ 17 chi đại diện phổ biến trong các khu vườn, rừng cây và trên các bờ giậu rộng khắp Tây Âu và Bắc Mỹ như sồi, sung dâu, dẻ ngựa, sơn trà và nhiều loài khác. Nhưng thật may, những diễn giải của cô không phải là những luận điệu nhàm chán.

Stafford là giáo sư ngôn ngữ và văn chương Anh tại Đại học Oxford, cô thể nghiệm đa thể loại: từ tiểu thuyết, thơ ca, nghệ thuật cho đến môi trường. Bằng cách riêng mình, cô cũng là một học giả thông thái như Evelyn, và cô là một cây bút tiềm năng. Với cô, cây cối có ý nghĩa như thế nào? Theo lời Stafford, cuốn sách ra đời nhờ vào “cảm giác diệu kỳ” của cô hướng về cây cối. Cô ngưỡng mộ vẻ đẹp hình thể của chúng. Cô kinh ngạc bởi cách thức chúng sinh tồn. Và trên hết, có lẽ cô bị hút vào bởi nền văn hóa tổ chức lớp lang của chúng. Cô nhắc chúng ta nhớ rằng thật dễ dàng để coi nhẹ sự tồn tại của cây cối. Thế nhưng chúng ta phải làm nhiều hơn là chỉ đơn thuần ngưỡng mộ. “Hãy bước ra ngoài kia”, cô tiếp lời với thứ ngôn ngữ phảng phất âm điệu Evelyn, “cầm cuốc xẻng lên để trồng một mầm non cho mai sau.”

*

The long, long life of trees
Ảnh: GoodReads

Nếu trồng một cái cây mới, tôi tin chắc rằng lựa chọn đầu tiên của Stafford hẳn là một cây sồi. Hầu hết những người khôn ngoan đều không thể khước từ sức hấp dẫn của loài sồi thường gặp tại châu Âu, Quercus robur. Có bao giờ bạn bước chân vào Royal Oak? Stafford đang ám chỉ đến những quán bar Anh Quốc chứ không phải cây sồi nổi tiếng vùng Boscobel mà ở đó vua Charles II từng ẩn nấp sau trong trận thua Worcester năm 1651 trước cơn cuồng nộ của toán quân “kẻ đầu tròn”. Dĩ nhiên chuyện này dẫn đến chuyện khác, và ngày nay, số lượng quán bar Royal Oak hơn hẳn số lượng những quán bar khác, ngoại trừ Crown và Red Lion.

Trong chương viết về cây sồi, Stafford mở ra một lịch sử phức tạp về sự mê đắm của nước Anh dành cho loài cây này. Từ rất lâu trước cuộc trốn thoát nhiệm mầu của nhà vua ở Boscobel, sồi vốn đã là biểu tượng của quyền lực và sức mạnh xa xưa. Đó là loài cây của Zeus – vua của những vị thần. Đó là loài cây tiên tri xứ Dodona miền Hy Lạp, có thể đoán định trước tương lai. Augustus Caesar, người rất ý thức về hình ảnh của mình, cũng từng đối mặt đội quân La Mã khi mang trên đầu vương miện dân chủ lá sồi. Phẩm chất “nam tính” của cây sồi khiến nó là lựa chọn phù hợp cho biểu tượng của bất kỳ quốc gia nào, như Anh chẳng hạn, và tạo ấn tượng lấn át những người xóm giềng. Không quá khó để nó trở thành quốc thụ của đất nước này, mặc dù lời khẳng định trên không hẳn là chưa bao giờ bị thách thức. (Nhiều người dân yêu nước tại Anh chắc hẳn sẽ rất bất ngờ khi biết rằng từng có đến mười hai nước châu Âu khác và Mỹ xem nó như quốc thụ của họ.)

“Mạnh mẽ, kiên định và ngang tàng”, Stafford viết, “cây sồi luôn được ngưỡng mộ bởi nguồn năng lượng nội tại bền bỉ…. Không một loài cây nào bền lòng vững chí và hòa làm một với thế giới như nó. Không giống giẽ gai, dẻ ngựa hay sung dâu – những loài mà cành cây vươn đến bầu trời – thân sồi trưởng thành vững chắc, lởm chởm tỏa ra như vòng tay mở bán cầu dày lá.”

Những vòm lá trùng trùng điệp điệp này là nhà cho những sinh thể nhỏ hơn với số lượng đáng kinh ngạc: côn trùng, chim chóc, động vật, địa y, dương xỉ và nấm. Nếu ta tìm kiếm giữa những nhánh cây bám đầy địa y hoặc dương xỉ, ta cũng có thể bắt gặp cả chim ruồi, chim cổ đỏ và chim oanh tìm kiếm côn trùng; trong khi gõ kiến và cú nhỏ xây tổ trong những hốc rỗng trên thân. Một thân sồi lớn chứa đựng cả thế giới bên trong nó. “Sồi là Vua của các Loài Cây”, Stafford hào hứng viết, “là tinh thần, thể xác và môi trường sống của cả một nền văn minh”.

Một cây sồi lớn có thể tồn tại bao lâu? Không có khả năng đoán định chính xác, vì những cây sồi cổ xưa nhất thân đã bị rỗng, các đường vân gỗ cũng theo đó biến mất. Theo những ước tính khinh suất nào đấy (có cả của riêng tôi), nó nằm trong khoảng từ sáu trăm đến một nghìn năm. May thay, những cá thể sồi cổ tại Anh Quốc đã được ghi lại và miêu tả bởi Jacob Strutt trong cuốn sách tiên phong của ông, Sylva Britannica, được ấn hành lần đầu vào năm 1826. (Ông đã mượn một nửa tiêu đề từ John Evelyn.) Như một lẽ thường, phần nhiều loài cây cổ như sồi Yardley1, sồi Bull2 hay Cowthorpe3 – tất cả đã gục ngã hay đơn giản hơn, trở về tro bụi. Một vài trong số khác, như sồi Major4 ở khu rừng Hoàng gia Sherwood Forest, số phận của chúng đã cam chịu thành một kẻ tàn tật, được chống đỡ bởi những thanh nạng thép. Nhưng một vài trong số những cá thể nổi tiếng vẫn còn tồn tại.

Sồi “Majesty” ở công viên Fredville hạt Kent vẫn còn đứng vững, qua khoảng năm hay hay sáu trăm năm. Sồi Panshanger ở Hertfordshire mà Winston Churchill từng ngắm nhìn một thế kỷ trước vẫn còn hùng vĩ. Vĩ đại hơn cả là Sồi Bowthorpe5 ở Lincolnshire. Stafford miêu tả một cuộc viếng thăm của cô tới tạo vật ngàn tuổi này: “Tôi đồ rằng nó không dưới bảy trăm tuổi. Theo tính toán thì từ thế kỷ 18, thân cây đã rỗng đến mức không gian nội thất có thể dùng để đãi tiệc thịnh soạn cho tầm mười bảy người. Hiện nay, nó chỉ là nhà của một chú ngựa con và vài con gà. Nhưng người chủ sở hữu hào phóng vẫn mở cửa cho du khách viếng thăm.” Stafford tả lại những trải nghiệm ấy “như dời bước từ đời sống tầm thường để đắm chìm trong sự hiện diện của một tồn tại bất tử cổ xưa, gồ ghề nhưng lạ lùng thay, lại rất ấm áp.”

Quiver Tree Forest, Namibia; photograph by Beth Moon from her book Ancient Trees: Portraits of Time (2014). A collection of her color photographs, Ancient Skies, Ancient Trees, has just been published by Abbeville.

*

Một trong những chương hay nhất nói về một loài phổ biến và thường bị sỉ vả tại châu Âu – cây sung dâu. Stafford trích đăng một nhận định nổi tiếng của William Blake: “Không có ai nhìn thấy một sự việc theo cách thức giống nhau: Nếu một cái cây có thể khiến vài người nhỏ Lệ Cảm Động, thì với một số người khác, nó chỉ là một thứ màu xanh ngáng đường.” Liệu Black có nhớ tới loài sung dâu khi ông viết những dòng ấy? Tai tiếng của loài cây này chính bởi thói quen rụng thứ lá nhớp dính ngay trên vỉa hè hoặc đường ray, gây ra trì hoãn và tai nạn. Trong thực tế, “dịch ngọt” phủ trên lá sung dâu là một hỗn hợp sáp đậm đặc, giàu đường cùng chất thải của loài rệp vừng mà nó nuôi dưỡng. Danh sách những việc làm được cho là xấu xa của loài cây này chưa dừng ở đó. Stafford cho rằng, sung dâu là loài cây của sự “thừa mứa”.

“Vì nhiều lý do, sung dâu nhìn chung là một loài cây quá phóng khoáng. Nó phá hoại nhận thức tỉ lệ của con người, thậm chí dường như phơi bày sự lo âu đạo đức tiềm ẩn vì cái lối thừa mứa quá mức. Nó là loài cây đậm chất hoang phí: quá nhiều sáp, quá nhiều lá. Quá nhiều sung dâu, thật vậy.”

Hạt giống hình cánh cánh quạt của nó là cực hình với người làm vườn. Nó phá hoại thảm cỏ và cả khóm hồng. Tệ hại nhất, nó là loài “tầm gửi”, là một sinh vật ngoại lại xâm lấn, là kẻ xâm lược tàn độc từ Âu châu.

Stafford điềm tĩnh quan sát những cáo buộc trên và đưa ra những lập luận mạnh mẽ để bảo vệ chúng. Cô chỉ ra rằng loài sung dâu đã nhuộm sắc Anh quốc cả trăm năm trước, và trái ngược với thứ ảo danh huênh hoang này, số lượng của chúng vẫn không hề tăng trong nửa thế kỷ qua. Thật thế, chúng nằm gọn trong hệ sinh thái, khéo léo điều chỉnh số lượng và chiếm giữ không gian nơi các loài khác không phát triển mạnh. Chúng hào phóng theo cách tốt nhất. Chúng thêm nét thanh tao và sự an tĩnh cho bờ biển Yorkshire ảm đạm hay đảo đá Scotland. Để phản bác với những nhận định rằng chúng là những kẻ xâm lược ngoại lai, Stafford chỉ ra rằng đền thờ Thánh Frideswide tại giáo đường Oxford từ thế kỷ 13 đã khắc hình lá sung dâu năm thùy trên khối đá lớn mặt trước ngôi mộ. Điều này cho thấy, ở thời Trung Cổ, lá sung dâu là một biểu tượng của đạo Thiên Chúa, và có lẽ nó đại diện cho Thánh tích hay Năm Vết Thương của Chúa. Đánh giá từ những nghiên cứu hiện đại về phấn hoa hóa thạch cho thấy, có khả năng sau tất cả những lời đồn đoán, sung dâu là một loài bản địa.

Stafford tiếp tục chỉ ra rằng các nhà thơ mau mắn hơn người làm vườn trong việc coi trọng những phẩm hạnh của loài cây này. Cô trích dẫn một khảo cứu thi vị của John Clare về loài “sung dâu lộng lẫy” với tầng tầng những tán lá xanh đầy nắng. Những chiếc lá dinh dính, ông viết, là món quà to lớn của tạo hóa. Chúng ta phải lắng nghe những vần thơ “Những con ong hoan hỉ với đôi cánh háo hức,/ Dùng bữa trên những chiếc lá rộng cùng dịch ngọt phủ phê.” Stafford cũng đồng thời gợi nhắc chúng ta về bài thơ đắng cay ngọt bùi của Shelley Khúc ca gửi ngọn gió tây được viết dựa trên trải nghiệm của ông vào mùa thu năm 1819 khi lang thang trong những khu rừng sung dâu vùng Florence. Shelley ngập chìm trong cơn bĩ cực vì hai đứa con đã mất; và mùa thu năm ấy, chiếc lá sung dâu rơi đã gợi liên tưởng cho ông. Những chiếc lá khô bị đưa đẩy bởi ngọn gió tây – “Vàng hay đen, nhạt mờ hay đỏ thắm,/ Cả một bầy ôn dịch: ôi ngươi/ Kẻ đã đem những hạt giống trên trời”6. Nhưng những cái cây, ông hy vọng, sẽ sớm “tỉnh thức để tái sinh”. Ngọn gió tây đồng thời được coi như người phân phát hạt giống hồi sinh, nhưng cũng là bàn tay què quặt lấy đi lá rớt. Những chiếc lá úa hứa hẹn một cuộc hồi sinh: “Nếu Đông về, Xuân có ở sau chăng?”.

The Amorous Baobabs (Tạm dịch: Cây Baobab si tình), gần Morondava, Madagascar; được chụp bởi Thomas Pakenham trong quyển Những dấu mốc Thực vật (2002).

*

Trong chương về loài tần bì và cây dẻ ngựa, Stafford đưa ra những ghi chú ảm đạm hơn. Cả hai đều là loài châu Âu của chi toàn cầu, có tên khoa học lần lượt là Fraxinus excelsior và Aesculus hippocastanu, và đang bị đe dọa bởi hai căn bệnh chết chóc đến từ phương Đông. Trong thực tế, những cá thể phổ biến nhất tại châu Âu và Bắc Mỹ cũng đang đương đầu với những mầm mống diệt chủng Á châu này. Năm mươi năm qua, chúng ta đã mất rất nhiều cây du do loài nấm Trung Hoa được gieo rắc bởi bọ cánh cứng đẻ trứng nhiễm mầm bệnh dưới lớp vỏ cây. (Cái tên bệnh gỗ du “Hà Lan” dễ gây hiểu lầm – thực chất căn nguyên đến từ châu Á chứ không phải châu Âu.) Ngày nay những kẻ thù mới – gây bệnh sồi chết đột ngột, suy giảm gỗ sồi cấp tính, giẽ gai khô héo, cây dẻ ngựa ngọt tàn lụi – đang phá hủy phần lớn những công viên và khu rừng của chúng ta.

Vấn đề cấp bách nhất của châu Âu ngày nay là nấm Chalara, một loài gây bệnh khô ngược – khô cành và héo lá – ở cây tần bì, được cho là bắt nguồn từ châu Á vào thập niên 1990 trong những thùng gỗ hay gỗ lát pallet nhiễm nấm. Ở Đan Mạch, hơn 80% cây tần bì đã chết. Thảm kịch này đang vươn tay bao trùm Anh và Ireland và được dự đoán là sẽ gây ra mức độ tàn phá tương tự. Stafford chẳng có hi vọng nhiều nhặn gì để đối phó với Chalara. Có lẽ đã quá trễ để kiềm hãm chúng. Những biện pháp khống chế nên được áp dụng từ khi Chalara mới được phát hiện lần đầu ở Đông Âu. Và thậm chí nếu những biện pháp kịp thời phát huy tác dụng thì vẫn còn đó những nguy cơ tàn nhẫn hơn đến từ châu Á ẩn mình đằng sau Chalara – sâu đục thân ngọc lục bảo, Agrilus planipennis, một loài bọ cánh cứng xanh sáng Trung Hoa đã gậm nhấm nhiều khu rừng Bắc Mỹ. Vì thế Stafford để lại kết luận ảm đạm rằng không còn cách nào khác, và dù làm gì đi nữa chúng ta cũng sẽ phải mất gần như những cây tần bì và nhiều hơn nữa những “con đường lát gỗ thân quen, công viên cây xanh và những thị trấn không còn mái nhà, trơ trọi và trống rỗng.

Về cây dẻ ngựa, người ta tin rằng hơn nửa số loài ở châu Âu đã bị nhiễm vi khuẩn chảy máu hạt – một loại bệnh nhiễm gây ra dịch nhớt tiết quanh những vết thâm trên thân, và dần dần giết hại cả cây. Stafford đưa ra một góc nhìn tích cực đáng ngạc nhiên về mối nguy này. Cô cho rằng “bệnh chảy máu hạt dẻ ngựa giống như… một sự sợ hãi tâm lý hơn là một căn bệnh bằng xương bằng thịt. Giả chết dường như là một trò lừa gạt mà đám dẻ ngựa hẳn sẽ rất thích thú…” Tôi ước gì tôi có thể tin cô ấy. Ở Ireland, nơi tôi đang sống, những cá thể khỏe mạnh nhất trong công viên và những khu vườn đều đã ngã quỵ. Mỗi năm chúng tôi lại mất từ hai đến ba những cây lớn và kỳ vĩ nhất trong công viên. Không thể kháng cự, không một giải pháp.

Nhưng một tin tốt có thể đến tai và an ủi Stafford là sau tất cả đã xuất hiện cách giảm thiếu những hiểm họa này. Nếu tham vọng của chúng ta là phục sinh những loài cây đã mất, chúng ta có thể chọn những cá thể có cùng chi Trung Quốc, Nhật Bản hay Ấn Độ. Điều này có nghĩa ta sẽ có dẻ ngựa Himalaya, cây du Trung Hoa, tần bì Trung Quốc, cây sồi Nhật Bản và còn nhiều nữa. Những cá thể châu Á này tiến hóa song hành hàng triệu năm cùng những mối nguy có chung nguồn gốc. Ngày nay những cá thể này được cho là miễn dịch với nguồn bệnh – dựa theo ý kiến những chuyên gia tôi đã trò chuyện. Và tôi hy vọng rằng họ đúng. Dù sao đi nữa, tất cả sẽ thật rõ ràng chỉ trong vòng một trăm năm tới.

*

Đời sống bí ẩn của cây
Ảnh: Nhà sách Phương Nam Phú Xuân, Thừa Thiên Huế

Đời sống bí ẩn của cây từ Peter Wohlleben lại khai phá một lĩnh vực hoàn toàn mới, và John Evelyn chắc hẳn sẽ vô cùng hứng thú với những phát kiến này. Wohlleben là chuyên gia về rừng, đang làm việc tại cộng đồng địa phương ở Hümmel – một ngôi làng nhỏ trong rặng núi Eifel phía tây nước Đức. Trong nhiều năm dài, ông vốn làm quản lý những rừng giẽ gai, sồi, thông và vân sam với những dây chuyền hiện đại: chặt cây lấy gỗ khi chúng trưởng thành và khai thác gỗ bằng máy móc công nghiệp. Như ông nói, ông “biết nhiều về đời sống bí ẩn của cây tựa như một người đồ tể hiểu rõ đời sống tình cảm của động vật.” Nhưng dần dần, ông bắt đầu có một cái nhìn mới về những loài cây. Ông để ý thấy, những du khách thường sẽ ngưỡng mộ một cái cây mà theo ông là không có giá trị nào về mặt thương mại: cái cây càng vặn vẹo hay càng thô ráp, người ta lại càng thích chúng. Tình yêu riêng biệt ông dành cho tự nhiên – vết tích từ thời thơ ấu – lại được thắp sáng. Ông bắt đầu lưu tâm đến những dạng rễ kỳ quái và kiểu mẫu tăng trưởng khác thường. Ông viết, “Bất thình lình tôi nhận ra vô số điều diệu kỳ mà tôi khó có thể giải thích với chính bản thân mình.”

Trong khi đó một thế hệ khoa học gia mới cũng đang nghiên cứu về khu rừng địa phương của ông, bao gồm một nhóm từ đại học Aachen. Ở đó và ở Đại học Vancouver cách đó hơn năm ngàn dặm từ tỉnh lỵ British Columbia, những khám phá mới đã khiến Wohlleben kinh ngạc.

Cả hai nhóm đều phát hiện ra một hệ thống mạng lưới kết nối ngầm rộng lớn được gọi là một mycorrhiza, mà ở đó những loài nấm kết nối những giống loài khác nhau bằng những tín hiệu hóa học và xung điện trên những rễ cây. Đó là một mạng Internet truyền thông “wood wide web”. Thực vật có thể thật sự giao tiếp với nhau bằng cách chuyển đổi carbon thông qua rễ của chúng, sự trao đổi này dẫn đến một mối tương hỗ. Carbon là thức ăn của thực vật, được tạo ra từ quang hợp bằng cách sử dụng lá cây như một tấm pin mặt trời. Đôi khi cái cây nào đó sẽ đóng vai trò cai trị khu dân cư và phân phát cho những hộ khác nhiều carbon hơn số lượng chúng nhận lại, và sau đó vai trò sẽ được luân chuyển cho cá thể khác, cứ thế tiếp tục.

Khi sự tinh vi của mạng lưới ngầm vừa được khám phá, các nhà khoa học nhận thấy rõ ràng rằng thực vật không chỉ thu lợi bởi sự trao đổi thức ăn trong mạng lưới này. Chúng còn trao đổi các thông tin sống còn, cảnh báo những cây lân cận (và những cây con) những mối hiểm họa để rồi đưa ra giải pháp giảm thiểu mất mát. Lấy một ví dụ, nếu một lá cây bị ăn bởi một chú sâu bướm thì cá thể cây này sẽ gửi thông điệp thông qua mạng lưới mycorrhiza và cảnh báo các cây khác trong mạng lưới tiết ra những chất hóa học đẩy lùi loài sâu.

Về phía Wohlleben, những phát kiến này cũng đã xác nhận những điều trăn trở của ông, rằng: Bằng cách riêng mình, thực vật cũng có cảm xúc và chúng biết cách làm cách nào để giao tiếp với các cây khác, một kiểu lá lành đùm lá rách. Nhưng làm thế nào để đồng nhất điều này với thứ công việc đồ tể rừng xanh? May mắn thay, những cộng sự của ông – dân làng Hümmel, đều có bản chất yêu mến thiên nhiên như ông. Họ đồng ý từ bỏ nguồn thu nhập từ việc bán gỗ và xây dựng lên một khu bảo tồn thực vật trong rừng. Tất cả máy móc hạng nặng đều bị cấm. Khi một cái cây cần được đốn ngã, chỉ ngựa mới được cho phép sử dụng chuyên chở những khúc gỗ này. Khu rừng lại phát triển xanh tươi nhờ những quy luật hào phóng mới, và du khách đổ xô đến khám phá những phép màu này. Có lẽ chính nhờ nhận thức cao mà làng Hümmel tự mình tạo ra một thương vụ béo bở.

Đến nay Wohlleben vẫn tiếp tục làm việc với rừng. Mỗi ngày ông đều khám phá một điều mới mẻ: hiểu nhiều về cách chúng tồn tại và tàn lụi đi, về cách chúng sống đời thuận hòa với láng giềng xung quanh và với cả hệ sinh thái. Dĩ nhiên bây giờ ông là vị thần bảo hộ của khu từng hơn là một vị quản lý. Ông sáng lập những tour cứu hộ và sắp xếp một phần khu rừng như một địa mộ. Bây giờ, cuốn sách mới này làm ông thêm phần nổi tiếng một cách xứng đáng. Phiên bản tiếng Đức của nó nằm trong danh sách bán chạy nhất. Hơn hai mươi năm, những nhà khoa học đã luôn khám phá những điều bí ẩn bên dưới rễ cây và đi tìm cách chúng chia nguồn sống. Peter Wohlleben là người đầu tiên giải thích và phơi bày những phát kiến này. Ông lắng nghe cây, giải mã ngôn ngữ của chúng. Và bây giờ, ông đã thay mặt chúng lên tiếng cùng thế giới.

Hết.

Chú thích:

  1. Cây sồi trong bài thơ cùng tên của thi sĩ nước Anh William Cowper.
  2. Cây sồi vang danh trong công viên Wedgnock nước Anh, bị cháy rụi hơn 100 năm trước và được đoán định có tuổi thọ hơn một thế kỷ.
  3. Cây sồi khổng lồ có đường kính hơn 18 mét, bị bật gốc vào năm 1718 bởi một cơn bão và chết hẳn vào năm 1950.
  4. Cây sồi lớn ở làng Edwinstowe, tương truyền là nơi Robin Hood đã nghỉ ngơi.
  5. Được xem là cây sồi cổ nhất nước Anh với tuổi thọ hơn một thế kỷ và chu vi thân 12,3 mét.
  6. Bài thơ Ode to the West Wind, tạm dịch Khúc ca của ngọn gió tây được viết bởi Percy Bysshe Shelley, lời dịch Phan Cẩm Thịnh.

Ngô Thuận Phát dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Thomas Pakenham, đăng tại The New York Review of Books.

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Những bài viết có cùng chủ đề môi trường & thiên nhiên




Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng