Phía sau trang sách

Khi thiên hạ rao bán (và bẻ răng) tiểu thuyết dystopia

Dystopia đã chuyển từ phê bình chính trị công khai sang một hình thức giải trí giật gân và thương mại hóa – vậy chúng ta có thể làm gì?

Published

on

DYSTOPIA FOR SALE: HOW A COMMERCIALIZED GENRE LOST ITS TEETH
Brady Gerber

Khi Chuyện người tùy nữ của Hulu thắng giải Emmy, hạng mục Phim truyền hình xuất sắc năm 2017, người dẫn chương trình Bruce Miller đã mời Margaret Atwood – tác giả cuốn tiểu thuyết ra đời năm 1985 truyền cảm hứng cho bộ phim – lên sân khấu để nhận giải. Trong buổi tối hôm đó, loạt phim kể về nước Mỹ chế độ độc tài, cưỡng ép phụ nữ làm nô lệ cho mục đích sinh sản được ca ngợi không ngớt; sê-ri phim này còn giành thêm vài giải thưởng bổ sung và Hulu trở thành dịch vụ phim trực tuyến đầu tiên giành danh hiệu Emmy cao nhất. Đối với phần đông dân số Mỹ, Chuyện người tùy nữ đã tóm lược quang cảnh ảm đạm và đáng chán của thế giới năm 2017. Chiến thắng giải Emmy lần này biết đâu chừng đã xác nhận cảm giác rằng thời điểm này đang rất tồi tệ và người ta cần phải làm điều gì đó. Tuy nhiên, khoảnh khắc này thuộc về Hulu.

Tại hậu trường, Atwood đã nói chuyện với cánh phóng viên về chiến thắng của mình. “Đúc kết của tôi là đừng bao giờ nghĩ rằng viễn cảnh này sẽ không bao giờ trở thành sự thật. Chẳng có bất kỳ điều gì tồn tại trong sách vở mà con người chưa từng hiện thực hóa trong một thời điểm nào đó, tại một nơi nào đó.” Những bình luận của bà mang tính truyền cảm hứng nhưng lại khá mơ hồ. Và rồi Atwood, sau khi thảo luận về bộ phim Chuyện người tùy n do Volker Schlöndorff thực hiện năm 1990, bắt đầu liệt kê những phiên bản chuyển thể khác từ tiểu thuyết của mình:

“Nó đã được chuyển thành một vở ô-pê-ra, một vở ba-lê; và giờ đây đã trở thành một cuốn tiểu thuyết bằng tranh… Ngoài ra trên YouTube còn có một đoạn phim ngắn mang tên: ‘Rốt Cuộc Họ Đã Thực Hiện Một Chuyện Người Tùy Nữ Cho Đàn Ông’. Vì thế, câu chuyện thoát ra khỏi cái khung sẵn có. Mọi người đã gửi cho tôi những chú gà dệt kim mặc những trang phục hầu gái nho nhỏ, cùng với những bức ảnh về chó và mèo của họ [được hóa trang]. Nó ở đâu đó ngoài kia trên thế giới. Nó cũng trở thành chủ đề cho cuộc biểu tình đến cơ quan lập pháp tiểu bang. Bạn có thể nói rằng những người hầu gái đã trốn thoát. Họ ở ngoài kia. Nhưng họ sẽ lại đến với bạn một lần nữa trong phần hai!”

Khi Atwood kết thúc lời phát biểu với việc đề cập đến phần hai của loạt phim Chuyện người tùy n, dù có chút hóm hỉnh, nhưng đó không phải là điều tôi mong đợi. Với sự kiêu ngạo – hay ngây thơ – của bản thân, tôi đang trông chờ Atwood – người đã vẽ ra một tương lai đáng sợ nhưng cũng khả dĩ – sẽ đưa ra một lời kêu gọi hành động và cho tôi biết mình có thể làm gì để ngăn chặn viễn cảnh của bà trở thành hiện thực. Chẳng phải Atwood hẳn nên biết làm cách nào để ngăn chặn nó ư?

Tôi biết đáng nhẽ mình nên mừng cho Atwood. Chuyện người tùy n là cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và cần thiết, hiện đã tiếp cận với nhiều khán giả mới thông qua loạt phim truyền hình. Atwood xứng đáng được hưởng thành quả cần lao của mình và bà ấy chẳng nợ tôi điều gì cả. Tôi rất muốn tin rằng có ai đó xem chương trình này sẽ được thôi thúc hành động thay vì ngồi khắp nơi và đan những con gà dệt kim trong lúc chờ đợi phần hai và những điều tồi tệ sẽ xảy ra ở đó. Nhưng chúng ta đang sống trong thế giới của vô số màn hình. Dù muốn hay không, chúng ta vẫn không thể tránh được bộ phim. Việc chấp nhận hòa theo dòng chảy và theo dõi những diễn biến sắp tới hóa ra dễ dàng hơn nhiều.

*

Thành công gần đây của Chuyện người tùy n cũng như việc tác phẩm 1984 của George Orwell đã nhảy vọt trở lại danh sách bán chạy nhất, và sự bùng nổ của các tiêu đề nhai đi nhai lại rằng mọi thứ đột nhiên đang xảy ra “hơn bao giờ hết” hướng về một kết luận: chúng ta đang sống trong thời dystopia1 (không-tưởng-đen/ phản-địa-đàng).

Từ dystopia, trong thời kỳ nước Mỹ đang bị chia cắt về mặt chính trị, đã điềm nhiên thành mốt. Thành mốt, quá đà, và ngay lúc này bị lạm dụng.

“Thói bi quan nay trở nên thời thượng”, tờ Vulture tuyên bố vào tháng Tám trong danh sách 100 tác phẩm vĩ đại nhất thuộc thể loại hư cấu dystopia. Bất kể mối quan tâm lớn nhất của bạn là gì – mâu thuẫn chính trị, biến đổi khí hậu, người da màu và phụ nữ bị áp bức, sự phát triển không kiểm soát được của công nghệ – thì vẫn có một viễn cảnh tương lai ác mộng đang chờ đón bạn. Nếu bạn thực sự muốn nắm rõ tình hình, bạn có thể bao bọc bản thân với mọi kết cục ảm đạm tiềm tàng. Mọi người đều được phép tạo ra một dystopia của riêng mình; họ dễ dàng cá nhân hóa nó như một danh sách iTunes.

“Thói bi quan nay trở nên thời thượng”

Từng là phương tiện đầy tham vọng để chỉ trích xã hội và chính trị, nhưng giờ dystopia đã bị giáng xuống thành phổ ngữ có thể đắp vào bất cứ thứ gì để nghe có vẻ theo kịp thời đại. Tuy thế, từ này vẫn chưa biến thành hoàn toàn vô nghĩa; nó vẫn gợi lên một nỗi sợ nhất định – và nghệ thuật dystopia cao quý vẫn còn đang sinh sôi. Nhưng nó đã trở nên quá thừa mứa. Chúng ta đã biết có vô vàn lý do để sợ hãi, rằng chẳng có ai đơn độc hành động mà có thể thay đổi tương lai. Chúng ta đang bị bão hòa với dystopia.

Nhiều người thuộc thế hệ của tôi lần đầu định hình quan niệm về dystopia từ việc đọc 1984Thế giới mới tươi đẹp của Aldous Huxley ở trường. Chúng tôi trưởng thành với Big Brother2, và bây giờ chúng tôi lại trốn tránh vào những thế giới hư cấu đáng sợ khi mọi thứ trong đời thực bắt đầu giống với những viễn cảnh ấy. Khi những câu chuyện này (rất nhiều trong số đó chứa đựng lời phê bình chống tư bản hoặc chống chủ nghĩa tiêu thụ) ngày càng phổ biến, chắc chắn chúng sẽ được chuyển thể thành các chương trình truyền hình, điện ảnh, hoặc quảng cáo của Apple. Giống như việc mỗi năm chúng ta có một bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao mới cho đến khi ngày tận thế, chúng ta được nghe kể về những câu chuyện từa tựa dystopia mà mình đã học hết ngày này qua ngày khác vào năm nhất trong trường trung học, nhiều trong số đó đã được viết từ lâu và, như Angelica Jade Bastién chỉ ra, tuyền một màu trắng. Chúng ta đã thực sự mắc kẹt khi nhìn thế giới như tuổi-mười-lăm.

Dystopia từng là tiểu thuyết của sự phản kháng,” chuyên gia sử học Jill Lepore đã viết cho tờ New Yorker vào tháng 6, “[bây giờ] nó trở thành tiểu thuyết của sự quy phục, về một thế kỷ 21 không đáng tin cậy, cô đơn và ủ rủ, tiểu thuyết của những tin giả và chiến tranh thông tin, tiểu thuyết về sự bất lực và vô vọng.” Lepore tiếp tục:

“[Dystopia] không thể vẽ nên một tương lai tốt hơn, và nó không yêu cầu bất cứ ai phải bận tâm nghĩ cách tạo ra một tương lai như thế. Nó nuôi dưỡng sự bất bình và phẫn nộ; nó không kêu gọi sự can đảm; nó thấy rằng hèn nhát là đủ. Lời khuyên duy nhất của nó là: Hãy tuyệt vọng nhiều hơn. Nó hấp dẫn cả cánh tả và cánh hữu, bởi vì, sau tất cả, nó chẳng mấy khi đòi hỏi về mặt văn chương, chính trị hay trí tưởng tượng của đạo đức mà chỉ yêu cầu bạn tận hưởng sự bầu bạn của những người có chung nỗi sợ về tương lai với bạn.”

Theo quan điểm của Lepore, hiện nay chúng ta khơi gợi lại dystopia là để trốn tránh chứ không phải để phản kháng.

Nhưng Hollywood, quan tâm nhiều đến việc trung thành với thương hiệu hơn là tạo ra những suy nghĩ tiến bộ, họ muốn khiến ta tin rằng chiến thắng của một chương trình bình đẳng giới kiểu dystopia hẳn nhiên chính là một đổi thay ý nghĩa.

Đặc biệt với Chuyện người tùy nữ, khi những người biểu tình hóa trang thành hầu gái và diễu hành khắp các tòa thủ phủ của bang, đôi lúc, ngoài ý nghĩa phản kháng thì việc đó lại tình cờ quảng cáo miễn phí cho Hulu. Thực tế, cuộc biểu tình hầu gái trọng yếu đầu tiên là một chương trình quảng cáo của Hulu theo đúng nghĩa đen. “Chúng tôi không hề cố tạo ra một tuyên bố chính trị,” một trong những người đứng đầu bộ phận marketing của Hulu cho hay đương lúc cuộc biểu tình diễn ra vào cuối năm ngoái tại SXSW3.

Trong một quốc gia đầy những kẻ đam mê chính trị, việc bênh vực nghệ thuật dystopia nay trở thành lựa chọn hàng đầu cho những ai muốn thể hiện lập trường chính trị mà không cần thật sự làm bất cứ điều gì. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận rằng mình đang sống trong dystopia, vậy đã quá muộn rồi. Cuộc đời chỉ phỏng theo nghệ thuật thôi.

Đây không phải là một lời kêu gọi ngừng đọc văn học dystopia. Thế giới cần các nhà văn như George Orwell và Margaret Atwood để đặt ra những câu hỏi khó về quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nhưng như thế là chưa đủ. Chúng ta cũng cần tưởng tượng một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân, không đơn giản với tư cách là người tiêu dùng – dẫu tiêu dùng nghệ thuật hay văn học – mà như một công dân.

*

Dystopia là từ trái nghĩa của utopia4, thuật ngữ do Sir Thomas More miêu tả một trạng thái hư cấu hoàn hảo dùng làm tiêu đề bản châm biếm chính trị cổ điển năm 1516 của ông. Utopia, ở dạng ban đầu, nghĩa đen là “không đâu cả”. Nếu utopia là lý tưởng không thể đạt được, thì dystopia đi ngược lại: cơn ác mộng không thể tiến tới. Năm 1868, nhà triết học và kinh tế học người Anh John Stuart Mill đã xác nhận định nghĩa này khi ông trở thành người đầu tiên sử dụng dystopia như một từ riêng biệt.Trong bài phát biểu tại Quốc hội để chỉ trích sự cai trị của người Anh ở Ireland, Mill đã tuyên bố: “Nếu gọi [những người cai trị này] là utopia thì quá khen ngợi rồi. Phải gọi họ là dystopia… vì những gì họ tỏ vẻ ủng hộ là quá tồi tệ để được hiện thực hóa.”

Các tài liệu dystopia đầu tiên đều dựa trên quan điểm của More và Mill, và trong khi bản đồ thế giới ngày càng mở rộng, họ dùng khoảng cách địa lý để tạo ra những nơi chốn không thể chạm tới và không mong đợi. Những dystopia hư cấu đầu tiên là những địa điểm cụ thể hiện hữu song song với thế giới thực của tác giả, như hòn đảo kỳ lạ trong Gulliver du ký của Jonathan Swift, vùng đất Darwinian hữu danh vô thực ở Erewhon của Samuel Butler, hay nền văn minh tương lai của H.G. Wells trong bước nhảy thời đại tại Cỗ máy thời gian. Sức mạnh của những tác phẩm đầu tiên là chúng cho thấy sự tương phản rõ rệt giữa bản thân thế giới thời bấy giờ và thế giới như nó có thể trở thành. Lemuel Gulliver đã phiêu lưu đến nhiều nơi khác nhau như Lilliput, nhưng anh ta luôn quay trở lại nước Anh thời hiện đại để suy ngẫm về những gì anh ta đã thấy và nó làm thay đổi thế giới quan của mình như thế nào. Người đọc có thể không đồng ý với kết luận của Swift, nhưng ông đã đưa ra một lời phê bình rõ ràng.

Vào đầu thế kỷ 20, những tiến bộ công nghệ (máy bay của anh em nhà Wright, xe hơi đầu tiên của Ford, tín hiệu vô tuyến xuyên Đại Tây Dương của Marconi) và Chủ Nghĩa Tân Đế Quốc khiến thế giới trở nên nhỏ hơn và phức tạp hơn, đầy tiềm năng và ít tiền lệ. Những câu chuyện mới phải được viết nên, vì vậy thế hệ các nhà văn tiếp theo của dystopia sẽ hướng về tương lai để chỉ trích và chạy trốn thế giới hiện đại. Từ The Machine Stops của E. M. Forster (con người chỉ biết dựa vào máy móc để nói chuyện với nhau), đến tiểu thuyết Chúng tôi của Yevgeny Zamyatin (tất cả bị kiểm soát và không hề có tự do) và cuối cùng là Thế giới mới tươi đẹp (chúng ta sống trong một khuôn khổ sẵn có), những câu chuyện này không còn là sự châm biếm chính trị thời cuộc mà là những dự đoán táo bạo về “chuyện gì sẽ xảy ra”. Người đọc được trao quyền để rút ra những điểm tương đồng giữa tác phẩm và thực tế để xác thực xem những câu-chuyện-tương-lai-xa có phải là cảnh báo nghiêm trọng hay chỉ là những câu chuyện ngớ ngẩn.

Khi Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, và rõ ràng rằng giờ đây thế giới có thể kết thúc chỉ với một cú bấm nút, thì những câu chuyện mới cần phải được viết ra. 1984, xuất bản năm 1949, đã kết thúc “thời kỳ hoàng kim” dystopia nghệ thuật, trước khi các nhà văn chuyển trọng tâm sang bối cảnh tận thế kịch tính thời Chiến tranh Lạnh. Làn sóng mới trong văn chương dystopia – bao gồm 451 độ F của Ray Bradbury, I Have No Mouth and I Must Scream của Harlan Ellison, và The Girl Who Was Plugged In của Alice Sheldon – bắt đầu có cảm giác như là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng sến súa, mặc cho nhiều tác phẩm đa dạng và đầy thách thức ra đời, như là Neuromancer của William Gibson (khai sinh ra cyberpunk), A Clockwork Orange của Anthony Burgess (phong cách Orwell với niềm hân hoan phản văn hóa), và, tất nhiên, Chuyện người tùy nữ (một câu chuyện ảm đạm về kỳ thị nữ giới trong một thể loại quá ư đực tính). Vào cuối những năm 80, dystopia đã phát triển từ một thể loại cá biệt nghiêm ngặt trở nên phổ biến, tuy thế vẫn có tác dụng cải biên cho bất kỳ tiểu thuyết nào muốn tiên đoán về một tương lai chết chóc.

Một bước tiến đáng kể của dystopia, tuy thế, đã xảy ra không chỉ trong sách mà trên cả màn hình. Bộ phim dystopia vĩ đại đầu tiên là Metropolis (1927) của đạo diễn Fritz Lang, nhưng bắt đầu từ những năm 70, một số tiểu thuyết về dystopia đã được chuyển thể thành phim rất có sức ảnh hưởng, nổi bật nhất là A Clockwork OrangeNgười máy có mơ về cừu điện không? của Philip K. Dick (đổi tên thành Blade Runner). Ngoài ra còn có những câu chuyện mới về dystopia như THX 1138 (tác phẩm đầu tay của đạo diễn George Lucas), Born in Flames của Lizzie Borden và Brazil của Terry Gilliamine. Trên màn hình, tương lai vẫn ảm đạm, nhưng giờ đây nó đang bùng nổ, chải chuốt và có thể được tiêu thụ trong khoảng hai giờ.

Quả bom dystopia lớn kế tiếp tập trung ở trẻ em và thanh thiếu niên. Cuốn tiểu thuyết Người truyền ký ức (1993) của Lois Lowry đã trở thành một trong những tiểu thuyết dystopia nổi tiếng đầu tiên viết cho khán giả trẻ với nhân vật chính là một cậu thanh niên, và nó đã mở ra cánh cửa cho vô số tiểu thuyết dystopia dành cho giới trẻ – có lẽ đạt đến đỉnh cao khi cuốn tiểu thuyết Đấu trường sinh tử năm 2008 của Suzanne Collins được chuyển nhượng truyền thông (tương tự với nhiều cuốn sách ăn theo). Đối với người lớn, thì dystopia tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên màn hình hơn là trên trang giấy. (Battle Royale của Koushun Takami và Mãi đừng xa tôi của Kazuo Ishiguro là hai ngoại lệ đáng chú ý).

Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt, nhưng thế giới vẫn đang chán nản, và xuất hiện nhiều dystopia mới có nội dung giống hệt nhau – thoát ly khỏi cái đáng chán ấy. Các bộ phim như bản chuyển thể Ghost in the Shell của Mamoru Oshii, Strange Days của Kathryn Bigelow, và The Matrix của Wachowskis xảy ra trong tương lai gần với sự thấu-hiểu-hết-thảy, kiểm-soát-hết-thảy những công dân bất-lực-hết-thảy. Trong sự toàn cầu hóa thế kỷ 21, cái tương lai gần đôi khi rất buồn cười (Idiocracy của Mike Jugle) nhưng thường thì nó chỉ ảm đạm (bản chuyển thể của Alfonson Cuarón từ Children of Men của P. D. James, District 9 của Neill Blomkamp và Snowpiercer của Bong Joon-ho).

Và TV giờ đây, nhắm chừng là phương tiện ảnh hưởng hơn cả bởi lãnh địa trực tuyến mới mẻ, dần trở thành nơi trú ngụ cho nguyên tác hay bản làm mới của những câu chuyện dystopia. Chuyện người tùy nữ sẽ trở lại với phần hai, sắp tới là 451 độ F trên HBO, và chúng sẽ chiếm suất cạnh bên một loạt những chương trình dystopia mới và chuyển thể và các chương trình tiên đoán cổ điển khác và các bộ phim sẽ được quảng bá kịp thời, lặp đi lặp lại.

*

Dystopia đã chuyển từ phê bình chính trị công khai sang một hình thức giải trí giật gân và thương mại hóa – vậy chúng ta có thể làm gì? Thật sự là rất nhiều.

Vào đoạn cuối 451 độ F, nhân vật chính của Bradbury, Montag tìm thấy một nhóm những người mê sách đang lưu vong nhưng đã ghi nhớ những cuốn sách; họ chờ đợi xã hội cũ chấm dứt để có thể xây dựng lại thế giới bằng trí tuệ của văn học. Điều này thực sự đến, và Montag trở lại với những người yêu sách để xây dựng một thế giới mới. Đây là một cách gọn ghẽ để hoàn thành một cuốn sách, nhưng chúng ta không cần chờ đợi thế giới kết thúc để tạo ra một sự thay đổi có ý nghĩa.

Mặc dù thế giới cần những nhà văn – những người đặt ra những câu hỏi khó và thách thức những giải pháp sơ sài, nhưng thế giới cũng cần những phóng viên phát ngôn cho những người không thể lên tiếng hoặc tiếng nói bị phớt lờ. Thế giới cần các tổ chức 350.org, Trung tâm Luật Giffords, RAINN và các chương trình tình nguyện để mở rộng việc giáo dục công dân. Thế giới cần chúng ta bỏ phiếu, đặc biệt ở quy mô nhỏ lẻ, nhưng ta cũng phải đứng sau sắp xếp những căn nguyên cụ thể và kêu gọi hành động. Thế giới cần chúng ta có những hành động tạo ra thay đổi nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn thay vì từ bỏ khi mọi thứ thay đổi quá nhanh. Thế giới cần chúng ta cố gắng hơn, và thông minh hơn.

Những khoảnh khắc hy vọng hiếm hoi trong dystopia thường ám chỉ rằng để  cứu vãn tương lai, tất cả phụ thuộc vào nhân vật chính – người phải bất chấp những tỷ lệ bất khả thi để đánh bại kẻ xấu trong cuộc đấu một mất một còn. Trong thực tế, tiến bộ là công việc của nhiều cá nhân có đầu óc nhưng không hoàn hảo; họ muốn cải thiện cuộc sống của chính mình và người khác, theo những cách khác nhau. Điện đàm với các vị thượng nghị sĩ chẳng thú bằng việc F5 danh sách chờ xem trên Netflix hay trông quyến rũ lộng lẫy như khi mang trên mình cái huy hiệu “Time’s Up”. Học cách để hành động chính xác là khó khăn, rất áp lực, và thường làm ta thất vọng. Nhưng nó hoàn toàn xứng đáng.

Hết.

Hoài Ân dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Brady Gerber, đăng tại Literary Hub.

Chú thích:

  1. Dystopia (phản-địa-đàng) là từ chỉ một cộng đồng hoặc xã hội tiêu cực đến đáng sợ. Những đặc điểm thường gặp tại dystopia là nhân tính bị đánh mất, chính quyền bạo ngược chuyên chế, thảm họa môi trường hoặc những đặc trưng khác của một xã hội đang xuống dốc đến bến bờ diệt vong.
  2. Big Brother là nhân vật giả tưởng trong tác phẩm 1984 của George Orwell, là lãnh đạo của chế độ độc tài Oceania.
  3. SXSW (South by Southwest) là một chương trình hội nghị điện ảnh, truyền thông tương tác và lễ hội âm nhạc tổ chức thường niên vào tháng Ba tại Texas, Hoa Kỳ.
  4. Utopia là một cộng đồng hoặc xã hội gần lý tưởng hoặc hoàn hảo trên mọi mặt.

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng