Trích đăng

Kiến trúc hiện đại Việt Nam cần được thế giới công nhận

Kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam lấp đầy khoảng trống giữa chủ nghĩa công năng của Phong cách Quốc tế và nhiệm vụ tìm kiếm bản sắc, tinh thần vốn bị khuyết thiếu trong kiến trúc hiện đại trên toàn thế giới.

Published

on

Trích từ: Kiến trúc Hiện đại miền Nam Việt Nam
Tác giả: Mel Schenck
& Alexandre Garel
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Kiến trúc hiện đại đại diện cho tinh thần của thời đại công nghiệp, bao hàm nhiều nhánh khác nhau, nên từ những ngôi nhà phong cách thảo nguyên của Frank Lloyd Wright ở Mỹ đến những tòa nhà kính cao tầng và nhà hộp kim loại hiện diện trên khắp thế giới ngày nay.

Trong ba thập kỷ từ sau khi Nhật Bản chiếm đóng Việt Nam trong Thế Chiến II, các kiến trúc sư ở miền Nam đã phát triển một phiên bản kiến trúc hiện đại phù hợp với khí hậu nhiệt đới, và qua đó phản ánh bản sắc văn hóa của một nước Việt Nam vừa giành độc lập.

Với số lượng khổng lồ và chất lượng đỉnh cao của các công trình hiện đại được xây dựng trên khắp miền Nam Việt Nam sau Thế Chiến II, đất nước này đã trở thành một trung tâm kiến trúc hiện đại tuy chưa được công nhận trên thế giới. Quan trọng hơn cả là khi tiếp nhận kiến trúc hiện đại vào văn hóa Việt, nó đã trở thành lối kiến trúc bản địa cho hầu hết các căn nhà ở khắp miền Nam Việt Nam.

Sự giao thoa giữa đặc và rỗng tạo ra một phiên bản kiến trúc sống động hơn và do đó, trở thành phong cách nổi bật của chủ nghĩa kiến trúc hiện đại.

Miền Nam Việt Nam đã phát triển phiên bản kiến trúc hiện đại của mình như thế nào, và tại sao nền văn hóa này lại dễ dàng đón nhận chủ nghĩa hiện đại?

Phong cách kiến trúc này thể hiện việc tìm kiếm một bản sắc Việt Nam độc lập vượt khỏi chủ nghĩa thực dân, kết hợp với lối kiến trúc truyền thống Việt Nam mà không sao chép, từ đó thể hiện cái nhìn hướng đến tương lai, thay vì nhìn về quá khứ của người dân miền Nam.

Vậy tại sao câu chuyện này trước đây chưa từng được nhắc đến?

Đối với người Mỹ, Việt Nam gợi nhắc đến một cuộc chiến là một đất nước. Và không ai nhận thấy trong lúc chiến tranh diễn ra, người Việt Nam cũng tất bật xây dựng các khu chung cư, nhà ở, công trình công cộng nhằm kiến thiết một quốc gia mới. Tất cả đã không dự đoán được phong cách kiến trúc này lại mang màu sắc chủ nghĩa hiện đại hơn là phỏng theo các thiết kế truyền thống Việt Nam, hay tiếp nối lối kiến trúc thuộc địa.

Sau ngày thống nhất đất nước vào năm 1975, miền Nam Việt Nam trước đây được cho là nền văn hóa suy đồi, và phản ánh cái gọi là chính quyền bù nhìn của người Mỹ. Vì vậy, bất cứ thứ gì phát triển từ đây, kể cả lối kiến trúc hiện đại miền Nam, cũng đều bị cho là không đáng được nghiên cứu. Cũng chính vì lẽ đó, các học giả và kiến trúc sư Việt Nam đã không có bất kỳ tác phẩm nào về thời kỳ kiến trúc này, mãi đến vài năm trở lại đây, các học giả Việt Nam mới bắt đầu nghĩ đến việc trình bày vấn đề này trước thế giới.

Quyển sách này ghi nhận thành tựu xuất sắc của người miền Nam trong việc phát triển một nền kiến trúc hiện đại Việt Nam độc đáo trên thế giới.

Kiến trúc hiện đại Việt Nam là một câu chuyện cần được thế giới công nhận, và sự công nhận này phải bắt đầu từ các kiến trúc sư, các nhà sử học, nhà giáo dục và những người đam mê kiến trúc trên thế giới, đặc biệt là cộng đồng kiến trúc tại Việt Nam. Độc giả của quyển sách này sẽ khám phá ra rằng kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam sẽ lấp đầy khoảng trống giữa chủ nghĩa công năng của Phong cách Quốc tế và nhiệm vụ tìm kiếm bản sắc, tinh thần vốn bị khuyết thiếu trong kiến trúc hiện đại trên toàn thế giới.

Alexandre Garel và tôi tự hào giới thiệu ấn phẩm này nhằm mang lại sự công nhận xứng đáng cho những công trình kiến trúc hiện đại. Là kiến trúc sư người Mỹ cư trú tại Việt Nam từ năm 2006, tôi đã nghiên cứu kiến trúc hiện đại Việt Nam ngay từ lần chạm mặt đầu tiên và không khỏi ngạc nhiên về quy mô cũng như chất lượng của chúng ở Sài Gòn khi tôi ở đây những năm 1971-1972. Alexandre Garel sinh ra ở Pháp, sống tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011, anh đã ghi lại dấu ấn trong hoạt động sáng tạo của mình ở cả Việt Nam và Pháp với tư cách là phóng viên ảnh, nhiếp ảnh gia du lịch, và hơn thế nữa là một nhiếp ảnh gia kiến trúc. Alexandre đã trở thành nhiếp ảnh gia hàng đầu về di sản kiến trúc của thành phố Hồ Chí Minh và là một trong những người ủng hộ thành phố này nhiệt tình nhất. Tình yêu của anh ấy đối với đô thị và kiến trúc di sản được phản ánh qua những tấm ảnh đặc sắc trong tác phẩm này. Alexandre Garel cũng như tôi đều đam mê các công trình kiến trúc và di sản, đồng thời là những người đi đầu trong cộng đồng di sản kiến trúc đang phát triển ở Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng rằng bộ sưu tập những công trình kiến trúc hiện đại Việt Nam tiêu biểu của mình có thể làm cơ sở cho các học giả Việt Nam và quốc tế trong quá trình tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam. Do đó, quyền sách sẽ là phần mào đầu cho sự diễn giải và phân tích phê bình của người Việt về thời kỳ này. Tuy nhiên, quyền sách này tại thời điểm hiện tại trở nên giá trị hơn trong bối cảnh các di sản kiến trúc ở thành phố và nông thôn bị phá dỡ liên tiếp, bao gồm cả công trình theo kiến trúc hiện đại cũng như kiến trúc truyền thống Việt Nam và kiến trúc thuộc địa Pháp.

Đây không phải là một tác phẩm lịch sử mặc dù hoàn cảnh lịch sử miền Nam Việt Nam được mô tả sơ lược ngay từ đầu để làm sáng tỏ bối cảnh phát triển phong cách kiến trúc của các kiến trúc sư Việt Nam. Thông tin lịch sử về một số tòa nhà được đưa ra khi có liên quan đến quá trình phát triển thiết kế của chúng, nhưng chung quy, ngoài thời điểm khánh thành hoặc tên tuổi của kiến trúc sư thiết kế, thì những thông tin cụ thể khác của chúng sẽ không được cung cấp ở đây. Có một quyển sách hướng dẫn tuyệt vời về thành phố Hồ Chí Minh và các tòa nhà lịch sử của thành phố mang tên Exploring Saigon-Chợ Lớn: Vanishing heritage of Hồ Chí Minh City của Tim Doling, được Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản năm 2019. Quyển sách này ban đầu được xuất bản với tên Exploring Hồ Chí Minh City năm 2014.

Tuy nhiên đây không phải là một tác phẩm học thuật, dù tác giả có xu hướng nghiêng về khía cạnh đó. Đối với một người không thạo tiếng Việt hay tiếng Pháp, việc nghiên cứu vấn đề này quả là một thách thức. Tuy được hai sinh viên kiến trúc Việt Nam hỗ trợ tìm nguồn tư liệu, song một nửa trong số đó vẫn không thể tiếp cận được. Sách xuất bản ở nước ngoài rất khó tìm mua, thậm chí nguồn tư liệu học thuật hàn lâm tối thiểu cũng không thể tìm thấy tại các thư viện trường đại học hay thư viện công cộng. Thật đáng ngạc nhiên khi đến gần đây vẫn chưa có tác giả Việt Nam hay quốc tế nào chú trọng đến kiến trúc thời kỳ này. Việc nghiên cứu phân tích phong cách kiến trúc này hẳn sẽ thuận lợi hơn nếu chúng tôi có được cơ sở nền tảng để thực hiện. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nền tảng đó đã thúc đẩy việc nghiên cứu sơ bộ để xây dựng cơ sở dữ liệu hơn 400 công trình kiến trúc hiện đại ở miền Nam Việt Nam. Trong bài báo mang tên “Kiến trúc hiện đại của Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh” công bố vào tháng 8 năm 2017, hai nhà nghiên cứu kiến trúc Việt Nam Trương Thanh Hải và Vũ Thị Hồng Hạnh thuộc trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh đã cố gắng khảo sát và đánh giá các công trình kiến trúc hiện đại ở thành phố, dựa trên các giá trị được liệt kê làm tiêu chí đánh giá. Tuy vậy, chỉ mới có 40 công trình được nghiên cứu và liệt kê trong đó.

Do sự khan hiếm hồ sơ và tài liệu lưu trữ sẵn có, cũng như việc không thể tìm thấy đầy đủ những dữ kiện ngay cả khi chúng tồn tại, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai sót khó tránh khỏi trong quyển sách này. Nhìn chung, thời điểm xây dựng và tên tuổi của các kiến trúc sư đã được chứng thực bằng hai nguồn khác nhau. Khi có hai dữ kiện cùng lúc, nguồn đáng tin cậy nhất sẽ được sử dụng. Tên tuổi các kiến trúc sư và thời điểm xây dựng bị bỏ qua trong hầu hết các dự án trong tác phẩm này, khi dữ kiện không được tìm thấy hoặc giữa các nguồn có sự mâu thuẫn. Tôi cũng đã cố tránh việc suy đoán tên tuổi các kiến trúc sư dựa trên những công trình khác hoặc giả định phong cách của họ. Hầu hết các kiến trúc sư đều tham khảo ý tưởng của các đồng nghiệp khác, với sự tùy biến vừa đủ sao cho phù hợp với hoàn cảnh của từng dự án cụ thể. Những cụm từ thường dùng như “Ông lấy cảm hứng từ… vì thế thật nguy hiểm khi gán ghép công trình nào đó với tên tuổi một kiến trúc sư dựa trên những tiền lệ đã biết trước đây.

Quyển sách này dành cho cộng đồng kiến trúc Việt Nam và quốc tế, sinh viên thiết kế Việt Nam nói riêng và tất cả những ai đam mê kiến trúc trên thế giới nói chung, những người muốn tìm hiểu thêm về loại hình kiến trúc đặc biệt này. Quyển sách này là sự tổng hợp chuyên môn – nghiên cứu và lập danh mục các công trình kiến trúc dựa trên giá trị thẩm mỹ và giá trị xã hội của chúng.

Chúng tôi đã lựa chọn hơn 150 công trình kiến trúc hiện đại ở Việt Nam giữa thế kỷ XX để trình bày, trên cơ sở dữ liệu hơn 400 công trình và vẫn tiếp tục cập nhật các phát hiện mới mỗi ngày. Đây là một minh chứng cho sự tuyển lựa số lượng trong kiến trúc hiện đại Việt Nam, chứng tỏ người Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa hiện đại hơn hầu hết các nền văn hóa khác trên thế giới.

Các phong cách kiến trúc nói riêng, đặc biệt là trong các tài liệu học thuật, không được xác định rõ ràng hoặc vẫn đang trong quá trình tranh cãi. Do đó, đây phải là một quyển sách mang tính nhất quán. Tôi đã cố gắng chắt lọc các định nghĩa thành các thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu. Tuy nhiên, đến cuối cùng thì đây vẫn là quyển sách trình bày ý kiến của riêng tôi về những phong cách kiến trúc hiện đại, cũng như tác động của chúng với lịch sử kiến trúc. Một lần nữa, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bất kỳ sai sót hoặc hiểu lầm không tránh khỏi trong tác phẩm này.

Tiếp theo đây chúng ta sẽ thảo luận về các thuật ngữ kiến trúc. Tôi đã cố gắng tìm tiếng nói chung của độc giả quyển sách này và lược bỏ càng nhiều thuật ngữ kiến trúc càng tốt. Các kiến trúc sư Việt Nam có thể không hiểu một số thuật ngữ tiếng Anh, dù họ có lẽ cũng có các thuật ngữ tương tự bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, sẽ có một số biệt ngữ không thể thiếu trong việc mô tả kiến trúc, và chúng sẽ được định nghĩa ngay dưới đây. Những thuật ngữ này rất hữu ích để giải thích sự phong phú trừu tượng của kiến trúc hiện đại Việt Nam.

Thuộc tính kiến trúc (Architectonic): Trong kiến trúc cổ điển, các kiến trúc sư sử dụng các tác phẩm điêu khắc và chi tiết trang trí mang tính đại diện. Vì kiến trúc hiện đại mang tính trừu tượng nên các kiến trúc sư thêm vào các thành phần có giá trị kiến trúc, đặc biệt là những thành phần chức năng như bồn cây, hoặc các thành phần có tính chất tô điểm nhưng không phải là chi tiết trang trí. Chúng được coi là thuộc tính kiến trúc vì có hình thái kiến trúc trừu tượng.

Mức độ chi tiết (Articulated, articulation): Trong khi hầu hết các tòa nhà cao tầng theo Phong cách Quốc tế của kiến trúc hiện đại thế giới đều có lớp vỏ bề mặt bằng kính và kim loại nhẵn bóng, thì kiến trúc hiện đại Việt Nam lại phô bày rất nhiều điểm nhấn ở mặt tiền, vì vậy chúng tôi cho rằng kiến trúc hiện đại Việt Nam thường có tính chi tiết cao. Cấu trúc vỏ kép (chúng tôi sẽ định nghĩa rõ hơn kỹ thuật này ở phần sau) và việc áp dụng thành phần lam gió (brise-soleil) đem đến bố cục đa dạng giữa các khoảng hở và phần nhô ra ở mặt tiền khiến cho công trình trở nên hấp dẫn với mức độ chi tiết cao.

Lam gió (Brise-soleil): Phong cách kiến trúc hiện đại của kiến trúc sư người Pháp gốc Thụy Sĩ Le Corbusier thường chuộng ô khối, kỹ thuật này bao gồm các bức tường lửng vuông góc với tường bao ngoài của mặt tiền nhằm ngăn cản ánh nắng mặt trời làm nóng phần tường bao ngoài. Brise-soleil là một thuật ngữ tiếng Pháp dùng để chỉ các thành phần chắn nắng, và dù do Le Corbusier khởi phong, kỹ thuật này lại được các kiến trúc sư Brazil, Ấn Độ và Việt Nam sử dụng hiệu quả hơn cả nhằm giảm thiểu tác động của ánh nắng vùng khí hậu nhiệt đới. Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ lam gió cho bất kỳ thành phần chắn nắng nào, bao gồm cả những thành phần ở mặt ngoài tòa nhà hoặc được gắn trên các bức tường bao ngoài, chẳng hạn như tấm thông gió.

Bố cục (Composition): Các tòa nhà hình thành từ bố cục tương tự như tác phẩm âm nhạc hay nghệ thuật. Vào thời cổ đại, cấu tạo bắt nguồn từ những tiền lệ, quy tắc và trật tự. Kiến trúc hiện đại đã mượn ý tưởng và triết lý về việc kết hợp các bộ phận và lắp ráp chúng thành một bố cục mang tính trừu tượng hài hòa với đầy đủ chức năng. Khi các phong cách kiến trúc hiện đại toàn cầu theo đuổi sự tối giản với bố cục đơn giản, thì kiến trúc hiện đại Việt Nam lại cầu kỳ hơn và do đó, bố cục hài hòa là mục tiêu cơ bản của thiết kế Việt Nam.

Thành phần kiến trúc (Element): Bố cục thường do các thành phần khác nhau của tòa nhà cấu thành nên, chẳng hạn như cột và dầm. Kiến trúc hiện đại Việt Nam cầu kỳ hơn khi các kiến trúc sư bổ sung nhiều thành phần kiến trúc khác trong bố cục, nhất là các thành phần giúp giảm thiểu sự tác động của khí hậu nhiệt đới như phần mái đua hay lam gió.

Mặt tiền (Facade): Hình thức kiến trúc tạo nên các tòa nhà gồm nhiều mặt quay ra các hướng mà các kiến trúc sư thường gọi là mặt đứng. Mặt tiền chính thường là hướng ra vào hoặc hướng mặt đường.

Nhà phố (Shophouse): Nhà dãy, nhà liền kề hay nhà phố đều là các khái niệm dùng để chỉ dãy nhà chung vách, thường được gọi là vách ngăn. Những ngôi nhà không chung vách ngăn được gọi là nhà biệt lập, điều đó có nghĩa là các ngôi nhà này có một khoảng lùi so với ranh giới lô đất. Nhà phố là thuật ngữ phổ biến trên khắp Đông Nam Á, dùng để chỉ các dãy nhà sát vách dù chúng có hoặc không chung vách ngăn. Tầng trệt của chúng hầu như luôn được dùng làm cửa hàng bán lẻ hoặc bán buôn, quán cà phê, nhà hàng hoặc nhà xưởng quy mô nhỏ, còn không gian sinh hoạt thì nằm ở các tầng trên. Các cửa hiệu thời thuộc địa, đặc biệt là các cửa hàng ở khu người Hoa Chợ Lớn đều chung vách ngăn. Các nhà thầu người Pháp cũng xây dựng nhà dãy vào đầu những năm 1950 ở Sài Gòn, chúng được gọi là “nhà tập thể” chung vách ngăn. Tuy nhiên, từ những năm 1960, nhà phố không còn chung vách nữa, thay vào đó chúng là những thực thể cấu trúc khép kín dành cho các hộ gia đình đơn lẻ, mặc dù có thể có vài thế hệ thành viên sống chung một nhà. Đôi khi các phòng còn được cho thuê, nhưng chúng vẫn được coi là nhà phố. Do đó trong cuốn sách này chúng tôi quyết định sử dụng thuật ngữ“nhà phố” cho các trường hợp như trên.

Tính bản địa (Vernacular): Có một chương mang tựa đề “Kiến trúc bản địa trong mảng nhà ở và biệt thự Việt Nam” sẽ cắt nghĩa rõ ràng hơn về thuật ngữ “tính bản địa”. Học giả Paul Oliver, người đã phổ biến tính bản địa trong kiến trúc, nhấn mạnh khái niệm này“được sử dụng rộng rãi để chỉ kiến trúc bản xứ, bộ lạc, dân gian, thôn quê và truyền thống”. Tuy nhiên, định nghĩa về kiến trúc bản địa đã được mở rộng trong thời gian gần đây, bao hàm cả kiến trúc nhà ở trong thời đại ngày nay. Vì khái niệm này rất cần thiết trong nhận định miền Nam Việt Nam là một trung tâm của kiến trúc hiện đại, nên định nghĩa ngắn gọn được đưa ra ở đây là: Kiến trúc bản địa chỉ các công trình được xây làm nhà ở tại thời điểm hiện tại trong một khu vực văn hóa nhất định. Do đó, chúng là những ngôi nhà của người dân địa phương tiêu biểu cho lối kiến trúc chủ đạo trong một khu vực văn hóa.

Việc phân định các tầng nhà trong quyển sách này tuân theo hệ thống phân tầng ở Bắc Mỹ mà nhiều nước châu Á cũng sử dụng. Vì vậy, tầng trệt là tầng một, và tầng ngay trên tầng trệt là tầng hai. Trong khi đó, người dân miền Nam Việt Nam lại sử dụng hệ thống phân tầng của châu Âu nên các tòa nhà bắt đầu từ tầng trệt, còn tầng một là tầng nằm ngay phía trên.

Ngoài ra, trong cuốn sách này, tên gọi Sài Gòn được dùng trước mốc năm 1976, còn tên gọi thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng sau khi Sài Gòn đổi tên vào tháng 7 năm 1976. Tất cả địa chỉ công trình trong sách đều ghi tên đường phố, quận huyện và tỉnh thành theo đơn vị hành chính hiện nay. Hầu hết đường phố Sài Gòn mang nhiều cái tên khác nhau trong suốt quá trình lịch sử. Cuốn sách hướng dẫn của Tim Doling được nhắc ở trên, sẽ cung cấp đầy đủ lịch sử tên đường ở nơi đây.

Tôi và nhiếp ảnh gia Garel rất biết ơn những người đã hỗ trợ chúng tôi trong việc nghiên cứu và chụp ảnh các công trình trong cuốn sách này. Tôi vô cùng cảm kích kiến trúc sư Lê Thị Trà Giang, người đầu tiên cung cấp tài liệu kiến trúc Việt Nam cho tôi, và cô cũng là người đã khuyến khích tôi thực hiện cuốn sách này. Ngoài ra, kiến trúc sư Đàm Huỳnh Quốc Vũ của công ty Kientruc O cũng đã dành nhiều giờ thảo luận với tôi về kiến trúc hiện đại và bản sắc Việt Nam.

Nhà sử học Tim Doling là nguồn cảm hứng lớn lao khi tôi vinh dự được ông dẫn đi tham quan các công trình trong cuốn sách hướng dẫn về thành phố Hồ Chí Minh và Chợ Lớn vào năm 2012. Tôi hy vọng tác phẩm này có thể được xem như một lời tán dương nho nhỏ về quyển sách uyên bác của ông.

Nhà báo người Mỹ Paul Mooney, người có nhiều năm sinh sống và làm việc ở châu Á đã cần mẫn đọc hết bản thảo này và đưa ra nhiều nhận xét sâu sắc cũng như đề xuất biên tập.

Hai sinh viên kiến trúc Nguyễn Hạnh Uyên và Hoàng Yến Nhi đã đem đến các dịch vụ nghiên cứu vô giá thông qua sự bảo trợ của Quỹ Huỳnh Tấn Phát. Tại đây, tôi đã vinh dự được dẫn dắt một buổi hội thảo hằng tuần dành cho sinh viên nhằm nâng cao kỹ năng thuyết trình cũng như cập nhật các thuật ngữ quốc tế về kiến trúc cùng quy hoạch. Mục đích là để giúp các sinh viên này có cơ hội hợp tác với các chuyên gia thiết kế và xây dựng quốc tế. Tôi đã học hỏi được nhiều điều từ các bạn hơn những gì họ học được từ tôi, bao gồm cả các cuộc thảo luận giúp trau dồi lập luận trong quyển sách này. Giám đốc tổ chức – bà Huỳnh Xuân Thảo, và điều phối viên điều hành – bà Phạm Thụy Thanh Tuyền đã cung cấp các nguồn lực và hỗ trợ để phân công và quản lý các nghiên cứu sinh, cũng như khuyến khích hoàn thành quyển sách này.

Từ cộng đồng học thuật, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến Tiến sĩ Harold G. Nelson, đồng tác giả quyển sách Cách thiết kế (The Design Way), vì đã chỉ dẫn tôi hướng đi đúng đắn liên quan đến chủ nghĩa khu vực phản biện (critical regionalism). Tiến sĩ Caroline Herbelin, trợ lý giáo sư lịch sử tại Đại học Toulouse – Pháp, người đã tận tâm trả lời những câu hỏi của tôi về quyển sách lịch sử kiến trúc thuộc địa Pháp và kiến trúc hiện đại của cô, bao gồm cả những thông tin cần thiết về ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại tại Việt Nam.

Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả thành viên “Nhóm Kiến trúc Hiện đại Việt Nam” vì thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và sau đó là Phó Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quỹ Huỳnh Tấn Phát trao học bổng cho những sinh viên tài năng thuộc chuyên ngành kiến trúc quy hoạch trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh, nhằm góp phần tạo nên một thế hệ kiến trúc sư giỏi chuyên môn và có trách nhiệm với cộng đồng – những đóng góp của họ với trang Facebook của nhóm. Sự tham gia của họ trong dự án này đã giúp làm tăng nhận thức và sự nhiệt tình của cộng đồng đối với di sản hiện đại đa dạng của Việt Nam. Một nhà đồng sáng lập của nhóm này, kiến trúc sư Trần Hoành, đã chỉ cho tôi thấy sự khác biệt quan trọng giữa kiến trúc hiện đại Việt Nam thời kỳ hoàng kim và kiến trúc hiện đại đương đại từ năm 1975. Tom Hricko, một nhà đồng sáng lập khác của nhóm, đã luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện dự án sách này. Một thành viên khác của nhóm anh Thanh Nguyen, con trai kiến trúc sư hiện đại Việt Nam tài năng Nguyễn Văn Hoa, là người có trí nhớ đáng kinh ngạc về các công trình kiến trúc và kiến trúc sư miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. Chúng tôi đặc biệt biết ơn anh vì đã cho phép chúng tôi xuất bản hai bản vẽ trong bộ sưu tập của cha anh, cũng như một bức ảnh trong đó. Anh cũng ân cần đọc qua bản thảo và đề xuất một số thay đổi hữu ích trong đó. Chúng tôi cũng vô cùng biết ơn kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, con trai của kiến trúc sư lỗi lạc Ngô Viết Thụ, vì đã cung cấp những thông tin quan trọng về cha mình cùng những công trình của ông. Thành viên Lê Quốc đã phiên dịch và hỗ trợ Alexandre Garel trong suốt quá trình chụp ảnh các tòa nhà.

Với sự hỗ trợ thu thập thông tin về thời điểm xây dựng hay tên tuổi các kiến trúc sư của các thành viên nhóm “Saigon – Chợ Lớn Then & Now” và “Đài Quan sát Di sản Sài Gòn – Saigon Heritage Observatory Group”, chúng tôi xin phép gửi lời cảm ơn đến Tim Doling, người khởi xướng và đồng quản trị các nhóm trên, thay mặt cho các thành viên trong nhóm.

Xin gửi lời cảm ơn đến Brian Letwin, giám đốc điều hành kiêm đồng sáng lập Saigoneer, người ủng hộ nhiệt thành các nhóm Facebook trên, vì đã xuất bản hai bài báo về kiến trúc hiện đại Việt Nam của tôi vài năm trước.

Sẽ có ngày Alexandre và tôi không khỏi hối tiếc khi nhận ra mình đã sơ suất bỏ sót một vài người quan trọng ở mục này vì mải lo cho việc xuất bản tác phẩm đến tay bạn bè, công chúng. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một bước tiến quan trọng ghi nhận thành tựu của người dân miền Nam trong việc phát triển nền kiến trúc hiện đại Việt Nam độc đáo trên thế giới.

Đây là phiên bản thứ ba của quyển sách này. Phiên bản đầu tiên là ấn bản quốc tế được xuất bản dưới dạng sách bìa mềm in màu được xuất bản vào tháng 4 năm 2020. Phiên bản thứ hai được Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản dưới dạng sách bìa mềm đen trắng bằng tiếng Anh phát hành vào tháng 5 năm 2020. Phiên bản thứ ba là ấn bản tiếng Việt do Công ty Cổ phần Sách Phương Nam xuất bản vào năm 2022. Một vài thiếu sót cũng đã được sửa chữa, bổ sung trong ấn bản Việt ngữ này.

Mel Schenck
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng